← Quay lại trang sách

- 5 -

Tôi còn lại một mình với ông. Tiếp tục nuốt cá và cơm, ông bắt đầu nói như thể nói với mình:

- Thiết giáp hạm đó là chiếc tàu chở đô đốc, là tàu to nhất trong hạm đội. Lớp thép bọc của vỏ tàu cho phép chịu được những tiến công của đầu đạn và tên lửa ngầm. Nó cũng được trang bị tốt nhất để chống máy bay. Trên boong tàu có những ổ súng và thép pháo.

- Bố cháu chết như thế nào?

Ông do dự, nuốt một miếng, vẫn không nhìn tôi.

- Một quả bom Nhật đã phá tung boong tàu.

- Một kamikaze ư?

Lần này, ông ngước mắt lên, ngạc nhiên.

- Sao cháu biết?

- Cháu không ngốc như ông tưởng đâu.

Cái gập của bà đang lại gần. Tôi tung ra:

- Cháu muốn biết cha cháu là ai.

- Tôi nghiệp cháu tôi, chúng ta cũng không biết - ông thở dài trước khi bà vào, bộ mặt biến sắc, cái mặt nạ được cởi bỏ ra do một sự pha trộn lo âu và phẫn nộ.

- Tôi đã buộc nó uống thuốc an thần. Nó đã cào tôi. Rồi quay lại phía tôi: Mày ranh ma đấy! Mày tưởng mọi người chưa chán với mẹ mày à?

Những giọt lệ trào lên mắt tôi. Tôi nắm chặt tay.

- Dọn bàn đi, nếu cháu không muốn ăn. Bà không đói nữa.

Tôi ném vào sọt rác thức ăn thừa trong ba cái đĩa trong lúc ông gọt trái cây. Nào tháp pháo, nào đại bác… - nếu ít ra một quả bom nổ ngay giữa phố Bienfaisance này. Cha tôi đi biển. Trên biển không ai nghẹt thở.

Thứ Năm sau đó, Nathalie đập ống tiền, rồi chúng tôi đến hiệu sách Gibert mua tất cả những gì có thể được về chiến tranh Nhật Bản. Giam mình trong buồng cô ta, chúng tôi bỏ cả buổi chiều để đọc những cuốn sách quá khó đối với chúng tôi, dừng lại ở những tấm ảnh tìm thấy ở sách này sách khác: những con tàu bốc cháy, những cái boong tàu vỡ toác, những cái chấm đen nhỏ xíu trên trời biểu thị một chiếc máy bay sắp sửa bổ nhào, những chiếc khác ở mặt đất, những pháo đài bay B21, những máy bay chiến đấu Mitsubishi Zéro, những nhóm phi công kamikazes đứng chụp hình cho gia đình trước cuộc chiến công, những khu phố của Tokyo bị ném bom. Chúng tôi nhảy thẳng ngay vào chương nói về Okinawa và chúng tôi tìm được: Tầu Maryland, thoát nạn ở Pearl Habor và ở Leyte, bị một kamikazes tiến công ngày 6 tháng Tư năm 1945. Những hư hỏng có thể sửa chữa được. Nhưng ngày 7 tháng Tư một kamikaze thứ hai đâm nát chiếc Zéro của nó trên boong tàu. Lửa lan đến kho đạn làm nổ tung khiến nhiều người trong số thủy thủ bị chết. Con tàu bị hỏng. Nó không đắm nhưng không dùng được vì bị hư hỏng nặng, nó buộc phải trở về Mỹ. Cha tôi hy sinh ngày 7 tháng Tư năm 1945. Cái chết của ông được ghi vào sách. Tôi lao vào đọc. Tôi khám phá sự cám dỗ của việc đọc sách, cái khát khao những trang giấy đen kịt, những dấu hiệu nó cắt không gian va thời gian để nhốt lại trong lòng những trang giấy như giữa những cái lưới làm bằng nét sổ của chữ nghĩa. Tôi đã nói rằng tôi không biết suy nghĩ. Tôi không suy nghĩ khi tôi đọc. Tôi bị thôi miên. Tôi nuốt các từ cho đến khi các dòng chữ nhòe đi trước mắt tôi, cho đến khi tôi u mê. Đó gần như là một nỗi thèm chết, tôi tin như vậy. Một nỗi thèm chết trong cuộc chiến tranh Nhật Bản.

