Chương XXI
Rồi năm 1914 cũng tới nữa, năm đó là năm cuối cùng của tập cố sự về chiếc cầu trên sông Drina. Cũng như tất cả các năm trước, nó tới chậm chậm theo cái điệu của mọi sự vật trên thế gian này, nhưng lần này cùng với tiếng ầm ầm của những biến cố luôn luôn mới mẻ và dị thường dồn dập như những làn sóng đập vào bờ.
Đã biết bao nhiêu năm trôi qua trên thị trấn gần cầu và sẽ còn biết bao năm trôi qua nữa. Mỗi năm một khác, nhưng năm 1914 vẫn đặc biệt hơn hết thảy: ít nhất đó là cảm tưởng những người đã trải qua năm đó. Họ cho rằng tất cả những điều người ta đã nói, đã viết về năm đó cũng không diễn đúng được hết những cái người ta thấy trong cái số phận con người thời đó. Ai có thể tả được nỗi run rẩy nó nhất đán xâm chiếm toàn thể quần chúng rồi truyền qua các vật vô tri, các quốc gia, các nhà cửa đó. Làm sao tả được những dao động tập thể đó, mới đầu là sợ sệt, im lặng, rồi phát điên lên đến tự tử, có kẻ nổi thú tính khát máu, cướp bóc, có người lại hy sinh cao thượng như bậc thánh thần. Những cái đó không thể nào diễn ra được (…) Rồi để lâu thì người ta quên đi. Vì nếu thiên hạ không quên thì làm sao những cái đó lại có thể tái diễn ra nữa?
[Mùa hè năm 1914, đó là lúc giao thời trong lịch sử nhân loại: một thời đại đương cáo chung mà người ta nhận định được rõ ràng và một thời đại sắp bắt đầu mà người ta mới chỉ lờ mờ nhận thấy. Nhưng chuyện đó, để cho các thi sĩ và các học giả sau này nghiên cứu, giải thích.
Ở đây chúng ta chỉ biết rằng năm đó là năm tai hại cho chiếc cầu trên sông Drina.
Những người sống ở đây vào thời đó đều nhớ rõ mùa hè năm 1914 trời trong và đẹp hơn năm nào hết. Đã bao lâu nay mận không hề sai quả như vậy, mà mùa màng coi mòi cũng rất tốt. Sau mười năm náo loạn người ta hy vọng được một năm yên ổn, sung túc để bù những năm trước (Cái bi đát nhất của loài người là tuyệt nhiên không đoán trước được tương lai, mặc dầu có biết bao thiên tư, kiến thức và nghệ thuật khác).
Lâu lâu mới được một năm đặc biệt như năm đó: Sự nắng ấm của dương quang điều hòa với sự ẩm thấp của hơi đất thật là có lợi cho vạn vật: Đất căng lên, cây cỏ nẩy lộc hoa lá tươi tết gấp trăm các năm khác. Bò cái và dê cái nặng nề bước và phải giạng hai chân sau ra vì vú căng quá, no tròn. Cá chép cứ mỗi năm, vào đầu hè, xuôi dòng sông Rzav từng đám đề đẻ trứng ở vàm sông, năm đó sao mà nhiều thế, đến nỗi trẻ con lội xuống những chỗ cạn, xúc từng thùng nhỏ đổ lên bờ. Mà những phiến đá thưa thớt của chiếc cầu cũng hóa ra mềm hơn, như có sinh khí vậy.
Trong thung lũng Vichégrad hiếm lắm mới gặp được một mùa hè như vậy, và hễ gặp được thì người ta quên hết những ngày khổ cực, cũng không hề nghĩ tới những nỗi bất hạnh sau này có thể xảy ra nữa.]
Nông dân luôn luôn kiếm được lý do để phàn nàn mà cũng phải nhận rằng năm đó bắt đầu thật tốt đẹp, nhưng lại nói thêm: “Giá tiếp tục được như vậy hoài! …” Trong khu thương mại, người ta tất tưởi, hăm hở làm ăn, đầu cúi gầm xuống như những con ong rúc đầu vào đài hoa. Họ tản mát vào các làng chung quanh thị trấn, đặt cọc để mua trước lúa mùa tới và mận lúc đó mới đâm bông. Nông dân thấy bọn thương nhân quỉ quyệt ùa tới như vậy lại thấy mùa màng năm nay tốt quá, đâm ra băn khoăn, thận trọng thành thứ nét mặt ưu tư cũng như những năm mất mùa.
