CHƯƠNG 12 PHÂN TỬ CỦA PHÉP PHÙ THỦY
TỪ GIỮA THẾ KỶ 14 đến cuối thế kỷ 18, một nhóm phân tử hóa học đã góp phần vào cái chết của hàng trăm ngàn người. Không thể biết được chính xác đã có bao nhiêu người, tại hầu hết các quốc gia ở châu Âu trong những thế kỷ này, đã bị thiêu chết, treo cổ, hoặc tra tấn vì bị cho là phù thủy. Con số ước lượng nằm trong khoảng bốn mươi ngàn đến hàng triệu người. Mặc dù những người bị buộc tội là phù thủy bao gồm đàn ông, phụ nữ, trẻ con, quý tộc, nông dân và thậm chí cả các tăng lữ, nhưng những lời buộc tội thường nhắm đến phụ nữ - những người đàn bà lớn tuổi nghèo khổ. Có rất nhiều nguyên nhân cho việc tại sao phụ nữ trở thành nạn nhân chính của những làn sóng giận dữ đầy ảo tưởng đã ám ảnh toàn bộ dân cư châu Âu trong hàng trăm năm. Chúng tôi cho rằng đã có một nhóm các phân tử hóa học, dù không hoàn toàn chịu trách nhiệm cho những cuộc đàn áp hàng thế kỷ, nhưng đã góp phần không nhỏ trong sự kỳ thị này.
Niềm tin vào ma thuật và phép phù thủy đã luôn là một phần của xã hội loài người, tồn tại từ rất lâu trước khi những cuộc săn phù thủy bắt đầu diễn ra vào cuối thời kỳ Trung cổ. Những bức chạm khắc hình ảnh phụ nữ ở thời kỳ Đồ đá được cho là để tỏ lòng tôn kính vì sức mạnh kỳ diệu của họ trong việc thụ thai. Những truyền thuyết của mọi nền văn minh cổ đại đều mang màu sắc siêu nhiên: những vị thần mang hình hài động vật, quái vật, những nữ thần sử dụng bùa chú, thuật sĩ, ma quỷ, yêu tinh, những linh hồn, những sinh vật đáng sợ nửa người nửa thú, và những vị thần sống trên trời cao, trong rừng, trong hồ, đại dương và ở dưới mặt đất. Châu Âu trước thời Thiên Chúa giáo cũng không phải là ngoại lệ với một thế giới đầy những màu sắc dị đoan và huyền bí.
Khi đạo Cơ Đốc lan rộng khắp châu Âu, rất nhiều những biểu tượng ngoại giáo và lễ hội đã được đưa vào những nghi lễ tôn thờ và ca tụng của Giáo hội. Chúng ta vẫn đón chào ngày lễ Halloween, một lễ hội Celtic của người chết, đánh dấu sự bắt đầu của mùa đông vào ngày 31 tháng 10, cho dù Giáo hội đã nỗ lực hướng sự chú ý của người dân khỏi lễ hội dị giáo này bằng cách đưa vào Ngày Các Thánh 1 tháng 11. Lễ Giáng Sinh bắt nguồn từ ngày lễ tôn vinh thần Satuya của người La Mã cổ đại. Cây giáng sinh và nhiều biểu tượng khác (nến, cây thường xuân, cây nhựa ruồi) mà chúng ta vẫn thường dùng trong lễ Giáng Sinh thực chất đều có nguồn gốc dị giáo.
Công việc vất vả và nỗi phiền muộn
Trước những năm 1350, thuật phù thủy được xem là sự thực hành ma thuật, một phương pháp trong quá trình nỗ lực kiểm soát thiên nhiên theo mong muốn của con người. Sử dụng các loại bùa ngải, với niềm tin rằng chúng có thể bảo vệ mùa màng hoặc con người, đọc thần chú để chi phối hoặc kiểm soát, và cầu khẩn các linh hồn là những điều rất bình thường. Trong hầu hết các vùng tại châu Âu, ma thuật là một phần được chấp nhận trong cuộc sống, và thuật phù thủy chỉ bị coi là tội lỗi khi gây ra thiệt hại. Nạn nhân của ma thuật hắc ám hoặc những điều xấu xa mang màu sắc huyền bí có thể tìm kiếm sự hỗ trợ hợp pháp chống lại thầy phù thủy, nhưng nếu nạn nhân không thể chứng minh trường hợp của họ, chính họ sẽ là người chịu phạt và chi trả mọi khoản phí của tòa án. Bằng cách này, những lời buộc tội vô căn cứ hiếm khi xảy ra. Các phù thủy cũng hiếm khi bị buộc tội chết. Thuật phù thủy không bao giờ là một tôn giáo có tổ chức, cũng không phải là một tổ chức chống tôn giáo. Thậm chí nó không hề có tổ chức hay sự sắp xếp nào. Nó đơn giản chỉ là một phần của văn hóa dân gian.
Nhưng vào khoảng giữa thế kỷ 14, một thái độ khác đối với thuật phù thủy đã xuất hiện. Cơ Đốc giáo không chống lại ma thuật, Giáo hội thừa nhận sự tồn tại của phép thuật và coi đó là những điều huyền diệu. Thế nhưng những phép thuật được thực hiện ngoài phạm vi kiểm soát của Giáo hội bị coi là việc làm của Satan. Phù thủy là tay chân của ma quỷ. Tòa án Dị giáo, tòa án của Nhà thờ Thiên Chúa giáo La Mã được thành lập vào khoảng năm 1233 để xét xử những người ngoại đạo - chủ yếu ở miền nam nước Pháp - đã được ủy nhiệm để xử lý thuật phù thủy. Một số nhà chức trách cho rằng khi những kẻ dị giáo bị loại bỏ hoàn toàn, Tòa án Dị giáo bắt đầu chú ý đến các thầy phù thủy như những nạn nhân mới của mình. Lúc đó trên toàn châu Âu, số lượng phù thủy tiềm năng rất lớn; nguồn thu nhập tiềm tàng cho những thành viên Tòa án Dị giáo, từ việc chia sẻ với chính quyền địa phương tất cả những của cải, tài sản của những người bị kết tội, dường như cũng rất lớn. Do vậy, các thầy phù thủy không chỉ bị kết tội vì làm những công việc ma quỷ, mà còn bị cho là đã ký kết hiệp ước với quỷ dữ.
Đây là tội lỗi nặng đến mức, vào khoảng giữa thế kỷ 15, những điều luật thông thường không còn được áp dụng cho những phiên tòa xử phù thủy nữa. Một lời buộc tội cũng được xem là bằng chứng. Việc tra tấn không chỉ được cho phép, mà còn được sử dụng thường xuyên; một lời thú tội khi không tra tấn bị xem là không đáng tin - một quan điểm dường như khá kỳ lạ trong thời đại hiện nay.
Phần lớn những việc được cho là do các phù thủy thực hiện - những nghi lễ truy hoan, quan hệ tình dục với ma quỷ, bay trên những cán chổi, giết và ăn thịt trẻ con - nghe ra rất vô lý nhưng vẫn được tin tưởng một cách nhiệt tình. Khoảng 90% những phù thủy bị buộc tội là phụ nữ, và những người cáo buộc có thể là cả đàn ông và phụ nữ. Cho đến bây giờ người ta vẫn tranh luận về việc phải chăng những cuộc săn phù thủy là sự hoang tưởng nhằm vào phụ nữ và tình dục nữ. Bất cứ khi nào xảy ra thiên tai - hạn hán, lũ lụt hay mất mùa - có không ít nhân chứng khai rằng họ thấy một hoặc một nhóm phụ nữ nghèo đã nhảy múa với quỷ dữ tại một buổi sabbat (buổi họp đêm của các phù thủy) hoặc đã bay lượn trên vùng nông thôn cùng với kẻ đồng hành thân thiết (một linh hồn hung ác dưới dạng thú nuôi, thường là mèo).
