TRUYỆN SỐ 7 NGƯỜI ĐÀN ÔNG NGAO DU CÙNG BỨC TRANH VẢI
Nếu câu chuyện này không phải là một giấc mơ hay ảo ảnh điên loạn của tôi lúc nhất thời thì chắc hẳn chính người đàn ông ngao du cùng bức tranh vải đó là một kẻ điên. Nhưng giấc mơ cũng như thời gian, dường như nó cho chúng ta thấy một thế giới khác đang hiện hữu đâu đó trong thế giới thực này, còn với kẻ điên, chúng ta nhìn thấy, nghe thấy những thứ mà chúng ta vốn không cảm nhận được. Cho nên, cũng có thể, trong một khoảnh khắc ngắn ngủi nào đó, nhờ lăng kính không gian bí ẩn mà bất chợt tôi đã được tận mắt chứng kiến một góc khuất của thế giới xa lạ nào đó nằm ngoài tầm nhìn của thế giới thực tại này cũng nên.
Tôi không biết chính xác là ngày nào, chỉ nhớ đó là một ngày ấm áp nhưng hơi âm u. Lúc đó, tôi đang trên đường trở về nhà sau khi cất công tới Ouzu [12] xem ảo ảnh trên biển. Nghe tôi kể câu chuyện này, thỉnh thoảng cậu bạn thân tôi lại xỉa xói tôi và bảo “Vậy thì cậu chưa tới Ouzu rồi”. Mặc dù bị chế giễu như vậy nhưng tôi cũng không có chứng cứ rõ ràng để chứng minh tôi đã tới đó khi nào, ngày nào. Chẳng lẽ nó đúng là một giấc mơ ư? Nhưng trước giờ, tôi chưa từng mơ một giấc mơ với những mảng màu sắc nét như thế. Cảnh sắc trong mơ giống như một bộ phim điện ảnh, những mảng màu không ăn nhập với nhau nhưng riêng cảnh sắc trong toa tàu và màu sắc của bức tranh vải đáng sợ đó đã trở thành màu chủ đạo, sắc đỏ đã đánh bật sắc tím, nó như thể màu mắt của một con rắn đang thiêu đốt những kí ức sống động trong tôi. Liệu có tồn tại thứ được gọi là giấc mơ của những thước phim màu hay không? Khi đó, lần đầu tiên từ thuở cha sinh mẹ đẻ, tôi mới được nhìn thấy ảo ảnh. Tôi đã tưởng tượng về một bức tranh cổ tích nơi có thủy cung xinh đẹp đang bồng bềnh theo nhịp thở của con nghêu. Nhưng khi nhìn thấy ảo ảnh thực sự, tôi đã toát mồ hôi, bàng hoàng đến mức gần như kinh hãi.
Một đám người lố nhố, trông xa chỉ bé như hạt đậu đang tụ tập ở hàng cây thông ven bãi biển Ouzu. Họ đang nín thở và nhìn về phía bầu trời cũng như mặt biển trải rộng bao la hút tầm mắt. Chưa bao giờ tôi nhìn thấy bãi biển yên ắng, tĩnh mịch đến câm lặng như vậy. Tôi vẫn nghĩ biển Nhật Bản là một vùng biển động, nào ngờ bãi biển ở đây lại nằm ngoài dự tưởng của tôi. Bãi biển đó màu xám, không hề có một gợn sóng nhỏ, nó giống một cái đầm lầy trải dài đến vô tận. Giống với biển Thái Bình Dương vì không có đường chân trời nên bầu trời và biển cả cùng tan trong màu xám, mang đến cảm giác biển như bị bao phủ bởi một màn sương dày bất tận. Bên trên màn sương mà tôi cứ nghĩ chỗ đó đã là bầu trời thì thực ra lại vẫn là mặt biển, những cánh buồm trắng lớn đang lướt đi dập dềnh như thể những bóng ma.
Ảo ảnh mà tôi nói ở đây giống như ta rỏ vài giọt mực xuống bề mặt của thước phim có màu trắng sữa, rồi nó tự loang dần ra, giống như chiếu một bộ phim khổng lồ lên bầu trời.
Những cánh rừng ở bán đảo Noto [13] xa xôi, qua lăng kính kì lạ của bầu khí quyển mờ ảo biến dạng một cách méo mó. Chúng xuất hiện trên bầu trời ngay trước mắt tôi, và được phóng đại một cách mơ hồ, lố bịch giống như những con sâu đen được soi dưới kính hiển vi bị nhòe, bủa vây rồi trùm lên đầu người quan sát. Kể ra thì nó cũng giống những đám mây đen với hình thù lạ lùng nhưng nếu là mây đen thì ta còn biết rõ vị trí nó nằm ở đâu, đằng này ảo ảnh lại có một khoảng cách mơ hồ đến kì dị với người xem. Cũng có lúc nó trông giống như con quái vật onyudo trôi dạt phía xa trên biển, lúc thì như đám sương mù hình thù quái dị ập đến cách mắt thường khoảng ba mươi cen-ti-mét rồi cuối cùng đọng lại ở giác mạc người nhìn một điểm mờ mờ, cồm cộm. Sự mơ hồ của khoảng cách này mang lại cho ảo ảnh một cảm giác ma quái, điên rồ vượt trên cả sự tưởng tượng.
Khối hình có vẻ giống với hình tam giác khổng lồ, đen sì xếp chồng lên nhau như ngọn hải đăng rồi không biết từ lúc nào nó nhanh chóng tan ra, chạy dài thành một đoàn tàu hỏa, sau đó một vài mảng biến mất, những mảng còn lại nhìn giống ngọn của những cây bách nhật, nếu đứng im lặng và tiếp tục quan sát thì khối hình lại biến đổi thành muôn hình muôn dạng khác nhau.
Nếu sức mạnh ma quái của ảo ảnh là thứ khiến người ta phát điên, có lẽ tôi đã không thể thoát khỏi nó, ít nhất là cho đến khi tôi lên tàu để ra về. Tôi đã đứng đó suốt hai tiếng đồng hồ, nhìn chằm chằm vào những hình thù kì quái trong không trung rồi rời khỏi Ouzu. Cho tới tận khi lên được tàu thì tôi rơi vào tâm trạng rất khác thường so với mọi ngày. Có khi nào nó cũng là một dạng phát điên nhất thời ở nơi trái tim con người dễ bị đe dọa nhất giống như không may bị quái vật làm hại hay không? Từ ga Ouzu, tôi lên tàu để đi về Ueno vào khoảng sáu giờ chiều. Không biết có phải là một sự tình cờ đến kì lạ, hay là chuyến tàu này mọi khi vẫn như thế mà ở toa hạng hai chỗ tôi ngồi, vắng tanh như ở nhà thờ. Ngoài tôi ra thì chỉ có duy nhất một vị khách ngồi bên trên, góc đối diện, đang ngồi làm lũi trên chiếc ghế đệm.
Con tàu băng qua vách đá hiểm trở dọc theo bờ biển đìu hiu và chạy trên bãi cát dài hun hút, tiếng động cơ tàu hỏa vang lên đơn điệu. Tôi lơ đễnh theo ráng chiều màu máu đen bị nhuộm thẫm bởi màn sương trên bãi biển như đầm lầy. Những cánh buồm trắng to bất thường trôi qua như trong giấc mơ. Đó là một ngày không có gió, oi bức, làn gió nhẹ khẽ len lỏi qua những ô cửa sổ của con tàu đang hiện diện ở đây đó giống như một bóng ma. Những đoạn đường hầm ngắn và dãy cột tránh tuyết đan xen chia cắt bầu trời và mặt biển rộng bao la, ảm đạm.