Bọn thương gia giàu lớn, quyền thế hơn thì cứ ngồi nhà và nông dân phải tới họ. Ngày phiên chợ, tiệm của Pavlé Rankovitch đầy những nông dân tới vay tiền. Tiệm của Santo Papo – mấy năm nay đã thành người giàu nhất trong đám Do Thái Vichégrad – thì cũng vậy. (Vì tuy có nhiều ngân hàng mở từ lâu rồi, có thể đem ruộng đất nhà cửa thế chân để vay tiền được, nhưng nông dân, nhất là những người già vẫn thích lối cũ lại vay các nhà giàu trong thị trấn, chỗ họ lại mua đồ và ông cha họ cũng đã nhiều lần nhờ cậy).
Thương điếm của Santo vào hạng cao nhất chắn nhất trong khu thương mại Vichégrad, xây bằng đá cứng tường dày, mặt đất lát đá. Khung cửa và cánh cửa bằng sắt nặng nề; cửa sổ cao và hẹp có chấn song sắt dày, mắt khít.
Phía trước dùng làm cửa hàng, bày bán đủ thứ, từ những đĩa chén tráng men đặt trên các kệ tới những đèn, lồng chim, bẫy chuột treo lên trần nhà, những thùng đinh, xi măng, xẻng cuốc, mai, thùng dầu lửa, thùng sơn … chất trên sàn nhà …
Nhưng phần lầu hàng hóa chứa đầy trong các căn ở phía sau vô bằng một cửa thấp có cánh bằng sắt, và chỉ chừa một lối hẹp giữa những dãy hàng chất cao như bức tường. Ở đây quanh năm lúc nào cũng tối mò mò, phải cầm đèn vô. Không khí lạnh lẽo và nặc mùi đá của sàn nhà, của tường cùng mùi sắt của hàng hóa. Làm trong thương điếm này, hít không khí đó, chỉ trong vài năm, những thanh niên hồng hào, lanh lẹn cũng biến thành những thư ký xanh xao phị ra, nhưng khéo léo và cần kiệm cho tới suốt đời.
Người đàn ông lúc này đơng ngồi ở một cái bàn nhỏ trong của tiệm lạnh lẽo và tối tăm, bên cạnh cái tủ sắt mang nhãn hiệu Wertheim, thật khác xa chàng Santo lanh lợi hăng hái ba chục năm trước, hồi mà chàng biết la lớn: “Một ly rhum cho thằng Chột nào.” Thời gian và công việc đã làm cho chàng thay đổi. Bây giờ đã thành một ông già nặng nề, mập, nước da vàng vàng, mắt thâm quầng phải đeo một cặp kính dày, thường phải mở lớn ra, có vẻ sợ sệt và nghiêm khắc. Trong bộ y phục Thổ thời trước, ông ta chỉ còn giữ mỗi chiếc mũ fez màu anh đào. Thân phụ ông, Mento Papo, bé nhỏ, đã ngoài tám chục tuổi, mắt tuy kém, chảy nước mắt sống nhưng vẫn còn vẻ khỏe mạnh, hôm nào nắng ráo cũng lại tiệm nhìn con trai ngồi bên cạnh tủ sắt và cháu nội ở quầy hàng, hít không khí trong tiệm rồi quàng vai đứa chắt mười tuổi mà về nhà.
Santo có sáu người con gái và năm người con trai, hầu hết đã thành gia thất. Người con trai, Rao đã có con lớn, và giúp cha ở cửa tiệm. Một người con trai khác, mang tên ông nội, đương học trung học ở Sarajevo. Nó xanh xao, cận thị, mảnh khảnh, từ hồi tám tuổi, trong những buổi tối giải trí ở trường đã ngâm thơ Zmaj[111], giọng rất hay; nhưng nó không thích theo các buổi học giáo lý Do Thái, cũng không muốn giúp việc ông nội ở cửa tiệm. Nó bảo sau nó sẽ thành kép hát, hoặc theo một nghề đặc biệt nào đó dễ nổi danh Santo đương cúi đọc trong một cuốn sổ lớn, đã nhờn và dơ, và gần ông ta, một nông dân Ibro Tchémalovitch ở Ouzavnitsa, ngồi co ro trên một cái thùng đinh trống. Santo tính xem Ibro đã thiếu mình bao nhiêu và bây giờ có thể cho hắn vay thêm bao nhiêu nữa với điều kiện nào.