Sự điên cuồng này ảnh hưởng như nhau đến những quốc gia Cơ Đốc giáo lẫn Tin Lành. Đỉnh điểm của những cơn cuồng sát phù thủy, khoảng năm 1500 đến 1650, tại một số làng quê Thụy Sĩ hầu như không còn phụ nữ nào sống sót. Tại một số vùng của nước Đức, toàn bộ dân cư của một số ngôi làng đã bị đưa lên giàn thiêu sống. Tại Anh và Hà Lan, cơn sốt săn phù thủy không đạt đến mức điên cuồng như ở những nơi khác của châu Âu. Tra tấn là hành động bất hợp pháp theo luật của Anh, mặc dù vậy, các phù thủy bị nghi ngờ sẽ phải trải qua cuộc thử nước. Bị trói chặt và ném xuống một hồ nước, những phù thủy thực sự sẽ nổi trên mặt nước, họ sẽ được vớt lên và chịu hình phạt treo cổ. Nếu người bị buộc tội chìm xuống và chết đuối, họ được công nhận là không liên quan đến thuật phù thủy - một sự an ủi nhỏ cho gia đình nhưng không có ý nghĩa gì với bản thân nạn nhân.
Một viên đá ở Delft. Hà Lan, (khoảng đầu thế kỷ 18), minh họa một buổi xử phù thủy. Bị cáo phía bên phải, chỉ thấy phần chân trên mặt nước, đang chìm và sẽ được kết luận là vô tội. Bị cáo bên trái, có thể thấy được bàn tay satan đang giúp người này nổi lên mặt nước, tội của người này đã được chứng minh, người này sẽ được kéo ra khỏi nước và bị thiêu sống trên giàn thiêu. (Bản quyền của Horvath Collection, Vancouver)
Thời kỳ săn lùng phù thủy trôi qua rất chậm chạp. Nhưng với quá nhiều người bị buộc tội, sự vững chắc của nền kinh tế đã bị đe dọa. Khi chế độ phong kiến dần tàn lụi và thời kỳ Phục Hưng được mở ra, tiếng nói của những người đàn ông và phụ nữ dũng cảm chống đối lại sự điên rồ này đã trở nên mạnh mẽ hơn, dù biết rằng bản thân họ cũng sẽ phải lên giá treo cổ hoặc giàn thiêu; và như thế, sự điên cuồng bao phủ châu Âu trong nhiều thế kỷ đã từ từ suy yếu. Tại Hà Lan, cuộc hành hình phù thủy cuối cùng xảy ra vào năm 1610, tại Anh là vào năm 1685. Tại bán đảo Scandianvia, phù thủy cuối cùng bị hành hình - một phụ nữ 85 tuổi bị thiêu sống năm 1699 - đã bị kết tội chỉ dựa trên lời khai của những đứa trẻ rằng chúng đã bay cùng bà đến buổi lễ sabbat.
Vào cuối thế kỷ 18, hành hình phù thủy chính thức chấm dứt: tại Scotland vào 1727, Pháp vào 1745, Đức vào 1775, Thụy Sĩ 1782 và Ba Lan 1793. Nhưng mặc dù Giáo hội và quốc gia không còn hành hình phù thủy nữa, cộng đồng xã hội vẫn chưa sẵn sàng loại bỏ nỗi sợ hãi và sự ghê tởm hình thành trong hàng thế kỷ bắt bớ. Ở những cộng đồng sinh sống tại những vùng xa xôi hẻo lánh, niềm tin cũ kỹ vẫn còn thống trị, và nhiều người bị ngờ là phù thủy đã gặp phải những điều vô cùng tồi tệ và bi đát.
Rất nhiều phụ nữ bị buộc tội sử dụng thuật phù thủy là những nhà thảo dược học, chuyên dùng những loại cây cỏ địa phương để chữa bệnh hoặc làm giảm những cơn đau. Thông thường họ cũng có thể được nhờ cung cấp thuốc tình yêu, đọc bùa chú, và hóa giải ma thuật. Một số dược thảo họ sử dụng có hiệu quả chữa bệnh dường như cũng là điều kỳ diệu như những lời niệm chú và những nghi thức khác trong buổi lễ họ thực hiện.
Sử dụng và kê những đơn thuốc thảo mộc lúc đó, và cả hiện tại, ắt hẳn là một công việc nhiều rủi ro. Những phần khác nhau của thực vật chứa những lượng khác nhau của các hợp chất có dược tính; thực vật từ những vùng đất khác nhau cũng có thể có tính năng điều trị khác nhau; và tùy vào thời điểm trong năm, lượng thực vật cần để tạo ra một thang thuốc phù hợp cũng sẽ thay đổi. Một số loại thực vật trong một thang thuốc có hiệu quả không đáng kể, trong khi một số loại khác chứa dược lực với hiệu quả vô cùng cao nhưng cũng có thể là độc tính chết người. Những phân tử trong các loài thảo mộc này có thể gia tăng uy tín của nhà thảo dược học như là một phù thủy chân chính, nhưng cũng chính hiệu quả cao của chúng có thể trở thành nguyên nhân dẫn đến cái chết cho những phụ nữ này. Những nhà thảo dược học có khả năng chữa trị giỏi nhất có thể là những người đầu tiên bị gọi là phù thủy.
Thảo dược chữa bệnh, thảo dược độc hại
Salicylic acid, thu được từ cây liễu và cây râu dê rất phổ biến ở châu Âu, đã được biết đến nhiều thế kỷ trước khi Bayer and Company bắt đầu tiếp thị thuốc aspirin vào năm 1899 (xem chương 10). Rễ của cây cần dại thường được kê để ngăn các cơn chuột rút, ngò tây được cho là sẽ làm sẩy thai, và cây thường xuân được dùng để giảm nhẹ những triệu chứng của bệnh hen suyễn. Digitalis, một chất chiết xuất từ cây mao địa hoàng Digitalis purpurea, có chứa những phân tử từ lâu đã được biết đến là có ảnh hưởng rất mạnh đối với tim - glycoside tim mạch. Các phân tử này có tác dụng giảm sự rung, ổn định nhịp tim và tăng cường sự co bóp của tim, một sự kết hợp khả quan với những người thiếu kinh nghiệm. (Những hợp chất này cũng là saponin, rất giống với các hợp chất tìm thấy trong cây thổ phục linh và trong loại khoai dại Mexico, tiền chất dùng để tổng hợp thuốc ngừa thai norethindrone, xem chương 11). Một ví dụ cho hợp chất glycoside tim mạch là phân tử digoxin, một trong những loại thuốc được kê đơn rộng rãi ở Mỹ và cũng là một ví dụ điển hình cho dược phẩm dựa trên y học dân gian.
Vào năm 1795, bác sĩ người Anh William Withering đã sử dụng dịch chiết từ cây mao địa hoàng để điều trị chứng sung huyết tim sau khi nghe được những lời đồn về khả năng trị bệnh của loại cây này. Thế nhưng phải hơn một thế kỷ sau đó, các nhà hóa học mới có thể phân lập được phân tử tạo ra điều này.
Cấu trúc phân tử digoxin. Ba đơn vị đường trong hợp chất này có sự khác biệt so với trong hợp chất thu được của cây thổ phục linh và cây khoai dại Mexico. Phân tử digitoxin không có nhóm OH (đánh dấu với mũi tên) gắn vào hệ vòng steroid.