Khi đoàn tàu đi qua vách đá Oyashirazu [14] thì cũng là lúc đèn điện trong tàu và sắc sáng của bầu trời hòa vào làm một, hoàng hôn dần buông xuống. Đúng lúc đó, vị khách duy nhất ngồi ở góc bên kia đột nhiên đứng dậy và mở chiếc khăn đen bằng sa tanh lớn ra trên ghế rồi bắt đầu bọc một vật phẳng được dựng cạnh cửa sổ, có kích thước khoảng sáu mươi nhân chín mươi cen-ti-mét. Nó mang đến cho tôi một cảm giác lạ lùng khó tả.
Vật đó chắc chắn là một khung tranh. Vì một lý do đặc biệt nào đó, nó được dựng úp mặt về phía tấm kính cửa sổ. Tôi chỉ có thể đoán được như vậy vì vị khách đã lấy món đồ vốn được bọc trong tấm vải ra rồi lại cất công đặt cho bức tranh hướng ra bên ngoài. Hơn nữa, trong lúc ông ta bọc lại nó, tôi có thoáng liếc qua thì thấy bức tranh đó có màu sắc sống động lạ kì, một bức tranh mà tôi chưa từng thấy ở bất cứ đâu.
Tôi lại tiếp tục quan sát chủ nhân của món đồ thì kinh ngạc nhận ra ông ta còn kì quái hơn cả nó.
Ông ta mặc một chiếc áo vest đen rộng với phần cổ áo hẹp còn vai áo thì rũ ra rất lỗi thời, loại mà tôi chỉ được nhìn thấy trong các bức ảnh thời trai trẻ của những ông bố chúng ta nhưng chiếc áo lại hợp với thân hình cao lớn của ông ta đến bất ngờ. Trông ông ta thậm chí còn rất tự tin trong chiếc áo đó. Ngoại trừ khuôn mặt hóp và cặp mắt trợn trừng thì mọi thứ đều cân đối và ông ta có vẻ cũng nhanh nhẹn. Mái tóc đen rẽ ngôi gọn gàng, bóng mượt và dày, thoạt nhìn thì tưởng ông ấy khoảng trên dưới bốn mươi nhưng nếu để ý kĩ sẽ thấy khuôn mặt đầy những nếp nhăn khiến ông ta nhìn như sáu mươi tuổi. Sự tương phản giữa mái tóc đen tuyền cùng khuôn mặt với nước da trắng đầy những nếp nhăn chạy dài khiến tôi sửng sốt khi lần đầu tiên nhận ra điều đó.
Sau khi đã gói ghém cẩn thận món đồ, bất chợt ông ta quay mặt về phía tôi, đúng lúc tôi đang say sưa quan sát từng thao tác của ông ta. Ánh mắt của tôi và ông ta chạm nhau. Hình như ông ta thấy ngại nên cố nặn lấy một nụ cười. Bất giác, tôi cũng cúi đầu chào đáp lại.
Tàu đã đi thêm hai, ba ga nhỏ nữa. Chúng tôi vẫn ngồi nguyên mỗi người một góc, thỉnh thoảng liếc mắt nhìn nhau từ xa rồi lại thấy khó xử và phải chữa thẹn bằng cách nhìn ra bên ngoài cửa sổ. Lúc này, ngoài trời đã tối om. Tôi áp mặt vào kính cửa sổ và nhìn ra xa thì chỉ thấy ánh đèn từ thuyền đánh cá rọi ở đằng xa, ngoài ra không có bất kì thứ ánh sáng nào khác. Trong bóng tối vô tận, khoang tàu dài và hẹp của chúng tôi giống một thế giới riêng biệt chuyển động mãi không ngừng. Trong thế giới đó, tôi có cảm giác chỉ sót lại hai chúng tôi còn toàn bộ những sinh vật khác đều biến mất không một dấu vết.
Không một vị khách nào lên khoang hạng hai chỗ chúng tôi mặc dù đã qua rất nhiều ga. Nhân viên phục vụ lẫn nhân viên soát vé cũng không một lần thấy bóng dáng. Bây giờ nghĩ lại, tôi cảm thấy vô cùng kì quái.
Càng ngày, tôi càng bắt đầu thấy sợ người đàn ông có ngoại hình giống một ảo thuật gia phương Tây lúc nhìn như bốn mươi, lúc lại nhìn như sáu mươi này. Nỗi sợ hãi vô cùng lớn xâm chiếm khắp cơ thể của tôi. Tôi sợ đến từng sợi lông tơ, thế rồi không thể chịu đựng nổi được nữa, tôi liền đứng bật dậy và ngập ngừng bước về phía người đàn ông đang ngồi ở góc bên kia. Ông ta càng đáng sợ thì tôi lại càng không thể ngăn mình thôi không lại gần ông ta.
Tôi khẽ ngồi xuống chiếc ghế đối diện với người đàn ông. Càng lại gần tôi mới thấy khuôn mặt trắng với đầy những nếp nhăn kì dị trông không khác nào một con yêu quái. Không giấu nổi sự ngạc nhiên, tôi nheo mắt lại, nín thở và nhìn ông ta chằm chằm.
Người đàn ông nhìn theo tôi từ lúc thấy tôi đứng dậy khỏi ghế. Khi tôi nhìn mặt ông ta thì như đã chờ đợi rất lâu, ông ta hất hàm chỉ vào món đồ nọ đang để bên cạnh, và chẳng cần dài dòng, ông ta hỏi luôn tôi, thay cho lời chào.
“Cái này hả?”
Giọng điệu vô cùng thản nhiên khiến tôi đâm ra càng thêm sửng sốt.
“Cậu muốn xem cái này đúng không?”
Thấy tôi im lặng nên ông ta lại hỏi.
“Chú cho cháu xem ư?”
Bị cuốn theo, tôi đành phải đáp lại bằng một câu hỏi rất dở hơi. Nhưng nào có phải vì muốn xem món đồ đó mà tôi tới chỗ ông ta đâu.
“Tôi rất sẵn sàng cho cậu xem. Khi nãy tôi cũng đã nghĩ mãi. Chắc hẳn cậu tới đây là vì thứ này đúng không?”
Người đàn ông này, phải nói là một ông lão mới đúng. Vừa nói, ông ta vừa gỡ chiếc khăn bọc món đồ một cách khéo léo bằng những ngón tay dài. Lần này ông ta dựa bức tranh cạnh cửa sổ và quay mặt bức tranh vào bên trong.
Vừa liếc nhìn qua bức tranh, bất giác tôi nhắm nghiền mắt lại. Tôi vẫn chưa biết lý do là gì nhưng bỗng nhiên tôi thấy mình phải làm thế. Tôi đã nhắm mắt mất mấy giây rồi lại mở mắt ra. Trước mắt tôi là một bức tranh kì lạ mà tôi chưa từng thấy bao giờ. Nói vậy nhưng tôi không biết dùng từ nào để có thể giải thích một cách rõ ràng về điểm “kì lạ” đó.
Nền của bức tranh là một tòa nhà tráng lệ giống với nhà hát kịch Kabuki. Tất cả các phòng đều mở toang, những tấm chiếu xanh lam và trần nhà bằng gỗ trông như kéo dài bất tận nhờ việc sử dụng triệt để luật xa gần trong hội họa, màu sắc chủ đạo là màu nước xanh thẫm được tô đậm một cách kì quái. Phía trước bên tay trái là ô cửa sổ giống cửa sổ của thư phòng, được vẽ bởi mực đen xấu xí, ngay bên cạnh là một chiếc bàn viết cùng màu. Nếu nói những cảnh sắc trong đó giống phong cách hội họa đặc biệt của những bức tranh được vẽ trên những tấm thẻ gỗ ema, thường xuất hiện ở đền, chùa để ghi điều ước thì sẽ dễ hình dung nhất.