Hình như mẹ tôi sinh bệnh vì tôi. Cứ như thể mẹ chưa ốm! Mẹ không chơi trò chắp hình nữa. Mẹ đi vòng quanh trong buồng và gọi tôi không biết mệt. Điều này làm tôi bực tức. Tôi, tôi có gọi bà ấy đâu? (Bây giờ tôi nghĩ rằng mẹ đã phải giả vờ uống thuốc an thần, có lẽ là để quấy rầy chúng tôi, nhưng làm sao hiểu được điều đó vào lúc này?) Mẹ lại bắt đầu ra ngoài, giống như khi tôi còn bé và trở về say mềm vào bất kỳ giờ nào ban ngày cũng như ban đêm. Bà không còn sức để chống lại mẹ. Đầu gối của bà làm bà đau. Mặc dù bà không than vãn, nhưng ai cũng trông thấy rõ điều đó trên mặt bà. Bà có thể làm gì chống lại một người phụ nữ chưa đầy bốn mươi tuổi? Chỉ có mình tôi có thể can thiệp vào. Mẹ không còn làm cho tôi sợ nữa. Nhưng tôi không buồn can dự vào. Trái lại, tôi tò mò giám sát sự thoái hóa của mẹ. Đó là cái cách tôi bước đầu quan tâm đến mẹ. Một hôm, tôi đi theo mẹ.

Mẹ đi theo đại lộ Malesherbes về phía Saint-Augustin, mẹ bước mau như một người biết rõ mình đi đâu, không để ý đến xe cộ khi qua đường. Mẹ không có túi, không có tiền, không giấy tờ. Mẹ đi qua nhà thờ và dừng lại trước câu lạc bộ quân đội, có vẻ do dự một lát, rồi đẩy cửa. Tôi đứng lại, sửng sờ, thất vọng. Không thể tưởng tượng rằng mẹ lại quen một người mà tôi không biết. Sau một lát, tôi áp mặt vào cửa kính. Có những sỹ quan mặc đồng phục đang nói chuyện trong đại sảnh, tay cầm mũ cát-két. Lúc đầu tôi không nhìn thấy mẹ. Rồi chợt mẹ ở đó, ngồi trên ghế tráng kỷ, hút một điếu thuốc lá, tôi không biết do một sự bí ẩn nào. Bộ mặt mẹ có một cái gì đó kỳ lạ, một thứ ánh sáng không bình thường. Mẹ nhìn nhóm sĩ quan ở giữa đại sảnh. Mẹ có vẻ như chờ đợi. Một thủy thủ cúi xuống người mẹ. Mẹ lắc đầu ra hiệu không đồng ý. Thế là tôi hiểu từ đâu mà tôi thấy mẹ kỳ cục: môi mẹ tôi đỏ hồng như máu. Mẹ vắt chéo chân, hai tay buông thõng, hai bên người trên chiếc ghế dài. Cái áo khoác của mẹ hé mở. Và tôi nhận ra rằng, mặc dù đôi giày của mẹ có xấu xí và chiếc áo mưa của bà tôi có cũ nát, mẹ tôi vẫn đẹp, cao lớn, thanh mảnh, nước da mịn màng, đôi mắt trong xanh, mái tóc dài màu hạt dẻ xõa trên đôi vai. Tôi không biết tý gì về niềm hoan lạc, nếu không phải là niềm hoan lạc trong đôi mắt của Nathalie, nhưng tôi đoán có cái gì đó ở phía sau con người mẹ, cái gì đó nó tuột khỏi mẹ và làm mẹ thay hình đổi dạng, cái gì đó mà mẹ đã tự nguyện vạch ra trên đôi môi của mẹ. Tôi lùi lại và ngồi xuống một cái ghế, như người bị chặt mất chân.