Trong chiết xuất Digitalis, có những phân tử khác rất giống với digoxin, ví dụ như phân tử digitoxin, chỉ thiếu một nhóm OH (xem hình trên). Các phân tử glycoside tim mạch có thể được tìm thấy trong các loại cây khác, thường là các cây thuộc họ huệ tây và mao lương, nhưng mao địa hoàng vẫn là nguyên liệu chủ yếu để sản xuất thuốc trợ tim ngày nay. Các nhà thảo dược học khá dễ dàng để tìm được các loại cây bổ tim ngay trong vườn nhà họ và ở những đồng cỏ lân cận. Người Ai Cập và La Mã cổ đại đã dùng dịch chiết từ cây hành biển, một loài trong họ lan dạ hương, làm thuốc bổ tim và (với liều lượng lớn) làm thuốc diệt chuột. Ngày nay chúng ta đã biết rằng cây hành biển chứa một hợp chất glycoside tim mạch khác.
Các hợp chất glycoside đều có dạng cấu trúc hóa học tương tự nhau, chính điều này tạo nên tác dụng trợ tim của chúng. Tất cả các phân tử đều có một vòng lactone năm cạnh gắn vào phần cuối của cấu trúc steroid, và thêm một nhóm OH gắn vào giữa các vòng C và D trong cấu trúc steroid, như hình dưới đây:
Phần cấu trúc không chứa đường của phân tử digoxin với nhóm OH có tác dụng trợ tim và vòng lactone, được đánh dấu bằng các mũi tên. Vòng lactone cũng có trong phân tử ascobic acid (vitamin C)
Các phân tử có ảnh hưởng đến tim không chỉ được tìm thấy trong thực vật. Những hợp chất mang độc tính có cấu trúc khá giống với các glycoside tim mạch cũng được tìm thấy trong nhiều loại động vật. Những phân tử này không chứa đường, và chúng cũng không được dùng làm chất trợ tim. Hơn nữa, chúng là những chất độc gây co giật và không có giá trị y học. Các động vật lưỡng cư chứa nhiều chất độc loại này; dịch chiết từ cóc và ếch vẫn thường được dùng làm chất độc tẩm lên những mũi tên tại nhiều vùng trên thế giới. Điều thú vị là, xếp sau mèo, cóc là loài được nhắc đến nhiều nhất trong các câu chuyện dân gian như là vật nuôi của phù thủy. Rất nhiều những loại thuốc độc do những người được xem là phù thủy điều chế được mô tả là có chứa các bộ phận của cóc. Phân tử bufotoxin là hoạt chất có trong nọc độc của loài cóc Bufo vulgaris phổ biến ở châu Âu, và là một trong những phân tử có độc tính mạnh nhất được biết đến. Cấu trúc của phân tử này có sự tương đồng đáng kinh ngạc tại hệ vòng steroid với phân tử digitoxin, và một nhóm OH tương tự thêm vào giữa vòng C và vòng D, và một vòng lactone sáu cạnh thay cho vòng năm cạnh trong digitoxin.
Phân tử bufotoxin trong nọc độc một loài cóc phổ biến có cấu trúc giống với digitoxin từ cây mao địa hoàng tại những vị trí xung quanh vòng steroid.
Tuy nhiên, bufotoxin là chất độc đối với tim chứ không phải chất trợ tim. Giữa hợp chất glycoside tim mạch của cây mao địa hoàng và chất độc từ cóc, những người bị coi là phù thủy đã có được một kho tàng các hợp chất chứa độc tính.
Ngoài sở thích đối với loài cóc, một trong những điều hoang đường nhất về phù thủy hay được nhắc đến là họ có thể bay, thường là trên những chiếc cán chổi, để đến những buổi sabbat - những buổi tụ họp vào giữa đêm, có vẻ như đây là một trò chế giễu khá điên rồ mà số đông tín đồ Cơ Đốc giáo đặt ra. Nhiều người bị quy kết là phù thủy đã phải thú tội, sau những cuộc tra tấn, là đã bay đến các buổi sabbat. Điều này không có gì là lạ - có lẽ chúng ta cũng sẽ đưa ra những lời thú tội như vậy một khi phải chịu những hành hạ thể xác đau đớn khủng khiếp trong quá trình tra khảo. Điều đáng ngạc nhiên là có một số người bị quy tội phù thủy thú nhận, ngay cả trước khi bị tra tấn, đã làm điều không tưởng là bay đến các buổi sabbat trên cán chổi. Thực chất việc thú tội cũng không giúp họ thoát khỏi khổ hình, có lẽ những phụ nữ này thực sự tin rằng họ đã bay lên từ các ống khói trên những cán chổi và đắm mình trong các hình thức hoan lạc. Có lẽ một hợp chất hóa học chính là lời giải thích phù hợp nhất cho niềm tin của những người này - một nhóm hóa chất gọi là alkaloid.
Alkaloid là những hợp chất từ thực vật, có một hoặc nhiều nguyên tử nitơ, thường hiện diện như một thành phần trong cấu trúc vòng carbon. Chúng ta đã gặp một số hợp chất alkaloid trong những chương trước - piperine trong hồ tiêu, capsaicin trong ớt đỏ, phân tử màu chàm, penicillin và folic acid. Có thể lập luận rằng, như một nhóm hóa chất, alkaloid có ảnh hưởng lớn đến diễn biến của lịch sử loài người hơn bất kỳ nhóm hóa chất nào khác. Các hợp chất alkaloid thường có tác động sinh lý trong cơ thể người, ảnh hưởng đến hệ thần kinh trung ương, và chúng cũng thường có độc tính rất cao. Một số hợp chất alkaloid thiên nhiên đã được sử dụng trong hàng ngàn năm để làm thuốc. Những dẫn xuất từ alkaloid đã tạo nên cơ sở cho rất nhiều dược phẩm hiện đại như phân tử giảm đau codeine, thuốc gây mê cục bộ benzocaine, và chloroquine, thuốc chống sốt rét.
Chúng ta đã nhắc đến vai trò của các hợp chất hóa học trong việc bảo vệ thực vật. Cây cỏ không thể trốn chạy khỏi nguy hiểm và không thể ẩn nấp ngay khi có dấu hiệu đầu tiên của kẻ thù; phương thức phòng vệ vật lý như những cành gai không phải luôn luôn hữu hiệu đối những loài ăn cỏ kiên quyết. Các hóa chất là dạng thức bảo vệ, tuy thụ động, nhưng vô cùng hiệu quả của cây cỏ đối với động vật cũng như nấm mốc, vi khuẩn và virus. Các hợp chất alkaloid là những hợp chất trong tự nhiên có tác dụng diệt nấm, sâu bọ và côn trùng. Ước lượng rằng, khi ăn các loại rau cỏ và các thực phẩm từ thực vật khác trong bữa ăn hằng ngày, mỗi người chúng ta đã ăn trung bình 1,5 g thuốc trừ sâu thiên nhiên. Ước tính dư lượng thuốc trừ sâu nhân tạo (được sử dụng trong quá trình trồng thực vật) chỉ vào khoảng 0,15 milligram/ngày, thấp hơn liều lượng thiên nhiên đến 10.000 lần!
Với một liều lượng nhỏ, những ảnh hưởng sinh lý của các hợp chất alkaloid thường được con người đón nhận một cách tích cực. Rất nhiều hợp chất alkaloid đã được dùng làm thuốc trong nhiều thế kỷ. Acrecaidine, một alkaloid có trong hạt của một loại cau, Areca catechu, đã được dùng làm chất kích thích từ rất lâu tại châu Phi và các nước phương Đông. Hạt cau được cắt nhỏ, gói trong lá trầu và được nhai. Có thể dễ dàng nhận ra những người ăn trầu qua các đặc điểm như răng bị nhuộm đen và họ có thói quen nhổ nước bọt với màu đỏ sẫm đặc trưng. Ephedrine, từ cây Ephedra sinica hay còn gọi là cây ma hoàng, được dùng trong các phương thuốc của người Trung Quốc từ hàng ngàn năm trước, và hiện tại được sử dụng tại các nước phương Tây như một loại thuốc thông mũi và giãn phế quản. Một vài loại trong nhóm vitamin B như thiamine (B1), riboflavin (B2), và niacin (B4) cũng đều nằm trong nhóm hợp chất alkaloid. Reserpine, dùng để điều trị cao huyết áp và cũng là một loại thuốc an thần, đã được phân lập từ cây ba gạc Ấn Độ, Rauwolfia serpentina.