Trên nền tranh đó nổi bật lên hai nhân vật có chiều dài khoảng ba mươi cen-ti-mét. Tại sao lại nói chúng nổi bật vì chỉ có hai nhân vật đó được làm thủ công bằng vải. Một người đàn ông già nua với mái tóc bạc mặc một chiếc áo khoác cổ điển bằng nhung kiểu âu đang ngồi với tư thế khổ sở (Lạ lùng ở chỗ, trừ mỗi màu tóc ra thì khuôn mặt đó giống hệt khuôn mặt của chủ nhân bức tranh, thậm chí đến bộ quần áo cũng cùng một kiểu) và một thiếu nữ vô cùng xinh đẹp chỉ khoảng mười bảy, mười tám tuổi trong bộ kimono màu đỏ rực rỡ được phối hài hòa với chiếc đai đen, mái tóc búi đổ xuống như hình giọt nước. Thiếu nữ e thẹn núp dưới tay áo của người đàn ông già. Nói cách khác, nó giống một cảnh ướt át trong các vở kịch.
Sự tương phản kì dị giữa người đàn ông già bận đồ tây và thiếu nữ quyến rũ thì khỏi phải bàn cãi nhưng thứ tôi cảm thấy “kì lạ” lại không phải ở chỗ đó.
Tôi ngạc nhiên vì phần tranh vải được làm rất tinh xảo, cầu kì trái ngược với phần nền thô kệch. Khuôn mặt của hai nhân vật được làm bằng vải trắng và tạo hình khối rõ nét, những nếp nhăn chân thực đến từng chi tiết. Mái tóc của thiếu nữ óng ả, cách búi tóc cũng giống hệt cách búi của con người, còn tóc của người đàn ông già chắc chắn được gắn tỉ mỉ bởi những sợi tóc bạc thật. Những chiếc cúc được đơm cẩn thận trên chiếc áo khoác, bộ ngực cô gái căng tròn cùng cặp đùi mơn mởn, làn da trắng hồng thấp thoáng hiện ra dưới lớp lụa đỏ trễ nải. Đến cả móng tay cũng sáng bóng như vỏ sò, tất cả đều rất chỉn chu. Tôi còn tưởng nếu lấy kính lúp mà soi thì có thể nhìn thấy được cả lỗ chân lông hay những chiếc lông tơ trên mặt cô gái.
Tôi đã từng nhìn thấy tranh vải thêu chân dung các diễn viên trên tấm gỗ hagoita rồi. Chúng quả nhiên là những tác phẩm tuyệt đẹp, tinh xảo nhưng vẫn không thể mang chúng ra so sánh với bức tranh vải này, nó tỉ mỉ đến từng đường nét. Có lẽ nó được tạo ra bởi đôi bàn tay một nghệ nhân bậc thầy làm tranh vải. Thế nhưng đó vẫn chưa phải là điểm “kì lạ” mà tôi đã nói.
Tổng thể thì bức tranh khá cũ, phần nền màu nước đôi chỗ đã bay màu, bộ kimono đỏ của cô gái cũng như chiếc áo khoác nhung đã cũ sờn nhưng nó vẫn giữ được nét độc đáo, sống động, rực rỡ như muốn đốt cháy mắt người xem. Lạ thì quả có lạ thật nhưng vẫn không phải ý nghĩa “kì lạ” mà tôi muốn nói tới.
Nếu buộc phải nói ra nó là gì thì chắc là việc cả hai nhân vật trong bức tranh vải đó sống động như thật.
Tại buổi biểu diễn búp bê múa rối, trong suất diễn của ngày hôm đó, con búp bê chỉ được người nghệ sĩ mang ra sử dụng đôi lần, nó như được thổi vào linh hồn của thần thánh, nó là vật thể sống động thực sự trong vài phút diễn ngắn ngủi ấy nhưng hai nhân vật trong bức tranh vải này dường như sống mãi. Tôi có cảm giác sau khoảnh khắc thăng hoa ngắn ngủi trong vở diễn, linh hồn của nó không thoát ra ngoài qua bất cứ khe hở nào mà đã được bắt trọn và cứ như thế gắn nguyên vào tấm gỗ.
Thấy gương mặt sửng sốt của tôi, người đàn ông già nói mà như hét lên.
“Ồ, có lẽ cậu đã hiểu ra rồi.”
Vừa nói, ông ta vừa hạ chiếc cặp da màu đen từ trên vai xuống rồi cẩn thận lấy chìa khóa mở nó ra. Ông ta lấy ra một chiếc ống nhòm đời cổ và chìa nó về phía tôi.
“Cái này, cậu hãy dùng cái kính nhìn xa này mà xem thử bức tranh một lần. KHÔNG, ở đó thì gần quá. Xin lỗi, phiền cậu đứng sang phía kia một chút. Phải rồi, chỗ đó lý tưởng đấy.”
Lời đề nghị quả nhiên rất kì lạ nhưng tính hiếu kì trong tôi lại trỗi dậy nên tôi cứ thế làm theo lời ông ta. Tôi rời khỏi ghế và đứng cách bức tranh khoảng năm, sáu bước chân. Ông ta cầm lấy bức tranh trên hai tay và để sát nó dưới ánh đèn cho tôi dễ nhìn hơn. Bây giờ nghĩ lại, đó hẳn là một cảnh tượng rất quái dị và điên rồ.
Chiếc kính nhìn xa tôi đang cầm có lẽ là hàng nhập khẩu từ hai mươi, ba mươi năm về trước, loại ống nhòm lăng kính có hình dạng khác thường mà hồi chúng ta còn nhỏ vẫn thường bắt gặp ở các cửa hàng kính. Do bị tiếp xúc nhiều nên lớp vỏ da màu đen đã bong ra để lộ phần da thuộc màu vàng bên trong. Giống như chiếc áo của chủ nhân nó, chiếc ống nhòm là một món đồ rất lỗi thời và hoài cổ.
Tò mò, tôi xoay xoay và nghịch chiếc ống nhòm một lúc rồi dùng hai tay đưa ống nhòm lên trước tầm mắt để nhìn thì bất thình lình, quả thực tôi đã vô cùng bất ngờ khi người đàn ông hốt hoảng hét lên làm tôi suýt đánh rơi cái ống nhòm.
“Không, không. Ngược rồi. Không được nhìn lộn ngược. Không được.”
Người đàn ông mặt mũi tái mét, mắt trợn ngược lên và xua tay liên tục. Tôi không hiểu được hành động bất thường của ông ta. Nhìn ngược có vấn đề gì đâu mà ông ta phải làm lớn chuyện như thế nhỉ.
“Ra vậy, ra vậy. Bị ngược ư?”
Tôi quá háo hức để được nhìn vào ống nhòm nên đã quên không để ý đến khuôn mặt khác lạ của người đàn ông. Tôi cầm lại đúng vị trí và vội đưa nó lên mắt để xem bức tranh vải.
Khi ống nhòm đã bắt được nét, hai trường nhìn hình tròn đã chập lại thành một thì cảnh sắc ban nãy còn nhòe ra những sắc màu như cầu vồng mơ hồ nay dần trở nên rõ ràng hơn.Bộ ngực nảy nở một cách đáng kinh ngạc của cô gái đổ về trên choán lấy toàn bộ tầm nhìn của tôi như thể đó là tất cả thể giới.