Sau nửa tiếng đồng hồ, một sỹ quan đi ra, tay xách cặp và ngay sát gót ông ta là mẹ. Người đàn ông đi về phía phố Madeleine, và mẹ tôi đi theo đằng sau ông ta vài bước. Sau khi qua đường, mẹ đuổi kịp ông ta, mẹ nói với ông ta. Tôi không thể nhìn rõ họ. Nhưng sau một lát, tôi nhìn thấy mẹ nép sát vào người ông ta và áp má vào vai ông. Người đàn ông cố gắng gỡ mẹ ra. Mẹ níu lấy cánh tay ông ta suốt dọc phố Royale, như thể ông ta lôi mẹ đi, cái cặp lủng lẳng giữa hai người. Có những người đi đường quay đầu lại và dừng bước một lát. Rồi ông ta giằng ra mạnh đến nỗi mẹ loạng choạng. Ông ta biến mất sau một cái cửa ở đó có một người thủy thủ chào ông ta. Mẹ tôi không đi theo ông. Mẹ đứng đó, hai tay thõng xuống, không động đậy như người chết đứng. Tôi gần như sợ sự bất động của mẹ. Trời bắt đầu mưa, tóc mẹ bết lại trên mặt. Mẹ chậm chạp đi ngược về phía tôi đang nấp dưới một cái cổng. Khi mẹ đi ngang tôi, tôi để ý thấy mặt mẹ lem luốc son môi do cọ vào người đàn ông, rồi một kỷ niệm làm tôi giật mình từ đầu đến chân: kỷ niệm về đường mẹ bôi lên miệng tôi.

Một lần, tôi bắt gặp mẹ dưới hàng cột ở La Madeleine, tựa lưng vào một cái cột và ôm ghì một gã đàn ông như thể mẹ nuốt chửng đôi môi hắn. Tôi đi theo họ đến một khách sạn nhỏ ở phố Vignon. Họ ở lại đó một giờ trong khi tôi đứng gác như một con chó. Một lần khác, mẹ bấm chuông ở cửa sau của Câu lạc bộ quân đội. Một buổi tối, đi học về tôi đi tìm mẹ, tôi thấy mẹ ngồi giữa hai thủy thủ đang chuốc rượu mẹ và cười vui vẻ tại quán rượu ở đại lộ Malesherbes. Tôi xấu hổ. Tôi khóc, chắc là do hai gã thủy thủ đã cười. Chúng tôi ăn tối mà không có mẹ. Mẹ về bước đi lảo đảo và suốt đêm chúng tôi nghe thấy mẹ rên rỉ: Andrew, Andrew…

Tôi không ngủ. Tôi nghe mẹ đi quanh quẩn trong buồng. Những cái ngăn kéo rút ra nhẹ nhàng, những bước chân rón rén, những cái lò xo rít lên. Mẹ chuẩn bị đi chơi đêm. Tôi bật đèn và tôi mở to cửa. Tôi muốn mẹ trông thấy tôi. Tôi muốn mẹ biết rằng tôi đã biết tất cả. Quả vậy sau năm phút, cái chốt cửa hạ xuống, rồi bộ mặt mẹ tôi hiện ra trong ánh sáng của cánh cửa hé mở.