Chỉ riêng độc tính cũng đã đủ để tạo nên tên tuổi cho một số hợp chất alkaloid. Thành phần chất độc của cây độc cần, Conium maculatum, chịu trách nhiệm cho cái chết của triết gia Socrates vào năm 399 TCN, chính là một alkaloid có tên gọi coniine. Bị kết tội vô thần và làm hư hỏng những thanh niên thành Athens, Socrates đã bị xử chết bằng cách uống một dung dịch làm từ quả và hạt cây độc cần. Coniine có cấu trúc đơn giản nhất trong các alkaloid, nhưng nó cũng là một chất độc chết người tương tự những alkaloid khác có cấu trúc vô cùng phức tạp, như strychnine, một alkaloid có trong hạt cây mã tiền Strychnos nux-vomica ở châu Á.
Cấu trúc hóa học của coniine (trái) và strychnine (phải)
Trong “thuốc bay’’ - một loại thuốc mỡ bôi được cho là giúp người dùng có thể bay - các phù thủy thường cho vào dịch chiết từ cây nhân sâm, cà dược và kỳ nham. Những cây này thuộc họ Cà (Solanaceae). Cây nhân sâm, Mandragora officinarum, với các nhánh rễ tạo thành hình người, có nguồn gốc tại vùng Địa Trung Hải. Nó đã được dùng từ thời cổ đại như một phương thuốc duy trì khả năng tình dục, và cũng được dùng làm chất gây ngủ. Có khá nhiều truyền thuyết kỳ lạ về cây nhân sâm. Người ta nói rằng khi nhổ cây nhân sâm ra khỏi đất, nó sẽ phát ra những tiếng hét xé tai, và bất cứ ai ở gần đó sẽ gặp nguy hiểm bởi cả tiếng hét kinh hoàng đó lẫn mùi đi kèm. Truyền thuyết phố biến này đã được đại văn hào người Anh Shakespeare đưa vào tác phẩm Romeo và Juliet, khi Juliet nói: “… với mùi khủng khiếp và tiếng rít như cây nhân sâm bị nhổ khỏi mặt đất, những sinh linh, nghe thấy chúng, đã trở nên điên dại.” Cây nhân sâm còn được đồn đại rằng thường sống dưới những giá treo cổ, đâm chồi từ tinh dịch của những người đàn ông bị xử tội ở đó.
Loài cây thứ hai được dùng trong phương thuốc bay là cây belladonna hay còn gọi là cây cà dược (Atropa belladonna). Tên của cây được đặt từ thực tế cách làm đẹp phổ biến của phụ nữ ở Italy, nhỏ vài giọt nước từ quả màu đen của loại cây này vào mắt. Điều này làm đồng tử giãn ra gia tăng vẻ đẹp của họ, vì vậy nó có tên gọi belladonna, có nghĩa là “người phụ nữ đẹp” trong tiếng Italy. Một lượng lớn chất từ cây cà dược khi đưa vào cơ thể có thể gây ra giấc ngủ sâu như chết. Dường như điều này là một kiến thức rất phổ biến vào thời đó, và có thể đây chính là liều thuốc mà Juliet đã uống. Shakespeare đã viết (trong tác phẩm Romeo và Juliet) “thông qua tất cả các tĩnh mạch, khí lạnh mê hồn sẽ lan tỏa và giấc ngủ sẽ đến, vì mạch sẽ ngừng đập”, nhưng cuối cùng “chìm trong sự tĩnh lặng như chết suốt bốn mươi hai tiếng đồng hồ, rồi sẽ tỉnh dậy như sau một giấc ngủ ngon.”
Thành phần thứ ba là cây kỳ nham, có lẽ là loài Hyoscyamus niger, dù một số loài khác cũng có thể được sử dụng trong loại thuốc phù thủy kỳ lạ này. Kỳ nham đã được sử dụng từ lâu làm thuốc gây ngủ, giảm đau (đặc biệt là đau răng), thuốc gây mê, và có lẽ là cả thuốc độc nữa. Tính chất của kỳ nham dường như cũng đã được biết rõ: Shakespeare một lần nữa chỉ mô tả lại một kiến thức phổ thông thời đó khi tả cảnh Hamlet được bóng ma của cha mình cho biết: “chú con lén đến, với một lọ nhựa độc cây kỳ nham và đổ chất độc ghê gớm ấy vào tai ta”. Từ hebona trong đoạn văn trên trong tiếng Anh dùng để chỉ cây thủy tùng, cây mun lẫn cây kỳ nham, nhưng nhìn từ góc nhìn hóa học, trường hợp này có lẽ nói đến cây kỳ nham.
Nhân sâm, cà dược và kỳ nham đều chứa những hợp chất alkaloid rất giống nhau. Hai hợp chất chính, hyoscyamine và hyoscine, được tìm thấy trong cả ba loại cây với hàm lượng khác nhau. Một dạng của hyoscyamine được biết đến là atropine và đến nay vẫn là một hợp chất có giá trị, khi được pha rất loãng, nó làm giãn đồng tử phục vụ cho việc kiểm nghiệm nhãn khoa. Với nồng độ lớn hơn, chất này có thể gây hoa mắt, choáng váng, thậm chí mê sảng. Một trong những triệu chứng đầu tiên của việc nhiễm độc atropine là khô dịch cơ thể. Tính chất này được tận dụng trong những cuộc phẫu thuật, khi mà lượng dư nước bọt hoặc dịch đờm tiết ra có thể cản trở quá trình phẫu thuật. Hyoscine, còn có tên gọi khác là scopolamine, được mang danh (mặc dù hơi quá) là thuốc nói thật.
Phối hợp cùng morphine, scopolamine được dùng làm thuốc gây mê gọi là “giấc ngủ tê mê”, thế nhưng thật khó để biết được những lời người dùng thuốc thốt ra là sự thật do tác dụng của thuốc, hay chỉ là lời nói mê sảng. Tuy vậy, những nhà văn viết truyện trinh thám luôn thích ý tưởng về thuốc nói thật, và scopolamine vẫn sẽ có được danh tiếng trên. Cũng như atropine, scopolamine có tính chất ngăn tiết dịch và tạo cảm giác sảng khoái. Với một liều lượng nhỏ, chất này giúp chống say xe. Những phi hành gia của Mỹ hay dùng scopolamine để điều trị chứng say trong không gian.
Nhưng cũng thật kỳ lạ, chất độc atropine lại là thuốc giải độc cho những chất độc mạnh hơn. Những khí độc thần kinh, ví dụ như sarin - hơi độc do những kẻ khủng bố xả ra tại một ga tàu điện ngầm ở Tokyo vào tháng 4 năm 1995 - và những loại thuốc trừ sâu gốc phosphate hữu cơ, ví dụ như parathion, tác động đến cơ thể người bằng cách ngăn cản sự loại bỏ phù hợp các chất dẫn truyền thần kinh, là những phân tử dẫn truyền tín hiệu qua những mối nối thần kinh (nerve junction). Khi những chất dẫn truyền thần kinh không được loại bỏ, các đầu dây thần kinh bị kích thích liên tục, gây ra những cơn co giật, và nếu như tim hoặc phổi bị ảnh hưởng, thì sẽ gây tử vong. Atropine ngăn cản sự tạo thành các chất dẫn truyền thần kinh, do vậy với liều lượng hợp lý, nó là một chất giải độc hiệu quả đối với sarin hoặc parathion.