Tôi chưa bao giờ thấy bất cứ thứ gì như vậy trước đây và cả sau này vì vậy tôi khó có thể giải thích rõ để người đọc hiểu nhưng nếu lấy ví dụ về một thứ gần giống thế thì chắc là hình ảnh trong thoáng chốc của những ama [15] từ trên thuyền nhảy xuống dưới nước và lặn ở biển để đánh bắt cá. Do sự chuyển động hỗn loạn của tầng nước biển xanh, cơ thể trần trụi của ama khi lặn xuống đáy biển cũng uốn éo theo một cách không tự nhiên, giống như rong biển, cảnh vật xung quanh mờ mờ ảo ảo khiến ama trông không khác gì một con ma trắng toát. Nhưng khi ama nổi dần lên gần mặt nước thì màu xanh của biển dần nhạt đi, hình thù lúc này đã rõ ràng hơn và khi cái đầu trồi ra khỏi mặt nước, trong phút chốc, con ma trắng toát trong nước lúc nãy hiện nguyên hình thành một con người như để thức tỉnh chúng ta. Tôi cảm giác nó giống đúng như vậy. Người con gái trong bức tranh vải dần hiện rõ trước mắt tôi trong lăng kính của ống nhòm và cô ta bắt đầu cử động như một người sống thực sự.
Phía bên kia lăng kính của chiếc ống nhòm cổ điển thế kỉ mười chín tồn tại một thế giới hoàn toàn khác biệt mà chúng ta không hề hay biết. Trong thế giới đó, người thiếu nữ quyến rũ với mái tóc búi gọn gàng và người đàn ông với mái đầu bạc cùng chiếc áo khoác cũ kĩ đang sống một cuộc sống kì quái. Vẫn biết nhìn trộm là xấu nhưng tôi lại được một ảo thuật gia cho xem. Tôi không biết diễn tả cảm xúc của mình lúc đó như thế nào nhưng tôi đã chìm đắm trong thế giới kì lạ đó như bị ma quỷ nhập vào người.
Cô gái không thể cử động được nhưng lại khác hoàn toàn so với những gì tôi đã thấy bằng mắt thường. Nhìn một cách tổng thể, tôi có cảm giác về một sức sống tràn trề. Khuôn mặt trắng xanh nhợt nhạt hơi ửng hồng vượng khí, ngực phập phồng (thực tế là tôi đã nghe thấy nhịp đập của trái tim), da thịt thiếu nữ phừng phừng dưới lớp áo lụa kimono.
Tôi ngắm trọn cơ thể người thiếu nữ qua ống nhòm rồi chuyển hướng sang người đàn ông với mái tóc bạc hạnh phúc bên người con gái đang ngả về phía mình.
Người đàn ông già cũng sống động trong thế giới của chiếc ống nhòm. Nhìn qua thì thấy có lẽ ông ta hơn cô gái những bốn mươi tuổi, một tay đang quàng qua vai cô gái trẻ và nở nụ cười trông rất hạnh phúc. Nhưng lạ thay, khi phóng to mặt ông ta thì tôi thấy trên khuôn mặt, chắc phải có đến hàng trăm nếp nhăn, lộ rõ sự đau khổ. Một phần vì khuôn mặt của ông ta được phóng to sát gần tầm mắt nên trông mới khác lạ như vậy nhưng nhìn kĩ thì tôi thấy rợn cả người, nét mặt khó hiểu, đan xen giữa sự sợ hãi và buồn đau.
Trông thấy thế, tôi bỗng cảm thấy sợ hãi đến nghẹt thở. Tôi không thể chịu đựng thêm cảm xúc khó tả đang dâng lên trong người khi nhìn vào ống nhòm. Vô thức, tôi rời mắt đi chỗ khác và dáo dác nhìn ra xung quanh. Vẫn là khung cảnh buồn tẻ trên chuyến tàu đêm, bức tranh bằng vải và người đàn ông đang giữ nó vẫn ở đó, bầu trời bên ngoài ô cửa sổ đen kịt và tôi nghe thấy tiếng đoàn tàu lăn bánh vang vọng những nhịp đơn điệu. Tôi như vừa thức tỉnh khỏi một cơn ác mộng.
“Mặt cậu trông kì lạ lắm đấy.”
Người đàn ông đặt bức tranh trở lại cạnh cửa sổ và ngồi xuống chỗ của mình. Ông ta vừa nhìn vào mặt tôi vừa lấy tay như ra hiệu cho tôi cũng ngồi xuống chiếc ghế đối diện.
“Mặt tôi làm sao cơ? Tôi thấy hơi nóng nóng thôi.”
Tôi đáp lại như vậy để chữa thẹn. Ngay lập tức, người đàn ông khom người lại và mặt ông ta ghé sát vào mặt tôi, những ngón tay dài gõ gõ lên đầu gối như để ra hiệu điều gì đó. Ông ta hạ giọng và thì thầm với tôi.
“Bọn họ vẫn đang sống phải không?”
Và ông ta lại cúi người xuống sâu hơn, ánh mắt sáng quắc trợn lên như muốn tiết lộ thêm một chuyện gì đó còn quan trọng hơn. Ông ta nhìn tôi chằm chằm không chớp mắt.
“Cậu có tò mò muốn nghe câu chuyện thực sự về cuộc đời bọn họ hay không?”
Tiếng bánh xe tàu hỏa quá lớn cộng với đoàn tàu rung xóc mạnh nên tôi tưởng mình nghe nhầm những lời thì thào mà người đàn ông nói.
“Ông nói, câu chuyện về cuộc đời của họ ư?”
“Đúng chuyện về cuộc đời họ.” Người đàn ông lại hạ giọng đáp. “Đặc biệt là chuyện về người đàn ông tóc bạc kia.”
“Từ hồi ông ta còn trẻ ư?”
Không hiểu sao tối hôm đó tôi lại đối đáp kì quặc như thế.
“Phải, là chuyện khi ông ta hai lăm tuổi.”
“Tôi thực sự rất muốn được ông kể cho nghe.”
Tôi thúc giục người đàn ông bằng một giọng điệu như thể chẳng có chuyện gì, như thể tôi đang trông đợi ông ta kể cho mình câu chuyện về cuộc đời của một người còn đang sống bình thường vậy. Nghe xong, ông ta nhíu mày khiến những nếp nhăn xô lại với nhau nhưng trông ông ta rất vui. “Ồ, quả nhiên là cậu sẽ nghe tôi kể chuyện.” Nói rồi ông ta bắt đầu câu chuyện lạ lùng có một không hai này.
“Đó là một sự kiện rất lớn trong đời nên tôi vẫn còn nhớ rất rõ. Anh trai tôi (ông ta chỉ tay vào người đàn ông trong bức tranh vải) thành ra như thế này vào chiều ngày 27 tháng 4 năm Minh Trị thứ hai tám. Hồi đó, cả tôi lẫn anh trai đều sống ở nhà tại khu phố Nihonbashi Sanchome. Ông già tôi là chủ một cửa hàng quần áo Nhật truyền thống. Chuyện này xảy ra không lâu sau khi tòa tháp mười hai tầng Ryounkaku [16] được hoàn thành. Anh trai tôi ngày nào cũng leo lên đó và trở về trong sự vui sướng. Phải nói thêm là anh trai tôi rất thích thú với những món đồ kì lạ của nước ngoài, một người luôn chạy theo cái mới. Chiếc kính nhìn xa này cũng không phải ngoại lệ. Nó là món đồ của một thuyền trưởng tàu nước ngoài, anh tôi đã tình cờ thấy nó ở một cửa hàng đồ cổ chuyên bán những đồ độc trên phố người Hoa ở Yokohama. Tính theo thời giá lúc bấy giờ thì anh tôi đã phải trả một số tiền lớn để có được nó.