Ông ta tính thầm bằng tiếng Y Pha Nho:
Cincuenta cincuenta y cho sesenta y tres …
Chú nông dân ngó ông ta, vẻ đợi chờ, lo lắng như coi một phép phù thủy vậy … Khi Santo cộng xong rồi, cho biết cả vốn lẫn lời còn thiếu bao nhiêu, chú ta chậm chạp hỏi nho nhỏ: “Đúng vậy không” để có thì giờ so sánh xem có đúng với số mình đã tính không.
Santo đáp cũng như mọi lần khác: -Đúng vậy, Ibraga, không sai một đồng.
Chú nông dân muốn vay thêm một số tiền nữa, nhưng họ chưa giải quyết ngay, còn nói tào lao tràng giang về những chuyện cơ hồ như thừa và gần hoàn toàn vô nghĩa.
Santo bảo: -Mận ở miền mình năm nay sai hơn miền nào khác. Đã lâu lắm chưa được một năm như vậy.
Chú nông dân, vẻ lo lắng, miết ngón tay cái vào đường khâu ở chiếc quần bằng vải thô màu xanh lá cây nhìn trộm Santo và đáp: -Dạ nhờ Chúa, mùa màng năm nay sẽ không đến nỗi tệ; nếu Allah muốn thì sẽ có trái cây và lúa. Nhưng không biết giá cá sẽ ra sao đây.
- Bây giờ làm sao biết giá được, khi nào chú chở mận lại đây sẽ biết giá. Người ta vẫn thường nói: “Chính người chủ định giá” mà.
- Dạ, miễn là Trời cho nó đậu.
- Dĩ nhiên, phải Trời cho mới được, con người có chịu tốn công trồng, gieo, mà Trời không cho thì cũng công toi.
Vừa nói Santo vừa đưa tay chỉ lên trên cái trần cao đen treo lủng lẳng những chiếc đèn đủ cỡ và những vật nhỏ khác.
Rồi họ nói qua chuyện sức khỏe, toàn là những chuyện phiếm ai cũng biết. Nhưng đúng vào lúc thuận tiện, họ lại trở về khởi điểm: Vay thêm bao nhiêu, tiền lời ra sao, bao giờ trả, trả cách nào. Họ giảng giải với nhau dài dòng lúc thì hăng hái lúc thì ôn tồn, ra vẻ suy nghĩ, nhưng rốt cuộc hai bên cũng thỏa thuận với nhau. Đúng lúc đó Santo đứng dậy rút ở trong túi ra một chùm chìa khóa móc chung vào một sợi dây lựa một chìa tra vào lỗ khóa. Cánh cửa tủ sắt kêu “rắc” một tiếng, chầm chậm, trang nghiêm mở ra, rồi khép lại, phát ra một thanh âm kim khí như một tiếng thở dài. Ông ta xỉa tiền cho chú nông dân, đếm kỹ từng xu một, chăm chú, nghiêm trang mà có vẻ hơi buồn. Rồi ông lớn tiếng hỏi chú ta, giọng hăng hái, thay đổi hẳn: -Đủ chưa Thỏa mãn không chú Ibro?
Chú nông dân đáp nho nhỏ, vẻ suy tư: -Thưa đủ, cảm ơn ông.
Giọng Santo lúc này hoàn toàn vui vẻ: -Cầu trời phù hộ cho chú mạnh khỏe và sung sướng.
Rồi ông ta sai đứa cháu nội qua quán cà phê đối diện bên kia đường, mua hai ly, “một ly có đường, một ly không”.
Một nông dân khác đứng trước cửa tiệm, chờ tới phiên mình, cũng đế tính số nợ và vay thêm.
Đó tình hình đầu mùa hè đẹp đẽ đó như vậy.