Có một tính chất ngày nay chúng ta đã biết về hai alkaloid atropine và scopolamine, và chắc chắn những phù thủy châu Âu cũng biết rõ, là chúng không tan nhiều trong nước. Đồng thời, có lẽ họ cũng đã nhận ra rằng uống những hợp chất này thường dẫn đến cái chết hơn là mang lại những cảm giác hưng phấn, thăng hoa mà họ mong muốn. Do vậy, dịch chiết của các loại cây nhân sâm, cà dược và kỳ nham thường được hòa tan trong dầu hoặc mỡ, và sau đó chất cao tạo thành được bôi lên da. Hấp thụ qua da - thẩm thấu qua lớp biểu bì - ngày nay đã trở thành một phương pháp tiêu chuẩn của ngành dược. Miếng dán nicotine cho những người muốn bỏ thuốc lá, miếng dán chống say xe, và một số liệu pháp hormone thay thế sử dụng cách thức dẫn truyền này.
Như các ghi chép về thuốc mỡ bay của phù thủy cho thấy, kỹ thuật này đã được biết đến hàng trăm năm trước. Ngày nay chúng ta biết rằng thuốc thẩm thấu hiệu quả nhất tại vị trí da mỏng nhất và với nhiều mạch máu nằm ngay bên dưới lớp da; do vậy cách đặt thuốc vào âm đạo hay hậu môn thường được dùng để đảm bảo thuốc được hấp thụ nhanh chóng. Những phù thủy chắc chắn cũng biết về đặc điểm giải phẫu học này, vì thuốc mỡ bay được mô tả là phải được bôi lên toàn cơ thể hoặc chà xát vào phần dưới hai cánh tay và, một cách tế nhị, “vào những nơi có lông khác”. Một vài ghi chép cho biết các phù thủy bôi thuốc lên cán chổi và ngồi dạng chân lên, chà xát hỗn hợp atropine và scopolamine vào bộ phận sinh dục. Những câu chuyện này mang màu sắc tính dục khá rõ ràng, cũng như những hình chạm khắc đầu tiên mô tả những phù thủy, lõa thể hoặc chỉ che một phần thân thể, ngồi dạng chân trên những chiếc cán chổi, bôi những loại thuốc cao và nhảy múa xung quanh những chiếc vạc.
Lời giải thích về mặt hóa học tất nhiên là những người bị coi là phù thủy không thực sự bay trên cán chổi đến những buổi sabbat. Những chuyến bay chỉ là ảo giác do các phân tử alkaloid mang lại. Những mô tả hiện nay về trạng thái ảo giác do scopolamine và atropine gây ra rất giống với những chuyến phiêu lưu lúc nửa đêm của các phù thủy: cảm giác bay bổng hoặc hẫng người khi rơi xuống, hình ảnh biến dạng, hưng phấn, kích động, cảm giác thăng hoa, cảnh vật xung quanh quay cuồng, và những cuộc gặp tưởng tượng với quái thú. Trạng thái cuối cùng của quá trình này là một giấc ngủ sâu gần như hôn mê.
Không khó để tưởng tượng rằng trong thời kỳ đỉnh cao của ma thuật và sự mê tín dị đoan, những người dùng thuốc bay đã thực sự tin rằng họ bay trên bầu trời đêm để đến tham gia những cuộc nhảy múa hoang dã và những buổi ăn chơi thác loạn. Ảo giác atropine và scopolamine mang lại vô cùng sống động. Một phù thủy không có lý do gì để tin rằng ảnh hưởng của thuốc cao chỉ tác dụng lên trí não của riêng mình. Những ảo giác đã được xem là những bí mật tuyệt vời - và cũng không khó để hình dung cách mà những bí mật tuyệt vời này đã được truyền tải. Cuộc sống của hầu hết phụ nữ trong thời kỳ này rất khó khăn. Công việc không bao giờ kết thúc, nghèo đói và bệnh tật luôn hiện diện, và một người phụ nữ không thể làm chủ số phận của mình. Một vài giờ tự do, bay qua bầu trời đến những buổi tụ họp để thỏa mãn dục vọng, và thức dậy một cách an toàn trên chiếc giường của chính mình, đây quả là sự cám dỗ rất lớn. Nhưng thật không may, sự giải thoát tạm thời khỏi thực tế phũ phàng được các phân tử atropine và scopolamine tạo ra thường trở thành án tử, bởi những phụ nữ bị quy là phù thủy, và thú nhận về những ảo giác lúc nửa đêm này sẽ bị thiêu sống.
Cùng với nhân sâm, cà dược và kỳ nham, những loài cây khác được dùng trong hỗn hợp thuốc cao bay mà những ghi chép lịch sử lưu lại là: mao địa hoàng, mùi tây, phụ tử, độc cần và mạn đà la. Các hợp chất alkaloid có độc hiện diện trong loài phụ tử và độc cần, chất độc glycoside trong mao địa hoàng, myristicin gây ảo giác trong mùi tây, và atropine và scopolamine trong mạn đà la. Mạn đà la thuộc chi Datura; cà dược, cây loa kèn thiên thần, và loài stinkweed là những cây khác trong chi này. Phân bố rộng rãi tại các vùng ấm áp trên toàn thế giới, Datura đã cung cấp hợp chất alkaloid cho những phù thủy trên toàn châu Âu cũng như cho những nghi thức và những dịp lễ hội khác tại châu Á và châu Mỹ. Những câu chuyện dân gian liên quan đến việc sử dụng Datura tại những quốc gia này đều mô tả những ảo giác có mặt động vật, đây là một chi tiết rất thường thấy trong những chuyến bay đêm của phù thủy. Tại một vài vùng ở châu Á và châu Phi, hạt Datura được đưa vào thành phần của thuốc hút. Hấp thu vào máu thông qua phổi là một phương pháp rất nhanh để có được phản ứng tức thời của alkaloid, những người dùng thuốc lá ở châu Âu đã phát hiện ra điều này vào thế kỷ 16. Cho đến tận ngày nay, những trường hợp ngộ độc atropine vẫn được ghi nhận ở những người dùng hoa, lá hoặc hạt Datura để tìm kiếm ảo giác.
Nhiều loại cây trong họ cà dược đã du nhập vào châu Âu từ Tân Thế Giới ngay sau cuộc thám hiểm của Columbus. Những loại chứa alkaloid - cây thuốc lá (Nicotiana) và cây ớt cay (Capsicum) - đã ngay lập tức được đón nhận, nhưng thật đáng ngạc nhiên, những loài khác trong họ này - cà chua và khoai tây - lại được tiếp nhận một cách dè dặt.
Những hợp chất alkaloid khác có cấu trúc hóa học tương tự atropine được tìm thấy trong lá của một vài loài Erythroxylon, cây coca, sinh trưởng tại một số vùng Nam Mỹ. Cây coca không thuộc họ cà dược - một trường hợp không bình thường, bởi lẽ các hợp chất giống nhau thường được tìm thấy trong những loại cây có liên quan đến nhau. Thế nhưng về mặt lịch sử, các loài thực vật luôn được xếp loại theo phương diện hình thái học. Ngày nay, người ta bắt đầu chú ý đến cách phân loại thực vật theo thành phần hóa học và những bằng chứng từ DNA.
Hợp chất alkaloid chính trong cây coca là cocaine. Lá coca đã được dùng làm chất kích thích từ hàng trăm năm trước tại các vùng cao nguyên Peru, Ecuador và Bolivia. Lá cây được trộn với bột vôi nhão và đặt vào giữa nướu răng và má, các hợp chất alkaloid sẽ tiết ra từ từ giúp chống mệt mỏi và đói khát. Ước tính lượng cocaine trung bình đưa vào cơ thể mỗi ngày theo cách thức này là khoảng 0,5 gram, và lượng nhỏ như vậy không gây nghiện. Phương pháp dân gian sử dụng alkaloid coca tương tự như chúng ta vẫn dùng hợp chất alkaloid caffeine khi uống cà phê hoặc trà hằng ngày. Thế nhưng cocaine, khi đã được tách chiết và tinh chế, lại là một vấn đề hoàn toàn khác.