Mỗi lần người đàn ông nhắc đến từ “anh trai tôi”, ông ta lại hướng mắt nhìn về phía người đàn ông già nua trong bức tranh vải hoặc chỉ tay lên đó như thể người kia đang ngồi ngay trước mặt vậy. Trong cách kể chuyện của ông ta dường như vẫn ý thức được người ngồi nghe câu chuyện về bức tranh sống động bên cạnh là tôi, một kẻ thứ ba nhưng ông ta cứ lẫn lộn giữa người anh trai thực sự trong kí ức của ông ta với người đàn ông tóc bạc trong bức tranh bằng vải. Nhưng quái lạ là tôi không hề thấy có điểm nào không ăn nhập trong câu chuyện mà ông ta kể. Chỉ trong phút chốc, hai người chúng tôi như vượt qua các quy luật của tự nhiên và sống ở một thế giới khác, thế giới đó nằm trong thế giới thực tại của chúng ta.
“Cậu đã leo lên tầng mười hai của tòa tháp đó chưa? Ồ, chưa ư? Thế thì tiếc quá. Một ảo thuật gia đã xây nó. Đúng là một công trình phi thường và độc đáo. Kiểu dáng bên ngoài do kỹ sư Burton người Ý thiết kế đấy. Cậu cứ thử nghĩ mà xem. Những trò giải trí ở công viên Asakusa thời đó, nổi tiếng nhất và phải kể đến đầu tiên là người nhện, cô gái múa kiếm, đi trên quả bóng con quay, xem phim bằng tranh giấy, thứ khác lạ nhất thì cũng chỉ là mê cung ở đền Ofujisama thôi. Cậu có ngạc nhiên không khi ở đó, một tòa tháp bằng gạch cao vút được xây lên thu hút được cả trăm nghìn người tới xem. Tòa tháp cao 52 mét, đỉnh bát giác nhọn hoắt trông giống cái mũ người ta đội ở triều đại nhà Đường, chỉ cần leo lên nơi nào cao cao một chút thì có thể nhìn thấy con quái vật màu đỏ [17] ở đâu đó thuộc trung tâm Tokyo.
Như tôi cũng vừa nói, không lâu sau khi anh trai tôi mua chiếc kính nhìn xa này vào mùa xuân năm Minh Trị thứ hai tám thì tòa tháp được xây xong. Tính hiếu kì vốn có của anh tôi lại trỗi dậy. Ông già tôi cực kì lo lắng cho đứa con trai cả khác người. Về phần tôi, chắc cậu cũng đoán được, tôi không thể không lo lắng cho người anh trai ngu ngốc có những hành vi khác thường đó. Anh tôi đã thay đổi như thế nào ư? Cơm anh ấy chẳng buồn ăn, với người nhà thì im như thóc, hễ ở nhà là nhốt mình trong phòng riêng và nghĩ ngợi điều gì đó. Thân thể anh ấy gầy rộc, mặt mũi vàng ệch như người mắc bệnh lao, hai con ngươi lồi ra chỉ toàn những mắt là mắt. Bình thường anh ấy vốn không phải là người có sắc mặt tốt thì nay lại càng xanh xao bội phần và ngày một suy nhược. Anh ấy thật đáng thương. Thế mà ngày ngày, không thiếu một buổi nào, anh ấy đều ra ngoài và đi lang thang ở đâu đó từ trưa tới tận tối muộn mới về như thế người ta đi làm. Mọi người có hỏi anh đã đi đâu nhưng anh ấy không đáp lại câu nào. Mẹ tôi rất lo lắng. Bà ấy tìm đủ mọi cách để tìm hiểu xem thứ gì đã khiến anh ấy câm lặng như vậy nhưng thất bại. Sự việc kéo dài trong suốt một tháng cơ đấy.
Vì quá lo lắng nên một ngày, mẹ tôi đã nhờ tôi lén đi theo anh tôi để xem anh ấy đi đâu. Quá trưa hôm ấy, cũng giống với hôm nay, đó là một ngày trời u ám, khó chịu, anh trai tôi mặc chiếc áo khoác nhung đen kiểu Âu rất thời thượng, trên vai khoác theo chiếc kính nhìn xa này và thất thểu đi bộ về phía đường sắt xe ngựa ở phố Nihonbashi. Tôi đã bám theo nhưng không để anh trai tôi phát hiện. Xong việc rồi ư? Không, anh trai tôi chờ tuyến xe ngựa đi tới Ueno đến rồi leo phắt lên đó và đi mất. Khác với tàu hỏa bây giờ, vì không có nhiều chuyến nên tôi không thể chờ chuyển sau để đuổi theo anh trai tôi được. Chẳng còn cách nào khác, tôi đành phải móc hầu bao của mình lấy những đồng tiền tiêu vặt mà mẹ tôi cho và leo lên xe kéo. Mặc dù xe kéo hơi chậm so với xe ngựa nhưng nếu chọn được phu xe khỏe mạnh thì cũng không bị mất dấu xe ngựa kéo.
Anh tôi xuống xe ngựa thì tôi cũng xuống theo. Tôi lại bước thấp bước cao theo gót anh ấy. Anh ấy tới nơi có đặt tượng Phật Quan Âm ở Asakusa. Anh tôi đi qua các gian hàng, tới chính điện rồi đi ra khu vui chơi phía sau điện. Anh ấy rẽ qua biển người để đi đến trước tòa tháp mười hai tầng mà tôi đã nói khi nãy. Đi qua cổng đá, anh tôi trả tiền chỗ lối vào có đề dòng chữ “Ryounkaku” rồi mất hút vào trong tòa tháp. Tôi vô cùng ngạc nhiên, có nằm mơ tôi cũng không thể tin được hằng ngày anh tôi lại đến một nơi như thế này. Hồi đó tôi chưa hai mươi, vẫn còn là một đứa trẻ. Trong tâm hồn non nớt của mình, tôi có một suy nghĩ hết sức khó hiểu là tại sao anh trai mình lại bị mê hoặc bởi con quái vật mười hai tầng này.
Tôi đã được bố dẫn lên tòa tháp mười hai tầng này một lần, từ đó trở đi không trở lại lần nào nữa. Chẳng hiểu sao tôi thấy sợ nhưng vì anh trai tôi đã leo lên đó nên tôi cũng đành phải leo lên những bậc đá màu xám, chậm hơn anh tôi một tầng. Cửa sổ bên trong thì bé, bức tường gạch lại dày nên tôi cảm thấy rờn rợn như đi vào hang tối. Hồi đó đúng vào thời điểm bùng nổ chiến tranh Nhật - Thanh nên trên một mảng tường có treo la liệt những bức tranh sơn dầu hiếm lạ về chiến tranh. Những binh lính Nhật Bản với khuôn mặt dữ dằn như của chó sói, vừa hét lớn vừa cầm súng lưỡi lê xông lên trong khi binh lính Trung Quốc mặt và môi tím ngắt đang dùng cả hai tay giữ chặt bụng ngăn không cho máu đỏ phun ra, những cái đầu với bím tóc dài bay lên không trung như những quả bong bóng. Những bức tranh sơn dầu với cảnh tượng máu me, đầy đau thương ấy sáng lên nhờ ánh sáng yếu ớt từ những ô cửa sổ nhỏ. Ở giữa là lối đi với những bậc đá tối tăm, kéo dài vô tận mãi lên trên như vỏ con ốc tai. Đó thực sự là một cảm giác lạ thường.