Nhưng khi mới cuối xuân, một đám mây đen đã lướt qua khiến dân chúng lo ngại, buồn rầu. Từ đầu xuân, ở Ouvats, tại một thị trấn nhỏ trên cựu biên giới Thổ – Áo, bây giờ là biên giới Serbie – Áo, phát bệnh dịch hoàng nhiệt. Ngay trong trại hiến binh có hai người bị bệnh, nên bác sĩ Balach[112] trong quân y viện Vichégrad phải dắt một y tá, đem theo thuốc men tới để trị. Ông cương quyết để hai người đó nằm một phòng riêng và đích thân săn sóc họ. Nhờ vậy, mười lăm người bị bệnh mà chỉ có hai người chết, và bệnh dịch bị chặn ngay từ buổi đầu không lan ra ngoài Ouvats. Người cuối cùng bị lây lại chính là ông, không hiểu tại sao; bệnh phát mau quá, biến chuyển bất ngờ, và ông chết thình lình, thành thử biến cố đó đặc biệt bi thảm.
Để khỏi lây, người ta chôn ông ngay ở Ouvats. Bà Bauer[113], chồng bà và vài sĩ quan đi đưa đám. Bà xuất tiền ra dể dựng cho ông một mộ bia đục đẽo sơ sài. Liền sau đó, bà rời thị trấn, để chồng ở lại một mình. Ở Vichégrad, bọn thiếu nữ đồn rằng bà lại Vienne trị bệnh trong một liệu dưỡng viện, còn những người lớn tuổi, khi qua cơn nguy bị lây rồi, không phải đề phòng chống bệnh dịch nữa thì quên liền cả bác sĩ lẫn bà đại tá (…)
Bọn thiếu nữ chẳng hiểu liệu dưỡng viện là gì, nhưng nhớ lại trước kia bác sĩ và bà đại tá thường thơ thẩn với nhau trong những đường mòn và trên sườn núi, nên tưởng tượng liệu dỡng viện là một nơi bí mật, xa xăm và sầu thảm, các phụ nữ đẹp, có ngoại tình lại đó sống để chuộc tội thất tiết.
Ở trên cánh đồng và đồi núi chung quanh thị trấn, mùa hè đặc biệt phong phú và rực rỡ đó tiếp tục phát triển và chín muồi. Buổi tối, các cửa sổ nhìn xuống sông ở gần cầu đều mở rộng và có ánh đèn như mùa hè trước, nhưng không còn vẳng ra tiếng đàn vĩ cầm và dương cầm nữa (…)
Trên cái kapia, trong đêm nóng nực, bọn trẻ trong thị trấn lại ngồi ca hát. Đã gần cuối tháng sáu, tụi học sinh trung học và sinh viên đại học sắp về (…)
Vào giờ đó các đường chính còn sáng vì từ mùa xuân năm đó, thị trấn đã có đèn điện. Các cây đèn xanh thắp bằng dầu lửa đã biến mất và người ta không thấy chú Ferkhat cao lớn đi chùi đèn và thắp đèn mỗi tối nữa. Con đường chính chạy dọc suốt thị trấn từ cây cầu tới khu mới thành lập, được chiếu sáng bằng những bóng đèn lớn bằng thủy tinh đục, còn những đường ngang nhỏ ở hai bên, và những đường chạy vòng vòng chung quanh khu Bikavats hoặc lên khu Meidan, khu Okolitché thì có những bóng đèn nhỏ, thường. Giữa những dãy chiếu sáng đều đặn đó là nhưng khoảng tối chỗ lớn chỗ nhỏ, tức những sân và vườn rộng rải rác từ dưới lên cao trên những đường dốc.
Cô giáo Zorka và thầy ký Nicolas Glasintchanine ngồi với nhau trong một vườn tối đó.
Sự xung đột giữa họ xảy ra năm trước, khi Stikovitch về nghỉ hè, đã kéo dài cho tới đầu năm nay. Hồi đó ở Hội quán Serbie, như mọi mùa đông khác, người ta chuẩn bị hòa nhạc và diễn kịch cho lễ Thánh Sava[114]. Zorka và Glasintchanine cùng dự vào việc chuẩn bị đó, và khi tập dợt xong ra về, họ mới lại bất đầu hỏi chuyện nhau sau mấy tháng giận hờn nhau. Mới đầu, họ giữ ý, làm kiêu, chỉ nói với nhau vài lời thôi. Nhưng rồi họ gặp nhau, nói chuyện với nhau hoài, vì bọn trẻ thích những cuộc gây lộn về tình ái, dù chua chát nhất, thất vọng nhất, cũng còn hơn cảnh cô liêu, buồn chán của một cuộc đời không có gì tiêu khiển, không vương vấn ái tình. Trong những cuộc tranh luận bất tuyệt đó họ làm lành với nhau mà chính họ cũng không biết là từ lúc nào, do cách nào. Bây giờ trong những đêm hè nóng này, họ gặp nhau đều đều. Thỉnh thoảng giữa họ cũng hiện lên hình ảnh của Stikovitch lúc đó ở xa, và họ lại gây gổ với nhau không ai chịu nhịn ai, nhưng những cuộc cãi lộn đó không làm họ xa nhau mà mỗi lần hòa giải thì luôn luôn khiến họ xích lại gần nhau hơn.