Được phân lập vào những năm 1880, cocaine đã được xem là một loại thuốc kỳ diệu. Nó có tính năng gây tê cục bộ vô cùng hiệu quả. Bác sĩ tâm thần Sigmund Freud đã xem cocaine là loại thuốc chữa bách bệnh, và thường kê đơn loại thuốc này vì những hiệu năng kích thích của nó. Ông cũng đã dùng nó để điều trị chứng nghiện morphine. Nhưng sự việc nhanh chóng trở nên rõ ràng rằng chính cocaine cũng là một chất gây nghiện vô cùng mạnh, như bất kỳ chất gây nghiện nào đã được biết đến. Cocaine nhanh chóng tạo ra cảm giác hứng khởi cực độ, và tiếp sau đó là một sự trầm cảm cũng mạnh mẽ không kém, khiến người dùng khao khát có được cảm giác hứng khởi tiếp theo. Những hậu quả khủng khiếp từ việc nghiện cocaine đối với sức khỏe con người và đối với xã hội đã được thấy rõ. Tuy vậy, cấu trúc của cocaine lại là cơ sở để phát triển nhiều phân tử vô cùng hữu ích như những chất gây tê cục bộ. Benzocaine, novocaine, và lidocaine là những hợp chất có được hoạt tính làm mất cảm giác đau của cocaine bằng cách ngăn cản được sự lan truyền của các xung thần kinh, nhưng khác với cocaine, những hợp chất này không có khả năng kích thích hệ thống thần kinh hoặc phá vỡ xung nhịp của tim. Chắc hẳn nhiều người trong chúng ta đã trải nghiệm với sự biết ơn tác dụng gây tê của những hợp chất này tại các phòng nha hoặc phòng cấp cứu.
Những hợp chất alkaloid nấm cựa gà
Một nhóm hợp chất alkaloid khác với cấu trúc hoàn toàn khác biệt có thể đã là nguyên nhân gián tiếp khiến hàng ngàn phù thủy ở châu Âu phải lên giàn thiêu. Những hợp chất này không được sử dụng trong thuốc gây ảo giác. Ảnh hưởng của một số phân tử alkaloid trong nhóm này có thể gây ra sự tàn phá đến mức toàn bộ cộng đồng, do phải chịu đựng những nỗi đau đớn cùng cực, cho rằng thảm họa đó chỉ có thể là kết quả của một pháp thuật ma quỷ gây ra bởi những phù thủy trong vùng. Nhóm các hợp chất alkaloid này được tìm thấy trong nấm cựa gà, Claviceps purpurea, loài nấm gây bệnh cho nhiều loại ngũ cốc, đặc biệt là lúa mạch. Nhiễm độc nấm cựa gà cho đến tận gần đây vẫn là sát thủ vi sinh khủng khiếp nhất sau vi khuẩn và virus. Một trong những alkaloid trong nhóm này, ergotamine, gây hiện tượng co mạch máu; một hợp chất khác, ergonovine, gây ra sự sẩy thai tự phát cho con người và động vật; và những hợp chất khác là nguyên nhân của chứng loạn thần kinh. Triệu chứng ngộ độc nấm cựa gà thay đổi theo hàm lượng của các hợp chất alkaloid khác nhau nhưng có thể bao gồm co giật, tai biến ngập máu, tiêu chảy, hôn mê, hành vi thất thường, ảo giác, biến dạng các chi, nôn mửa, co cơ, cảm giác bị lõm trên da, chân tay tê dại, và cảm giác nóng rát dần trở thành cơn đau kinh khủng vì phần cơ thể bị hoại tử do giảm lưu thông máu. Trong thời kỳ Trung cổ, căn bệnh này được gọi theo nhiều tên: ngọn lửa thần thánh, ngọn lửa của Thánh Anthony, ngọn lửa huyền bí và vũ điệu của Thần Vitus. Sự ám chỉ đến ngọn lửa trong tên gọi của bệnh là do những cơn đau khủng khiếp như bị đốt cháy và tứ chi dần chuyển thành màu đen do quá trình hoại tử. Bệnh nhân thường sẽ mất tay, chân và bộ phận sinh dục. Thánh Anthony được xem là có những quyền năng đặc biệt chống lại lửa, sự nhiễm trùng và chứng động kinh, khiến ông trở thành vị thánh mà những bệnh nhân tìm đến cầu khẩn khi bị nhiễm độc nấm cựa gà. “Vũ điệu” của Thần Vitus ám chỉ những động tác uốn éo và co giật của bệnh nhân dưới tác động của một số alkaloid trong nấm cựa gà lên hệ thần kinh.
Không khó để hình dung ra tình cảnh khi một số lượng lớn dân cư ở các ngôi làng hoặc thị trấn bị ngộ độc nấm cựa gà. Những trận mưa liên tục ngay trước đợt gặt sẽ hỗ trợ nấm cựa gà phát triển trên lúa mạch, bảo quản ngũ cốc không đúng cách trong điều kiện ẩm thấp cũng thúc đẩy sự sinh trưởng của chúng. Chỉ cần một phần rất nhỏ nấm cựa gà trong bột mì đã có thể gây ra ngộ độc. Khi ngày càng nhiều dân làng có những triệu chứng khủng khiếp trên, mọi người bắt đầu tự hỏi tại sao chỉ có cộng đồng của họ phải chịu tai ương, đặc biệt là nếu như những thị trấn lân cận không có dấu hiệu bệnh. Một trong những lý do có vẻ như hợp lý nhất là làng của họ đã bị nguyền rủa. Và cũng như trong những thảm họa thiên nhiên khác, tội lỗi thường đổ lên đầu một phụ nữ lớn tuổi, người không còn khả năng sinh con hoặc không có sự hỗ trợ của gia đình. Những phụ nữ này thường sống ở rìa làng, có lẽ sinh tồn dựa vào những kiến thức về thảo dược của mình và họ cũng không thể kiếm được một khoản tiền tối thiểu để mua bột mì từ những lò xay xát trong làng. Chính sự nghèo khổ đã giúp họ tránh được ngộ độc nấm cựa gà, nhưng thật mỉa mai, như những người duy nhất không bị ngộ độc nấm cựa gà, họ càng dễ dàng trở thành nạn nhân của những lời buộc tội là phù thủy.
Chứng nhiễm nấm cựa gà đã được biết đến từ lâu. Trong nhiều ghi chép từ tận những năm 600 TCN, người Assyria đã mô tả về “những nốt mụn nhỏ độc hại trên chuỗi hạt”. Những alkaloid nấm cựa gà từ “những loài cỏ độc” có thể gây sẩy thai cho gia súc đã được ghi chép lại ở vùng Ba Tư vào khoảng năm 400 TCN. Tại châu Âu suốt thời Trung cổ, những kiến thức về việc nấm hoặc mốc trên chuỗi hạt ngũ cốc chính là nguyên nhân gây ra căn bệnh dường như đã bị quên lãng - nếu nó đã từng được biết đến. Với mùa đông ẩm ướt và điều kiện bảo quản không phù hợp, nấm và mốc sinh sôi nảy nở mạnh mẽ. Thế nhưng khi đối mặt với nạn đói, người dân vẫn phải dùng những hạt ngũ cốc chứa nấm độc hơn là đổ bỏ chúng.