Trên đỉnh hình bát giác chỉ có độc một lan can chứ không có tường và nó trở thành hành lang có tầm nhìn tuyệt vời. Khi leo lên được đến đó, khung cảnh chợt bừng sáng đến ngỡ ngàng, khác hẳn với lối lên tối tăm lúc trước. Bầu trời gần đến mức dường như có thể với tay chạm được đến mây. Nhìn ra toàn cảnh, tôi thấy những mái nhà ở Tokyo trông lộn xộn như một đống rác còn khu Odaiba ở Shinagawa thì giống tiểu cảnh bonsai trên khay đá. Tôi cố gắng chịu đựng cơn chóng mặt và nhìn xuống thì thấy chùa Quan Âm ở tận dưới thấp, những món đồ phục vụ giải trí nhỏ xíu như đồ chơi còn người đi lại phía dưới chỉ thấy được mỗi chân và đầu.
Trên đỉnh tháp, khoảng mười người túm tụm lại ở một góc, họ vừa nhìn về phía biển Shinagawa vừa thì thầm bàn tán. Quay sang bên này, tôi thấy anh tôi đứng một mình một góc, đưa kính nhìn xa lên mắt và nhìn về phía chùa Asakusa. Nhìn từ phía sau, tôi thấy anh mình trong chiếc áo khoác nhung đen nổi bần bật giữa những đám mây trắng ảm đạm. Vì không thể nhìn thấy gì trong mớ hỗn độn bên dưới nên mặc dù biết đó là anh tôi nhưng tôi vẫn có cảm giác như người đó là một nhân vật trong bức tranh sơn dầu của phương Tây, uy nghiêm và thần bí đến mức tôi không dám lên tiếng gọi anh ấy.
Nhưng nhớ đến lời mẹ dặn, tôi tự nhủ mình không thể im lặng đứng nhìn như thế này được nên tôi đã tiến lại gần sau lưng anh trai tôi. Anh đang nhìn gì vậy? Tôi hỏi. Anh tôi giật mình quay lại. Mặt anh tôi lúc đó hiện rõ vẻ khó xử nhưng anh không trả lời tôi. Anh ơi, bố mẹ lo lắng cho sức khỏe của anh lắm. Mọi người đều lấy làm lạ, không biết hằng ngày anh đi đâu. Thì ra là anh tới đây à? Anh có thể nói em nghe lý do vì sao anh đến đây không? Bình thường anh em mình rất thân nhau nên anh nói cho mình em biết thôi được không? Rất may là gần đó không có ai nên tôi đã cố gắng đứng thuyết phục anh trai tôi trên đỉnh ngọn tháp.
Ban đầu, anh tôi kiên quyết không chịu nói ra nhưng vì tôi nài nỉ nhiều quá nên anh tôi cũng đành phải đầu hàng và kể cho tôi nghe bí mật mà anh giấu kín trong lòng một tháng nay. Nhưng tôi phải nói trước, nguyên nhân khiến anh tôi khổ tâm đến như vậy lại là một việc rất kì lạ. Theo lời kể của anh tôi thì khoảng một tháng trước, khi leo lên tầng mười hai của tòa tháp và nhìn xuống chùa Quan Âm bằng kính nhìn xa thì anh tôi tình cờ bắt gặp khuôn mặt của một thiếu nữ trong đám đông ở phía dưới. Cô gái đó xinh đẹp đến mức không lời nào có thể diễn tả được vẻ đẹp ấy, dường như cô ấy không thuộc về thế giới này. Anh tôi nói, bình thường anh vốn lạnh lùng với các cô gái nhưng chỉ với cô gái trong chiếc kính nhìn xa này, con tim anh đã trở nên bối rối, loạn nhịp đến rùng mình.
Lúc đó, chỉ vừa mới nhìn qua anh trai tôi đã giật mình sửng sốt nên hạ kinh xuống, nhưng rồi anh lại muốn ngắm cô gái thêm một lần nữa nên đã đưa kính lên và mải miết tìm nhưng không thấy khuôn mặt của cô gái đâu nữa. Nhìn qua kính thì vật dù trông rất gần nhưng thực tế lại ở rất xa, lại giữa đám đông nữa nên mặc dù đã nhìn thấy một lần nhưng không có nghĩa lại có thể tìm thấy lần hai.
Sau đó, anh ấy kể rằng anh không thể quên được người con gái xinh đẹp trong chiếc kính này. Một người nhút nhát như anh ấy trở nên nhớ nhung, sầu cảm một cô gái theo kiểu tình yêu cổ điển ngày xưa. Thời nay, có thể nhiều người sẽ chê cười sự dễ dãi trong tình yêu của người xưa nhưng hồi đó, rất nhiều người đàn ông đều phải lòng người con gái họ chỉ tình cờ gặp một lần khi lướt qua nhau trên đường. Chắc tôi không cần phải nói nữa thì cậu cũng đã hiểu ra tại sao anh tôi hằng ngày vẫn đều đặn lê cái thân thể tàn tạ vì không ăn uống gì chỉ với một hy vọng hão huyền rằng sẽ gặp lại cô gái đó ở chùa Quan Âm bằng việc leo lên tòa tháp và tìm cô gái qua kính nhìn xa. Tình yêu là thứ kì lạ thật.
Kể xong câu chuyện, anh tôi lại sốt sình sịch giương cái kính lên và tiếp tục quan sát. Tôi rất đồng cảm với tâm trạng của anh trai tôi. Mặc dù anh đang tìm kiếm trong vô vọng nhưng tôi cũng không muốn ngăn anh lại mà chỉ thấy thương cho anh. Đứng nhìn anh từ đằng sau khiến tôi buồn không ngăn nổi những giọt nước mắt. Đúng lúc đó thì... Cảnh tượng đẹp đẽ thần kì đó, suốt đời này tôi sẽ không thể quên. Dù là chuyện cũ đã xảy ra hơn ba mươi năm về trước nhưng khi tôi nhắm mắt lại như thế này, những sắc màu rực rỡ đó lại hiện ra như thể trong mơ.
Khi nãy tôi có nói, vì đứng ở sau lưng anh trai tôi nên những thứ tôi có thể nhìn thấy được là bầu trời và những đám mây trôi lãng đãng. Dáng người gầy gò trong chiếc áo khoác rộng kiểu Âu như đang lơ lửng trong không trung với những đám mây trôi, tựa như một bức tranh. Nhưng bất ngờ có vô vàn những quả bóng bay với các màu đỏ, xanh lam, tím thi nhau bay lên bầu trời đầy mây trắng như người ta bắn pháo hoa. Chỉ nghe kể lại thì chắc cậu không hình dung ra được đâu nhưng nó đẹp như tranh, lại như một điềm báo nên tôi bỗng cảm thấy một nỗi sợ hãi dâng lên khó nói thành lời. Không rõ chuyện gì nên tôi vội nhìn xuống dưới xem thế nào. Thì ra người bán bóng bay đã sơ ý để toàn bộ số bóng bay bay hết lên trời cùng lúc. Không giống như bây giờ, ngày xưa bóng bay vẫn là thứ rất lạ lẫm. Dù đã biết rõ sự việc rồi nhưng tôi vẫn cảm thấy rất lạ.