Đêm nay họ ngồi trong bóng tối, trên một khúc cây dẻ đã đốn, mỗi người theo dòng tư tưởng riêng của mình mà nhìn những ánh đèn lớn nhỏ ở dưới phố kia, bên bờ con sông róc rách bất tuyệt kia.
Glasintchanine đã nói nhiều rồi, lúc này làm thinh. Zorka cả buổi tối không nói một câu, mà mãi suy nghĩ ưu tư về tình ái, cái đó đối với phụ nữ mới quan trọng, cấp thiết hơn hết thảy ở đời.
Năm trước, cũng vào lúc này, khi Stikovich xuất hiện nàng đã tưởng một thiên đường vô biên đầy những tình yêu mở ra ở trước mặt nàng: Tình cảm, thị dục, tư tưởng hai bên hòa hợp với nhau, êm đềm như một chiếc hôn và dài như một đời người. Nhưng ảo tưởng đó không bền. Mặc dầu rất khờ khạo và say mê, nàng cũng nhận thấy dục tình con người đó phát lên thình lình rồi nguội lạnh liền, gã chỉ nghĩ tới bản thân thôi mà không nghĩ gì tới nàng cả, dục tình đó không liên quan chút gì với cái mà nàng cho là quan trọng hơn, cao cả hơn cả nàng và gã nữa. Nàng hoang mang, đau khổ như bị một vết thương lòng. Bức thư nàng nhận được của gã thật là hoàn toàn về bố cục, khéo léo về lời văn nhưng mỗi chữ đều được cân nhắc như lời biện hộ của một luật sư, trong trẻo, sáng sủa như một cái ly không đựng gì cả. Gã nói về mối tình của họ mà như thể cả hai đã nằm dưới mồ cả trăm năm rồi, như những kẻ đã chết một cách vẻ vang. Nàng gởi cho gã một bức thư nồng nàn phát tự đáy lòng, và gã đáp lại bằng một tấm bưu thiếp: “Trong lúc lo nghĩ và bề bộn những công việc nó quấy rầy anh nhưng lại làm cho anh say mê, anh nghĩ tới em như nghĩ tới cái đêm êm đềm ở Vichégrad ấy, tới tiếng róc rách của dòng sông và mùi thơm của những bụi cỏ vô hình.” Chỉ có mấy hàng đó thôi. Nàng cố nhớ lại tiếng nước chảy và hương thơm của cỏ mà không được. Những cái đó chỉ có trên tấm bưu thiếp thôi … Nàng muốn điên lên khi nghĩ rằng nàng đã lầm, đã bị gạt, nhưng rồi nàng lại tự an ủi nghĩ bụng: “Anh ấy thật khó hiểu, cách biệt, lãnh đạm, ích kỷ, tính tình bất thường, nhưng có lẽ tất cả hạng siêu nhân đều như vậy …” … Nàng xót xa tự nén lòng, không trả lời tấm bưu thiếp đó. Nhưng sau một thời gian bặt tin khá lâu là hai tháng, nàng lại nhận được một tấm bưu thiếp nữa viết trên một ngọn núi cao trong dãy Alpes: “Ở trên cao hai ngàn thước, chung quanh là những người đủ các nước nói đủ các ngôn ngữ, anh ngắm chân trời vô biên và nghĩ tới em và mùa hè trước.”
Mặc dù nhỏ tuổi và thiếu kinh nghiệm, nàng cũng đủ hiểu rồi. Thà gã cứ viết thẳng ra: “Tôi không bao giờ yêu cô cả mà tôi cũng không bao giờ có thể yêu cô được”, như vậy minh bạch mà lại đỡ đau khổ cho nàng. Vì trong tấm thiếp đó, chi nói bâng quơ về hồi ký thời trước, về núi cao, về những người ở chung quanh, những ngôn ngữ của họ, chứ có một chữ nào về ái tình đâu.