Đỏ mặt tía tai. Mẹ vội vàng lùi lại. Bây giờ tôi là người gây nỗi sợ. Tôi là người trị vì phố Bienfaisance. Cửa hé mở lần thứ hai, rồi lại khép ngay. Mẹ hy vọng tôi ngủ để đi ra chăng? Mẹ có thể chờ mà. Mẹ sẽ phải chịu ngậm bồ hòn làm ngọt. Tôi đã học được câu thành ngữ này ở trường. Sự nhục nhã của những kẻ thua. Tôi nghe thấy tiếng khóc nức nở sau cánh cửa rất lâu. Tôi không vội, vài tiếng bước chân, rồi không còn gì. Không còn tiếng khóc, và không có một tiếng vo ve trong tai tôi. Chỉ có sự vắng lặng của đêm tối trong đó tôi thức một mình. Mẹ tôi không muốn có tôi. Thân thể tôi như thể được đặt bên cạnh tôi. Tôi không cảm thấy có nó. Tôi đứng dậy và trở về buồng của mẹ. Cái đèn đầu giường đang cháy. Mẹ mặc áo khoác nằm đó, trên giường. Mẹ ngủ như một kẻ chết đuối. Tôi cởi giày cho mẹ, đẩy chân mẹ lên giường, lau miệng mẹ bằng một miếng bông, đậy nút lọ thuốc ngủ, tắt đèn. Sự suy sụp tiến triển khá.

Hàng ngày tôi báo cáo với Nathalie. Cô không hài lòng. Các việc xảy ra không như cô mong muốn. Cô bảo rằng đáng lẽ ra tôi phải ngồi cạnh mẹ tôi và dịu dàng yêu cầu mẹ: Mẹ hãy nói với con về cha con. Mẹ hãy nói mẹ đã gặp cha như thế nào, hai người đã nói với nhau những gì lần đầu tiên. Con có giống cha không? Mẹ thích điều gì ở cha? Mẹ không thích điều gì? Mẹ, mẹ hãy nói với con, con là con gái mẹ, con là con gái của cha, con gái của bố mẹ. Bố có tặng quà cho mẹ không? Bố có thích viết thư không? Mẹ hãy cho con xem thư của bố. Con chắc là mẹ đã cất giấu chúng ở đâu đó. Mẹ hãy trả lời đi. Mẹ… Tôi nhún vai. Nếu cô tha thiết đến thế thì cô hãy đi mà tìm mẹ tôi. Tôi cũng thế, tôi cũng không hài lòng. Cô không để cho tôi chải tóc cho cô nữa, cô không gọi tôi là ếch nữa và cô nhìn tôi bằng một cái nhìn lo âu mà tôi không ưa. Tôi bị lường gạt. Thất vọng, tôi chai cứng hơn nữa. Tôi trở về nhà khi tôi thích, không bao giờ báo trước. Tôi tự nhốt mình trong buồng của tôi, không ăn uống và tại bàn ăn tôi cất lời để đặt ra những câu hỏi mà chẳng ai có thể trả lời. Sức khỏe của ông bà tôi kém đi. Chẳng bao lâu, bữa ăn tối hàng tháng cùng các linh mục không còn là vấn đề nữa. Vì Chúa không dịu dàng, mùa xuân đặc biệt ẩm ướt, tai hại với các bệnh thấp và bệnh cúm. Một buổi tối tôi thấy bà lả đi trong nhà bếp. Bà không biết mẹ tôi ở đâu, ông thì ở trên giường với một cái điếu to lớn, còn bà thì chưa chuẩn bị cơm tối. Cuối cùng thì gia đình bị tan rã.

Tôi sẽ dối trá khi nói rằng tôi sung sướng vì thắng lợi đó. Tôi mệt mỏi quá. Tôi dành thời gian ban đêm để đọc sách. Ban ngày, tôi chạy theo sau mẹ tôi, rồi chạy đến trường và tự mình viết giấy xin phép những buổi nghỉ học. Tôi lớn lên rất nhiều. Và nhất là, tôi lại bị những tiếng vo ve trong tai ngày càng to hơn, thường xuyên hơn. Cuối cùng bà phải gửi tôi đến một bác sĩ tai mũi họng, ông này không phát hiện được gì. Bà mua cho tôi một quả bóp bằng cao su, rồi khi có cơn tôi bóp nước nóng vào màng nhĩ, nó gây cho tôi chóng mặt. Nhưng ngoài sự mệt mỏi đó, tôi không biết suy nghĩ đầy đủ để hiểu rằng tôi đã giành được thắng lợi. Tôi đã bị Nathalie thúc đẩy, cô lôi cuốn tôi, thế thôi.