Lạ lùng hơn nữa là tuy nó không phải nguyên nhân nhưng đúng lúc đó, anh trai tôi trở nên vô cùng phấn khích. Khuôn mặt nhợt nhạt của anh ấy đỏ bừng hơi thở gấp gáp. Anh đi về phía tôi rồi đột nhiên nắm lấy tay tôi và kéo đi phăm phăm. “Đi thôi. Nếu không đi nhanh thì sẽ không kịp đâu.” Tôi vẫn bị anh kéo đi, vừa bước xuống những bậc đá tôi vừa hỏi lý do tại sao thì anh nói đã tìm thấy cô gái kia rồi. Cô gái ấy ngồi ở căn phòng lớn có trải chiếu xanh, nếu bắt đầu đi từ bây giờ thì có thể cô ấy vẫn ở nguyên chỗ cũ.
Nơi anh trai tôi tìm kiếm nằm ở sân sau của chùa Quan Âm, dấu hiệu nhận biết là một cây thông lớn. Vì anh ấy nói cô gái ngồi ở đó nên chúng tôi đã đi ra đó để tìm kiếm. Đúng là có cây thông thật nhưng gần đó không có chỗ nào giống một ngôi nhà cả. Tôi nghĩ chắc là anh tôi si mê quá mà thành ra mộng mị mất rồi nhưng nhìn bộ dạng chưng hửng của anh, tôi lại thấy tội nghiệp cho anh làm sao. Cố vớt vát lấy hy vọng, tôi bèn hỏi thử những hàng nước xung quanh đó nhưng không thấy bóng dáng hay khuôn mặt của cô gái nào như thế.
Trong lúc mải đi tìm kiếm cô gái, tôi đã lạc mất anh tôi. Tôi đi mất một vòng quanh các hàng nước và cuối cùng quay lại chỗ cây thông. Ở đó có rất nhiều các gian hàng nằm san sát cạnh nhau. Một gian hàng kinh doanh rạp chiếu bóng thùng đang quất roi kêu vun vút để mời khách. Tôi liếc nhìn thì thấy anh mình đang đứng khom lưng và say sưa nhìn vào chiếc kính. Anh đang làm gì thế? Tôi vỗ vào vai anh và hỏi. Anh tôi giật mình quay lại. Bây giờ tôi vẫn không quên được khuôn mặt của anh tôi lúc đó. Tôi không biết phải diễn tả thế nào. Mặt anh tôi nghệt ra, mắt nhìn về xa xăm, giọng nói thì lạc hẳn đi. ‘Cô gái mà chúng ta tìm ở trong này đấy!' Anh tôi nói.
Nghe anh nói vậy, tôi cũng vội cúi xuống và nhìn vào kính. Đó là bộ phim về Yaoya Oshichi. [18] Lúc đó, đúng đến đoạn Oshichi đang tựa vào người tình là Kichiza ở thư đường chùa Kichishou. Tôi không bao giờ quên được. Vợ chồng chủ rạp chiếu bóng thùng vừa gõ chiếc roi theo nhịp vừa cất giọng khàn khàn và hát ‘tựa lên đầu gối chàng nói với chàng bằng ánh mắt.’ À, thì ra câu hát ‘tựa lên đầu gối chàng nói với chàng bằng ánh mắt’ này đã lọt vào tai anh tôi.
Những nhân vật trong phim chiếu bóng đó đã được một nghệ nhân rất nổi tiếng làm thành một bức tranh vải. Khuôn mặt của cô gái Oshichi đó đẹp một cách sống động. Đến tôi nhìn còn thấy như cô gái đang sống thật nên những lời anh trai nói với tôi trước đây không phải không có lý. Anh tôi còn nói ‘Dù biết cô gái này chỉ là sản phẩm của bức tranh vải đi chăng nữa thì anh cũng không từ bỏ. Mặc dù rất buồn nhưng anh không thể quên cô ấy. Anh rất muốn biến thành Kichiza, người đàn ông trong bức tranh để được nói chuyện với cô gái này dù chỉ một lần thôi cũng được.’ Thế rồi anh ấy cứ đứng lặng thinh như bất động và lơ đễnh nhìn đi chỗ khác. Tôi ngẫm nghĩ một hồi mới vỡ lẽ, để lấy ánh sáng, chủ rạp chiếu bóng thùng đã mở nắp ở phía trên nên từ trên đỉnh của tòa tháp mười hai tầng, anh tôi đã nhìn thấy bức tranh.
Lúc đó, trời cũng đã nhá nhem tối, ai nấy đều tản hết đi nơi khác, chỉ còn lại hai, ba đứa trẻ tóc kiểu bát úp vẫn đi lòng vòng quanh rạp chiếu phim thùng mà chưa chịu về. Buổi trưa trời còn u ám nhiều mây thì đến tối những đám mây ập xuống mỗi lúc một gần hơn như sắp mưa đến nơi. Bầu không khí khó chịu, nặng nề khiến tâm trạng con người trở nên bức bối. Sau đó, tôi nghe thấy tiếng trống vang lên bên tại. Anh tôi thì vẫn đứng chôn chân và nhìn ra mãi phía xa cứ như thế khoảng một tiếng đồng hồ.
Trời đã tối sầm. Chiếc đèn nhấp nháy của gánh xiếc đang tỏa ánh sáng lung linh, đẹp đẽ ở phía xa. Anh trai tôi chợt bừng tỉnh. Bất ngờ, anh nắm lấy cánh tay tôi và nói những lời lạ lùng: ‘Ồ, anh vừa nghĩ ra cái này. Anh nhờ em dùng cái kính nhìn xa này, nhưng nhớ áp phần ống kính to hơn lên mắt rồi nhìn sang anh nhé’. ‘Để làm gì cơ?!’ Tôi hỏi. ‘Hỏi làm gì. Cứ làm như anh bảo đi’. Anh tôi chẳng trả lời câu hỏi của tôi. Từ bé, tôi vốn là kẻ không ưa gì những cái kính. Bất kể là kính nhìn xa hay kính hiển vi thì tôi đều thấy kinh hãi khi có vật gì đó đang ở xa mà bay lại gần trước mắt hoặc thấy những con sâu bé tí bỗng trở nên to đùng như những con quái vật hay những con ma. Thế nên tôi không mấy khi nhìn vào cái kính nhìn xa quý báu của anh tôi, vì thế tôi mới nghĩ nó là một món đồ ma quái.
Trời đã tối chẳng nhìn rõ mặt người vậy mà lại bảo tôi lấy cái kính nhìn xa gí vào mắt và nhìn anh trai tôi phía sau sân chùa Quan Âm quạnh hiu này càng khiến tôi sợ. Nhưng anh trai tôi đã nhờ nên tôi đành phải làm theo. Vì nhìn ngược nên anh trai tôi đứng cách đó bốn, năm mét trông bé xíu, chỉ tầm khoảng sáu mươi cen-ti-mét. Mặc dù nhỏ nhưng tôi vẫn thấy rõ anh tôi nổi bật trong bóng tối. Ngoài anh trai tôi ra thì không còn bất cứ cảnh sắc nào lọt trong ống kính nữa nên tôi có thể thấy hình dáng anh trai tôi trong chiếc áo khoác kiểu Âu chính giữa ống kính. Tôi càng nhìn thì thấy anh tôi càng bé lại chỉ còn khoảng ba mươi cen-ti-mét, nhỏ nhỏ xinh xinh như búp bê. Và tôi nhìn thấy bóng dáng đó đột nhiên lơ lửng trong không trung rồi trong nháy mắt tan biến vào bóng tối.