Mồ côi cha mẹ, Zorka lớn lên ở Vichégrad trong gia đình một người bà con xa. Nhưng nàng đã tốt nghiệp trường Nữ Sư phạm Sarajevo, được bổ dạy ở Vichégrad và nàng trở về sống với gia đình phong lưu, giản dị, không thân mật gì lắm đó.
Nàng xanh xao, yếu đi, ít nói, giấu kín nỗi lòng, không hồi âm tấm thiếp Stikovitch gởi chúc Noel nàng nữa, một tấm thiếp cũng ngắn, lạnh lùng, lời văn không chê vào đâu được. Nàng muốn tự chuộc lấy lỗi, tự vớt lấy nỗi nhục của mình, không nhờ cậy ai, không cần ai an ủi. Nếu nàng nhờ ai khuyên bảo thì có thể vơi được lòng hơn, nhưng nàng xấu hổ không dám nhờ. Mà nàng lại thường có cảm tưởng rằng cả thị trấn đều biết nỗi thất tình của nàng rồi, và mỗi khi qua khu trung tâm thị trấn, mặt nàng bừng bừng lên vì cảm thấy vẻ nhìn tinh quái độc ác của thiên hạ. Thực tình không hiểu nổi. Nếu gã không yêu nàng thì tại sao đóng trò như vậy, nồng nàn tán tỉnh nàng, cố thuyết phục nàng như vậy trong vụ hè trước? Tại sao có cái xen trên chiếc ghế dài ở trường học nữa, nếu không yêu nhau thì như vậy khác gì vùi nhau trong đám bùn, nhục nhã làm sao chịu nổi. Có những kẻ không tôn trọng người khác và không tự trọng đến nỗi coi thường cái trò đó sao? … Nàng không nhẫn nhục chịu đựng được lâu nữa. Ý tưởng quyên sinh ám ảnh nàng. Chết đi, từ trên cái kapia như ngẫu nhiên rớt xuống dòng sông, không để lại một bức thư, không vĩnh biệt ai cả, không thú tội, không nhục nhã … Nàng tự nhủ hoài: Chết! Chết đi? Nhưng nàng không chết, vẫn sống với ý nghĩ rất khó chịu đó.
Rồi nàng tìm được sự khuây khỏa trong lòng một cách bất ngờ nhất. Vào khoảng lễ Noel, nỗi đau khổ thầm kín của nàng đạt tới cực độ. Những tư tưởng, những câu hỏi không giải đáp được đó đầu độc nàng, làm cho nàng tiều tụy hơn là bệnh tật nữa. Ai cũng nhận thấy những thay đổi đáng ngại ở nàng, ai cũng khuyên nàng phải giữ gìn sức khỏe, từ bà con, bạn bè tới ông hiệu trưởng của nàng, một người vui tính rất đông con.
May mắn làm sao, đúng lúc đó thì có những buổi tập dượt hòa nhạc, thế là sau mấy tháng, nàng lại bắt đầu nói chuyện với Glasintchanine. Trước đó, chàng vẫn tránh gặp mặt và chuyện trò với nàng. Nhưng không khí náo nhiệt, thân mật trong những buổi tiêu khiển, ngây thơ, đờn ca và diễn kịch ở tỉnh nhỏ đó, rồi những đêm mát mẻ, trong sáng, họ cùng về với nhau đó khiến cho họ làm lành với nhau. Nàng cần làm dịu nỗi khổ tâm đi còn chàng thì cần tình yêu; vì chàng thành thực, thắm thiết yêu nàng nên dễ dàng tha thứ, quên hết chuyện cũ.