Nhiễm độc nấm cựa gà tại châu Âu lần đầu được ghi chép lại, vào năm 857 SCN, tại thung lũng sông Rhine, nước Đức. Những tài liệu này cũng lưu lại con số bốn mươi ngàn trường hợp tử vong tại Pháp vào năm 994 mà hiện nay được biết do nhiễm độc nấm cựa gà, và mười hai ngàn người nữa thiệt mạng vào năm 1129. Những đợt nhiễm độc xảy ra theo chu kỳ trong suốt nhiều thế kỷ cho đến tận thế kỷ 20. Trong hai năm 1926-1927, hơn mười một ngàn người dân Nga tại vùng núi Ural đã bị nhiễm độc nấm cựa gà. Khoảng hai trăm trường hợp nhiễm độc đã được báo cáo tại Anh. Vào năm 1951, tại thị trấn Provence, nước Pháp, bốn trường hợp tử vong và hàng trăm ca nhiễm độc nấm đã xảy ra khi lúa mạch nhiễm nấm được xay thành bột và bán cho một cửa hàng làm bánh, mặc dù người nông dân, chủ cối xay và chủ tiệm bánh đều có vẻ như đã biết rằng lúa mạch bị nhiễm nấm.
Ít nhất đã có bốn sự kiện mà trong đó các hợp chất alkaloid nấm cựa gà được cho là đóng vai trò quan trọng trong tiến trình lịch sử. Trong chiến dịch tại vùng Gaul vào thế kỷ 1 TCN, một đợt nhiễm độc nấm cựa gà trong quân đoàn của Julius Caesar đã gây ra tình cảnh thảm khốc, làm giảm hiệu quả của đoàn quân, đồng thời cũng có thể đã làm giảm tham vọng của Caesar trong việc mở rộng đế quốc La Mã. Vào mùa hè năm 1722, đội quân Cossack của Pie Đại đế đóng quân tại Astrakhan, gần cửa sông Volga nối vào biển Caspian. Cả binh lính lẫn ngựa của họ đều ăn phải lúa mạch nhiễm nấm. Kết quả là khoảng hai mươi ngàn binh lính đã thiệt mạng, khiến đội quân của Sa hoàng bị tàn phá nghiêm trọng đến mức ông đã phải hủy bỏ chiến dịch tiến đánh Thổ Nhĩ Kỳ. Do đó, mục tiêu chiếm đóng vùng cảng biển phía nam biển Đen của người Nga đã bị những hợp chất alkaloid nấm cựa gà ngăn chặn.
Vào tháng 7 năm 1789, tại Pháp, hàng ngàn tá điền đã nổi dậy chống lại những địa chủ giàu có. Có những bằng chứng cho thấy sự kiện lịch sử này, vẫn được gọi là La Grande Peur (Nỗi sợ hãi lớn), không chỉ đơn giản là sự bất ổn trong dân chúng gắn liền với cuộc Cách mạng Pháp. Các tài liệu ghi chép rằng cuộc nổi dậy này xuất phát từ cơn giận điên cuồng của nông dân bắt nguồn từ nguyên nhân “bột mì hỏng”. Mùa xuân và mùa hè năm 1789, miền bắc nước Pháp đặc biệt ẩm ướt và ấm áp - điều kiện lý tưởng cho sự phát triển của nấm cựa gà. Phải chăng chính sự nhiễm độc nấm cựa gà, chắc chắn rất phổ biến trong tầng lớp dân nghèo do họ phải ăn bánh mì nhiễm nấm để có thể sống sót, chính là yếu tố then chốt trong cuộc Cách mạng Pháp? Đội quân của hoàng đế Napoleon cũng đã liên tục bị nhiễm độc nấm cựa gà trong chuyến hành quân băng qua vùng đồng bằng nước Nga vào mùa thu năm 1812. Như vậy dường như các hợp chất alkaloid nấm cựa gà, cùng với những chiếc nút áo bằng thiếc, đã cùng nhau gây ra sự sụp đổ của Grande Armée - Đội quân Vĩ đại trong cuộc rút lui của họ từ Moscow.
Một số chuyên gia đã kết luận rằng chính chất độc nấm cựa gà chịu trách nhiệm cho lời buộc tội phù thủy chống lại khoảng 250 người (phần lớn là phụ nữ) vào năm 1692 tại Salem, Massachusetts. Bằng chứng cho thấy có sự liên quan của các hợp chất alkaloid. Lúa mạch được trồng tại vùng này vào những năm cuối thế kỷ 17; các hồ sơ ghi chép cho thấy có mưa nhiều và thời tiết ấm áp trong suốt mùa xuân và mùa hè năm 1691; và làng Salem nằm gần một vùng đồng cỏ lầy lội. Tất cả những chi tiết này đều dẫn đến khả năng các hạt lúa mạch dùng để xay làm bột có thể đã bị nhiễm nấm. Những triệu chứng các nạn nhân thể hiện cũng rất giống với những triệu chứng của nhiễm độc nấm cựa gà, đặc biệt là những biểu hiện co giật, nôn mửa, tiêu chảy, ảo giác, nói lảm nhảm, tứ chi biến dạng một cách kỳ quái, cảm giác ngứa ngáy và rối loạn giác quan cấp tính.
Có vẻ như vào lúc ban đầu, nhiễm độc nấm cựa gà là nguyên nhân cho những cuộc săn lùng phù thủy tại Salem; khoảng ba mươi nạn nhân, đa số là những cô gái hoặc phụ nữ trẻ tuổi, đã tuyên bố mình bị nguyền rủa, và những người trẻ thường nhạy cảm hơn với ảnh hưởng của các hợp chất alkaloid nấm cựa gà. Tuy nhiên các sự kiện sau đó, bao gồm những buổi phán xét những người bị cho là phù thủy, và số lượng ngày càng tăng những vụ cáo buộc khác, thường nhắm vào những người ngoài cộng đồng của họ, dường như là kết quả của những cơn kích động hoặc những mưu đồ xấu xa.
Những triệu chứng nhiễm độc nấm cựa gà không thể tự nhiên xuất hiện hoặc mất đi. Những cảnh tượng thường thấy trong một buổi xét xử - các nạn nhân ngụy tạo những cơn co giật khi đối chất với người bị quy tội phù thủy - không hề liên quan gì đến nhiễm độc. Nhận biết quyền uy họ đang có và hưởng thụ cảm giác là trung tâm của sự chú ý, những nạn nhân tự xưng này có thể dễ dàng tố cáo những người hàng xóm của mình hoặc những người dân vùng khác mà thỉnh thoảng họ mới nghe đến. Sự đau khổ mà những nạn nhân thật sự của cuộc săn lùng phù thủy ở Salem - mười chín người bị treo cổ (và một người bị đè chết bằng một cột đá), những cuộc tra tấn và giam giữ, những gia đình tan vỡ - có thể bắt nguồn từ những phân tử nấm cựa gà, nhưng nguyên nhân sâu xa chính là sự tàn bạo của loài người.
Tương tự như cocaine, mặc dù rất độc và nguy hiểm, các alkaloid nấm cựa gà từ lâu đã được sử dụng làm thuốc, và cho đến ngày nay, các dẫn xuất từ nấm cựa gà vẫn đóng một vai trò nhất định trong y học. Suốt nhiều thế kỷ, các nhà thảo dược học, các bà đỡ và các bác sĩ đã sử dụng chiết xuất từ nấm cựa gà để đẩy nhanh quá trình sinh đẻ hoặc để làm sẩy thai. Ngày nay các alkaloid nấm cựa gà hoặc những hợp chất thu được từ việc biến tính hóa học các hợp chất này đang được sử dụng như thuốc gây co mạch điều trị chứng đau nửa đầu, điều trị băng huyết hậu sản, và làm chất kích thích co bóp dạ con khi sinh.
Các hợp chất alkaloid từ nấm cựa gà đều có chung một đặc điểm hóa học, chúng là dẫn xuất của một phân tử có tên là lysergic acid. Nhóm chức OH (đánh dấu bằng mũi tên trong hình dưới) của lysergic acid được thay thế bởi một nhóm chức có kích thước lớn hơn, thể hiện trong cấu trúc của phân tử ergotamine (được dùng làm thuốc trị những cơn đau nửa đầu nặng) và trong phân tử ergovine (dùng trị chứng băng huyết hậu sản). Trong hai loại phân tử này, phần cấu trúc của lysergic acid được khoanh tròn.