Tôi vội bỏ kính ra, sợ hãi hét lên gọi anh ơi rồi chạy về phía anh tôi vừa biến mất. Tôi tìm mãi, tìm mãi mà không thấy bóng dáng của anh tôi đâu. Anh ấy chỉ vừa mới biến mất không lâu, không thể đi xa được nhưng tôi đã hỏi khắp nơi mà không ai hay biết. Thế là anh tôi đã biến mất khỏi thế giới này... Kể từ đó, tôi càng sợ cái kính nhìn xa đó hơn. Tôi ghét cay ghét đắng cái kính mà chủ nhân của nó là thuyền trưởng của đất nước nào đó. Không biết những cái kính khác như thế nào nhưng chỉ riêng cái kính này, bất kể là gì cũng không được nhìn ngược, bởi tôi tin chắc nếu làm thế thì tai họa sẽ ập đến. Bây giờ thì cậu đã hiểu vì sao tôi phải vội vàng ngăn cậu lại khi cậu cầm ngược kính rồi đấy.
Trở lại với câu chuyện. Sau một hồi tìm kiếm, tôi cũng đã thấm mệt. Tôi quyết định quay trở lại phía trước rạp chiếu phim thùng. Lúc đó tôi chợt nhận ra một sự việc về anh trai mình. Ý tôi là, phải chăng anh tôi vì quá si tình cô gái trong bức tranh vải nên đã mượn sức mạnh của chiếc kính nhìn xa ma quái kia để thu nhỏ cơ thể mình lại cho bằng với kích thước của cô gái trong tranh rồi biến mất vào thế giới ấy? Thế là tôi quyết định tới nhờ chủ cửa hàng lúc này họ vẫn chưa đóng cửa, cho tôi xem lại đoạn ở chùa Kichishou. Cậu có tin được không? Đúng như những gì tôi nghĩ, anh trai tôi đã ở trong bức tranh thế chỗ cho Kichiza. Trong ánh sáng của ngọn đèn lồng, tôi thấy anh ấy đang ôm lấy Oshichi và nở một nụ cười hạnh phúc.
Nhưng tôi không hề thấy buồn, trái lại tôi còn rơi nước mắt khi anh trai tôi đã thực hiện được ước nguyện của mình. Tôi đã nài nỉ chủ cửa hàng để lại cho tôi bức tranh ấy bằng mọi giá. (Kì lạ là người ta chẳng nhận ra anh tôi trong bộ đồ Âu đã thế chỗ của Kichiza). Tôi lao như bay về nhà và báo cáo lại với mẹ tôi từ đầu đến cuối câu chuyện. Bố mẹ tôi đã nói gì ư? Bố mẹ tôi bảo tội bị điên và không tin những gì tôi nói. Thì bởi câu chuyện này rất khó tin mà. Ha ha ha ha ha ha.”
Nói rồi người đàn ông cười lớn. Tôi cũng cười với ông ta.
“Tôi nghĩ hai người bằng xương bằng thịt đó đã biến thành tranh vải mất rồi. Bằng chứng là sau đó, anh tôi hoàn toàn biến mất khỏi thế giới này. Người khác thì vẫn tưởng họ bỏ nhà ra đi. Kì lạ lắm phải không? Rốt cuộc, bất chấp mọi người nói như thế nào thì tôi vẫn nài nỉ xin mẹ tôi bằng được tiền để mua bức tranh. Tôi đã mang nó đi từ Hakone đến Kamakura đấy bởi vì tôi muốn đưa anh tôi đi hưởng tuần trăng mật. Tôi cũng đã lên tàu và đi như thế này nhưng không thể nhớ ra chuyện hồi đó. Chắc là tôi đã đặt bức tranh bên cửa sổ giống bây giờ và cho anh trai tôi cùng người tình của anh ấy được ngắm cảnh sắc ở bên ngoài như tôi đã làm hôm nay. Anh trai tôi hạnh phúc biết nhường nào. Cô gái cũng vậy. Làm sao cô ấy có thể ghét một người có trái tim chân thành như anh trai tôi được. Hai người bọn họ giống như cặp đôi mới cưới thực sự. Mặt họ ửng lên vì ngại ngùng, đầu gối tay ấp, họ trao nhau những lời yêu thương mặn nồng.
Sau đó, bố tôi gác lại công việc kinh doanh ở Tokyo và về một vùng quê ở gần Toyama để sống. Tôi cũng theo gia đình về đó sinh sống, có lẽ cũng đã hơn ba mươi năm rồi kể từ khi anh trai tôi biến mất. Thỉnh thoảng tôi cũng muốn cho anh tôi được nhìn thấy sự đổi thay của Tokyo nên tôi mới cùng anh đi du lịch thế này.
Nhưng điều đáng buồn là người con gái có sống bao năm đi chăng nữa vẫn không già vì cô ấy là sản phẩm do con người tạo ra nhưng anh trai tôi lại khác. Sau khi đã bước vào trong tranh vải rồi thì anh ấy vẫn là một con người, nên theo năm tháng, anh ấy cũng già đi giống chúng ta. Cậu hãy nhìn mà xem. Người thanh niên thư sinh, đẹp đẽ hai mươi lăm tuổi tóc nay đã bạc và khuôn mặt đầy những nếp nhăn. Điều đó với anh tôi mới đáng buồn làm sao. Trong khi người con gái anh ấy yêu mãi trẻ đẹp thì anh ấy ngày càng già và xấu xí. Đáng sợ thật! Khuôn mặt của anh tôi trông rất buồn. Từ mấy năm trước, mặt anh ấy đã khắc khổ thế này rồi. Tôi thấy thương thay cho anh tôi.”
Người đàn ông già buồn bã nhìn người anh trai trong bức tranh vải rồi như chợt nhớ ra điều gì, ông ta nói.
“Ồ, tôi vừa kể một câu chuyện rất dài nhưng chắc là cậu hiểu những gì tôi nói. Cậu sẽ không bảo tôi bị điên giống như những người khác đã nói đúng không? À mà cũng tại tôi muốn kể nên tôi mới giãi bày hết với cậu. Anh và cô người tình chắc đã thấm mệt rồi, lại còn kể chuyện này trước mặt hai người nữa nên anh xấu hổ lắm phải không? Bây giờ em sẽ để anh nghỉ ngơi nhé!”
Vừa nói, người đàn ông vừa nhẹ nhàng lấy tấm vải đen bọc bức tranh vải lại. Trong thoáng chốc, không biết có phải do tôi tự tưởng tượng ra không mà tôi thấy khuôn mặt những búp bê trong tranh vải khẽ biến đổi, tôi thấy khỏe miệng họ hơi cong cong và ngượng ngùng mỉm cười chào tôi. Từ lúc đó trở đi, người đàn ông già hoàn toàn im lặng. Tôi cũng không nói thêm gì nữa. Đoàn tàu vẫn uể oải chạy cùng âm thanh đơn điệu như lúc trước trong màn đêm.
Được khoảng mười phút thì tôi nghe thấy tiếng bánh xe chạy chậm lại, bên ngoài cửa sổ, đôi ba ngọn đèn sáng lập lòe. Tàu dừng lại ở một ga nhỏ giữa những ngọn núi mà tôi không biết tên. Tôi thấy một nhân viên của nhà ga đứng trơ trọi ở thềm sân ga.
“Tôi xin phép xuống trước nhé. Tôi sẽ trọ lại nhà một người họ hàng của tôi ở đây một đêm.”
Người đàn ông ôm bức tranh đã được bọc kín và thoắt đứng dậy. Ông ta chào tôi rồi xuống tàu. Từ cửa sổ, tôi dõi nhìn theo bóng dáng lênh khênh, gầy guộc của ông ta từ phía sau lưng (hình dáng đó giống hệt người đàn ông già trong bức tranh vải). Ở chỗ rào chắn, ông trao tấm vé cho nhân viên nhà ga rồi cứ thế tan vào trong bóng tối và biến mất.