Những lời đầu tiên của họ dĩ nhiên lãnh đạm, nghi ky, úp mở, và những buổi đầu họ giảng giải với nhau dài dòng mà chẳng đưa tới một lối thoát nào cả. Mặc dầu vậy nàng cũng thấy khuây khỏa trong lòng. Vì là lần đầu tiên nàng được thổ lộ với người khác nỗi đau khổ ngấm ngầm của mình mà không phải thú nhận những chi tiết nhục nhã nhất, đứt ruột nhất. Còn Glasintchanine thì nói dài dòng, hăng hái, lời nồng nàn mà bóng bẩy, tránh không chạm tới lòng tự ái của nàng, không dùng những tiếng quá cay độc để nói về Stikovitch, đại khái chỉ đưa những nhận xét mà chàng đã nói thẳng với Stikovilch trong cái đêm đó trên kapia: Hắn ích kỷ, bẩm sinh tàn khốc, phi nhân, không thể yêu ai được, và suốt đời đau khổ, bất mãn về bản thân, hành hạ tất cả những người lầm về hắn và lại gần hắn. Glasintchanine ít nói về tình yêu của chàng nhưng tình đó lộ ra trong ngôn ngữ, khóe mắt, cử chỉ. Zorka thường yên lặng nghe, thích thú lắm và sau mỗi lần, tâm hồn nàng bình tĩnh lại, tươi sáng lại. Sau bao nhiêu tháng, bây giờ nàng mới bớt đau xót mới không tự cho mình là nhơ nhuốc nữa. Vì nghe những lời chan chứa tình yêu và lòng tôn trọng của chàng, nàng không thấy mình là hạng hoàn toàn bỏ đi nữa, niềm thất vọng của nàng cũng chỉ là một ảo tưởng như mối tình mùa hè trước thôi: Nàng đã rời bỏ thế giới tối tăm trong đó nàng bắt đầu lạc lối và trở về với thực tại cái thực tại sinh động, nhân đạo mà chuyện gì cũng giải quyết được có phương cứu được.
Sau lễ Thánh Sava, họ tiếp tục tâm sự với nhau. Đông qua, hết xuân rồi tới hè. Ngày nào họ cũng gặp nhau. Lần lần thiếu nữ bình phục lại, thay đổi rất mau. Tuổi trẻ vẫn vậy. Người ta đã quen coi Zorka và Glasintchanine là một cặp “tình nhân” rồi.
[Bây giờ, thực ra nàng không thích những câu chuyện của Glasintchanine như trước nữa, đôi khi ngạc nhiên, sợ sệt tự hỏi tại sao hai người lại thân với nhau như vậy được nhưng nàng vẫn mang ơn chàng đã cứu vớt tâm hồn nàng mùa đông trước.]
Đêm hè đó, chàng cầm tay nàng (như vậy là bạo nhất rồi đấy) cảm thấy cả cái ấm áp của ban đêm truyền vô toàn thân chàng; và nhờ thiếu nữ đó, sự chán chưởng bất mãn về cuộc đời của chàng biến thành những sinh lực dồi dào, đủ để đưa cả hai người tới một mục đích nào xa xăm nhất, miễn là được tình yêu đoàn kết họ, nâng đỡ họ.
Trong bóng tối đó, chàng không còn là Glasintchanine ban ngày, tiểu tư chức của một hãng ở Vichégrad nữa, mà thành một người khác, cương cường, tự tin, tự do tổ chức cuộc đời lâu dài của mình. Vì người nào có một tình yêu chân thành, lớn lao, bất vị lợi, dù không được người kia yêu lại thì cũng thấy chân trời mở rộng ra, thấy những khả năng và những con đường mới mà bọn tinh quái ích kỷ, có tham vọng không tìm ra được.
Chàng nói với người yêu ngồi bên cạnh: -Anh nghĩ anh không lầm. Có lẽ chỉ vì vậy mà anh không thể gạt em được … Càng ngày anh càng thấy rõ ở đây không thể sống được. Ở đây sẽ lộn xộn rất lâu, không được yên ổn, không có công việc gì có lợi Bọn Stikovitch và bọn Khérak cũng sẽ chẳng làm được gì, mà trái lại, tình thế sẽ còn tệ hơn. Phải trốn khỏi nơi đây như ra khỏi một căn nhà đương sụp đổ. Bọn cứu đời bồn chồn đó, lúc này xuất hiện nhan nhản, đó là dấu hiệu chắc chắn nhất rằng tai biến sắp tới. Mình đã không làm gì được thì ít nhất cũng phải tự cứu lấy mình.
Thiếu nữ làm thinh.