Vào năm 1938, sau khi điều chế được một vài dẫn xuất tổng hợp hữu ích của lysergic acid, Albert Hofmann, một nhà hóa học làm việc tại phòng thí nghiệm của Sandoz, một công ty dược phẩm Thụy Sĩ tại thành phố Basel, tiếp tục điều chế một dẫn xuất mới. Đó là dẫn xuất thứ hai mươi lăm ông tổng hợp được, vì vậy ông đặt tên cho dẫn xuất này là lysergic acid diethylamide LSD-25, ngày nay được biết đến với tên gọi LSD. Không có gì đặc biệt đã được ghi nhận về tính chất của LSD.
Lysergic acid diethylamide (LSD-25), hay vẫn được gọi đơn giản là LSD. Phần khoanh tròn thể hiện cấu trúc của lysergic acid.
Phải đến năm 1943, khi Hofmann tạo nên dẫn xuất này một lần nữa, ông tình cờ trải nghiệm được lần đầu tiên “chuyến du hành acid”, điều đã trở nên phổ biến trong những năm 1960. LSD không hấp thụ qua da, do vậy Hofmann có lẽ đã nếm thử một ít LSD từ đầu ngón tay. Chỉ cần một lượng rất nhỏ LSD đã tạo nên điều mà ông mô tả lại là sự trải nghiệm “một dòng chảy bất tận của những bức tranh tuyệt vời, những khối hình kỳ lạ với nhiều màu sắc biến ảo mạnh mẽ”.
Một cách có chủ ý, Hofmann quyết định dùng LSD để kiểm tra giả thuyết của ông rằng đây là một chất gây ảo giác. Liều dùng thông thường cho những dẫn xuất của lysergic acid, như ergotamine, tối thiểu vào khoảng vài milligram. Chắc chắn Hofmann là một người rất thận trọng, ông chỉ uống một phần tư milligram LSD, một lượng ít nhất là gấp năm lần liều lượng cần thiết để tạo ra các hiệu ứng ảo giác mà hiện nay chúng ta đã biết. LSD mạnh gấp mười ngàn lần hợp chất gây ảo giác sẵn có trong thiên nhiên là mescaline, được tìm thấy trong cây xương rồng Mexico sinh trưởng ở bang Texas và vùng phía bắc Mexico, và đã được những thổ dân châu Mỹ sử dụng suốt nhiều thế kỷ trong những nghi lễ tôn giáo của họ.
Đột ngột bị choáng váng, Hofmann nhờ người trợ lý đi cùng khi ông đạp xe về nhà qua những con đường của Basel. Trong vài tiếng đồng hồ sau đó, ông đã trải qua những trải nghiệm vô cùng đa dạng mà những người dùng LSD sau này gọi là chuyến du hành tồi tệ. Ngoài việc có những ảo giác hình ảnh, Hofmann trở nên hoang tưởng, cảm giác vô cùng bồn chồn hoặc tê liệt thay đổi liên tục, lảm nhảm những câu chữ rời rạc, sợ hãi đến nghẹt thở, cảm giác như ông đã rời khỏi thể xác, và như nhìn thấy được âm thanh. Tại một vài thời điểm nào đó, ông thậm chí đã cân nhắc khả năng mình sẽ phải chịu những tổn thương não vĩnh viễn. Triệu chứng của ông dần giảm đi, dù cho sự rối loạn thị giác vẫn kéo dài thêm một khoảng thời gian nữa. Hofmann tỉnh dậy vào sáng hôm sau trong trạng thái hoàn toàn bình thường, với ký ức nguyên vẹn về những chuyện đã xảy ra hôm trước, và dường như không chịu một tác dụng phụ nào.
Vào năm 1947, công ty Sandoz bắt đầu đưa LSD vào thị trường như một phương thuốc điều trị tâm lý, đặc biệt là để điều trị chứng tâm thần phân liệt do rượu. Vào những năm 1960, LSD trở thành một loại thuốc phổ biến cho giới trẻ trên khắp thế giới. Phong trào này được thúc đẩy bởi Timothy Leary, một nhà tâm lý học đã từng là thành viên của Trung tâm Nghiên cứu Con người tại Đại học Havard. Ông mong muốn biến việc sử dụng LSD trở thành một loại tôn giáo của thế kỷ 20 và như một cách thức để đạt được sự viên mãn về tinh thần cũng như sáng tạo. Hàng ngàn người đã làm theo lời khuyên “Hứng khởi, hòa nhập, rời bỏ”* của Timothy. Có phải sự giải thoát khỏi cuộc sống thường nhật trong thế kỷ 20 nhờ hợp chất alkaloid này khác biệt với trải nghiệm của những phụ nữ bị kết tội phù thủy hàng trăm năm trước? Dù có cách nhau vài thế kỷ, nhưng những ảo giác lâng lâng không phải luôn là những trải nghiệm tích cực. Đối với những thanh niên đầy nhiệt huyết của những năm 1960, việc sử dụng LSD có thể dẫn đến chứng ký ức hồi quy, chứng rối loạn tâm thần vĩnh viễn, và trong những trường hợp nặng, có thể dẫn đến những vụ tự tử; đối với những phù thủy ở châu Âu, sử dụng các hợp chất alkaloid atropine và scopolamine trong thuốc cao bay có thể dẫn họ đến giàn thiêu.
* Turn on, turn in, drop out
Các hợp chất alkaloid atropine và alkaloid nấm cựa gà không tạo ra thuật phù thủy. Tuy nhiên, những tác động của chúng đã được dùng làm bằng chứng chống lại rất nhiều những phụ nữ vô tội, thường là những người nghèo khổ nhất và mong manh nhất trong cộng đồng. Những kẻ buộc tội dùng một tình huống hóa học chống lại phù thủy: “Mụ này chắc chắn là phù thủy, mụ nói mụ biết bay”, hay “mụ già này chắc chắn có tội, cả làng đã bị nguyền rủa.” Những thái độ đó đã cho phép sự bức hại phụ nữ như những phù thủy trong suốt bốn thế kỷ ròng rã không biến mất một cách dễ dàng sau khi những cuộc hỏa thiêu chấm dứt. Phải chăng những phân tử alkaloid đã góp phần vào việc tạo ra những định kiến đối với phụ nữ - một quan điểm vẫn còn tồn tại trong xã hội của chúng ta ngày nay?
Tại châu Âu thời Trung cổ, chính những phụ nữ bị kết tội lại là người duy trì những kiến thức quan trọng về những cây thuốc chữa bệnh, giống như những người dân bản địa tại các vùng đất khác. Thiếu những kiến thức thảo dược học cổ truyền này, có thể chúng ta đã không bao giờ tạo ra được những dược phẩm quan trọng hiện nay. Thế nhưng ngày nay, mặc dù chúng ta không còn buộc tội những người coi trọng khả năng chữa bệnh bằng cây cỏ nữa, nhưng chúng ta lại đang tiêu diệt các loại cây cỏ. Việc những khu rừng rậm nhiệt đới liên tục bị phá hủy, khoảng hai triệu hecta mỗi năm, có thể sẽ tước đi của chúng ta những hợp chất alkaloid khác, những chất thậm chí còn có hiệu quả cao hơn trong việc điều trị những chứng bệnh khác nhau.
Chúng ta có thể sẽ không bao giờ biết rằng trong những cây cỏ nhiệt đới đang từng ngày tiến dần đến bờ tuyệt chủng đó có hay không những phân tử có tính chất kháng ung thư, có hiệu quả chữa trị HIV, hoặc có thể là những vị thuốc tuyệt diệu cho bệnh tâm thần phân liệt, bệnh Alzheimer hoặc Parkinson. Trên quan điểm của những phân tử hóa học, y học dân gian trong quá khứ có thể là cứu cánh cho loài người trong tương lai.