- Anh chưa hề nói với em, nhưng anh thường nghĩ nhiều đến điều đó, và đã lo toan một chút rồi. Em biết rằng Bogdan Djourovitch, bạn của anh ở Okolichté qua ở bên Mỹ từ ba năm nay. Anh thư từ với ảnh từ năm ngoái. Anh đã cho em coi tấm hình anh ấy gởi cho anh. Anh ấy rủ anh qua bển, hứa với anh sẽ có một công việc chắc chắn, lương cao. Anh biết, thực hiện kế hoạch đó không phải dễ dàng, giản dị đâu, nhưng anh nghĩ có thể thực hiện được. Anh đã suy nghĩ đủ, tính toán đủ cả anh sẽ bán hết những gì anh có ở Okolichté. Nếu eln đồng ý thì chúng ta phải cưới nhau thật sớm rồi đi Zagreb mà không cho ai hay. Ở đó có một công ty chuyên đưa người di cư qua Mỹ. Chúng ta sẽ ở đó một hai tháng đợi Bogdan gởi cho anh một tờ khẩu cung.[115]
Trong thời gian đó chúng ta sẽ học tiếng Anh. Nếu vì vấn đề quân dịch của anh chúng ta không đi được bằng cách đó thì chúng ta sẽ qua Serbie rồi từ đó qua Mỹ. Anh sẽ thu xếp mọi việc cho em gặp rất ít khó khăn. Qua Mỹ rồi, cả hai chúng ta cùng làm việc. Ở đó có những trường học cho trẻ em Bosnie và cần nữ giáo viên. Và anh sẽ kiếm được việc vì ở Mỹ ai muốn làm công việc gì cũng được. Chúng ta sẽ được tự do và sung sướng. Tất cả kế hoạch đó, anh sẽ thực hiện được miễn là em muốn … và đồng ý.
Nói tới đó chàng ngừng lại. Nàng không đáp, chỉ đặt hai bàn tay mình vào hai bàn tay chàng. Chàng cảm thấy trong cử chi đó rằng nàng rất cảm tạ tấm lòng của chàng. Nhưng nàng không đáp ừ, cũng không đáp không. Nàng cảm ơn chàng đã ân cần săn sóc tới nàng, tốt bụng vô cùng với nàng, và nàng chỉ xin một tháng thôi rồi sẽ trả lời dứt khoát: Đợi hết niên học đã.
Nàng xiết tay chàng, thủ thỉ: -Cảm ơn anh, anh Nicolas, anh tốt bụng quá.
Từ cái kapia, vắng lên tới tận họ giọng hát của bọn thanh niên, bọn con trai Vichégrad, có lẽ là bọn học sinh trung học Sarajevo lúc đó đã về rồi. Khoảng nửa tháng nữa, tụi sinh viên cũng sẽ về. Từ nay tới lúc đó, nàng không quyết định được gì cả. Cái gì cũng làm cho nàng đau khổ, nhất là tấm lòng tốt của người bạn trai đó, nhưng lúc này đây, nàng không thể đáp “Vâng” được dù có bị băm vằm ra từng khúc. Nàng không hy vọng gì hết, nhưng nàng muốn gặp lại một lần nữa “con người không thể yêu ai được” kia. Gặp lại một lần nữa rồi muốn ra sao thì ra. Nicolas sẽ đợi nàng, nàng biết chắc vậy.
Họ đứng dậy, vẫn nắm tay nhau, rồi theo con đường dốc dựng đứng để xuống chỗ cầu[116] nơi có tiếng hát vắng lên.
Chú thích:
[111] Iovan Iovanovitch Zmaj (1833 – 1904), thi sĩ Serbie nổi danh, viết đủ loại nhưng những bài thơ cho trẻ em của ông được truyền tụng nhất.
[112] Coi lại chương XIX.
[113] Coi lại chương XIX.
[114] Giám mục Sava thành lập Giáo hội độc lập Serbie ở thế kỷ XIII. Giáo hội đó không tùy thuộc Tòa thánh Byzance. Lễ Thánh Sava là một quốc lễ có tính cách tôn giáo, văn hóa của những người Serbie theo chính giáo, được đặc biệt cử hành trong các trường học.
[115] Afidavit. Có lẽ phải có tờ đó rồi mới xin di cư qua Mỹ được.
[116] Bản tiếng Pháp dịch là “vers le mong d’òu venait le chant”: xuống chỗ núi nơi có tiếng hát vẳng lên; tôi ngờ rằng in lộn: pont (cây cầu) mới hợp nghĩa.