← Quay lại trang sách

LỜI KẾT

CÁC SỰ KIỆN LỊCH SỬ luôn có nhiều hơn một nguyên nhân, vì vậy, sẽ là quá đơn giản khi cho rằng các sự kiện được đề cập đến trong cuốn sách này đã xảy ra chỉ do những cấu trúc hóa học của các hợp chất. Thế nhưng cùng lúc đó, không có gì là quá đáng khi nói rằng các cấu trúc hóa học đã đóng những vai trò then chốt và thường không được ghi nhận trong sự phát triển của văn minh nhân loại. Khi một nhà hóa học xác định cấu trúc của một sản phẩm thiên nhiên đặc biệt hoặc tổng hợp một hợp chất mới, ảnh hưởng của sự thay đổi hóa học rất nhỏ - tạo một nối đôi ở chỗ này, thay thế một nguyên tử oxy ở chỗ kia, biến đổi cấu trúc nhóm biên - dường như không có gì quan trọng. Chỉ khá lâu sau chúng ta mới nhận ra được sự thay đổi nhỏ bé đó đã mang lại những ảnh hưởng to lớn như thế nào.

Ban đầu, các cấu trúc hóa học chúng tôi trình bày có thể khá lạ lẫm, khó hiểu và khiến bạn cảm thấy bối rối. Hy vọng rằng đến lúc này chúng tôi đã xóa bỏ được phần nào những bí ẩn từ các hình vẽ đó, và bạn có thể thấy được các nguyên tử tạo thành các phân tử hóa học luôn tuân theo những quy tắc được xác định rõ ràng. Thế nhưng, trong khuôn khổ của các quy tắc này, dường như vẫn có vô hạn các khả năng để tạo thành các cấu trúc hóa học hoàn toàn khác biệt.

Các hợp chất chúng tôi đã chọn lựa, bởi chúng kể lại những câu chuyện thú vị và quan trọng, được chia thành hai nhóm chính. Nhóm đầu bao gồm các phân tử từ thiên nhiên - các phân tử được con người kiếm tìm. Mong muốn có được những phân tử này đã chi phối nhiều phương diện của lịch sử. Trong vòng một thế kỷ rưỡi vừa qua, nhóm hợp chất thứ hai dần trở nên quan trọng hơn. Những hợp chất này được tạo thành trong phòng thí nghiệm hoặc nhà máy - một vài phân tử, như thuốc nhuộm màu chàm, hoàn toàn tương đồng với những phân tử từ sản phẩm thiên nhiên, và một số hợp chất khác, như aspirin, có cấu trúc thay đổi so với sản phẩm thiên nhiên. Thỉnh thoảng cũng có những phân tử, ví dụ như các CFC, là những phân tử hoàn toàn mới và không có sản phẩm tương tự trong thiên nhiên.

Cùng với hai nhóm này, giờ đây chúng ta có thể thêm một nhóm phân loại thứ ba: các phân tử có thể có ảnh hưởng rất lớn nhưng không dự đoán được lên nền văn minh nhân loại trong tương lai. Đó là những phân tử do thiên nhiên sản sinh ra nhưng dưới sự định hướng và can thiệp của con người. Kỹ thuật gene (hay công nghệ sinh học, hay bất cứ thuật ngữ nào dùng để mô tả quá trình nhân tạo trong đó vật liệu di truyền mới được cấy vào một sinh vật) đã tạo thành những phân tử chưa từng tồn tại. Một ví dụ là “lúa vàng”, giống lúa được biến đổi gene để tạo ra β-carotene, chất liệu màu vàng cam có nhiều trong củ cà rốt và các cây trái có màu vàng, và cũng hiện diện trong các loại rau màu xanh đậm.

Cơ thể con người cần β-carotene để tạo ra vitamin A, một thành phần dinh dưỡng thiết yếu. Hàng triệu người trên thế giới, đặc biệt là ở châu Á, nơi mà gạo là cây trồng chính, có chế độ dinh dưỡng thiếu β-carotene. Sự thiếu hụt vitamin A dẫn đến những bệnh có thể gây mù lòa và cả tử vong. Các hạt gạo hầu như không chứa β-carotene, tại những nơi gạo là thực phẩm chính và β-carotene không được bổ sung từ những nguồn khác, loại lúa vàng chứa β-carotene có thể mang lại sức khỏe tốt hơn.

Thế nhưng kỹ thuật gene cũng có nhược điểm của nó. Thậm chí dù bản thân phân tử β-carotene hiện diện trong nhiều loại cây, những lời chỉ trích nhằm vào kỹ thuật sinh học đặt ra câu hỏi liệu có an toàn không khi cấy phân tử này vào những nơi nó vốn không hiện diện. Liệu các phân tử được cấy vào có phản ứng với các hợp chất khác sẵn có? Liệu có khả năng chúng sẽ trở thành các chất gây kích ứng cho một số người? Sẽ có những ảnh hưởng dài hạn nào khi con người can thiệp quá mức vào tự nhiên? Ngoài những câu hỏi về hóa học và sinh học, còn những vấn đề khác được đặt ra liên quan đến kỹ thuật gene, ví dụ như động cơ lợi nhuận đằng sau những nghiên cứu, khả năng đánh mất sự đa dạng sinh học của các loại ngũ cốc, vấn đề toàn cầu hóa trong nông nghiệp. Với tất cả những lý do nêu trên và những bất trắc, chúng ta cần hành động hết sức cẩn thận, cho dù việc buộc thiên nhiên sản xuất ra những phân tử tại một nơi nhất định và theo cách chúng ta mong muốn dường như là một việc rất hữu dụng. Chỉ là, với những phân tử như PCB hay DDT, các hợp chất hóa học có thể đồng thời là một sự ban phước và một lời nguyền, và không phải lúc nào chúng ta cũng biết rõ điều đó tại thời điểm phát minh ra một hóa chất mới. Rất có thể những biến đổi do con người tạo ra trên những hợp chất phức tạp kiểm soát sự sống cuối cùng sẽ là những đóng góp quan trọng trong việc phát triển các giống cây trồng tốt hơn, giảm việc sử dụng các loại thuốc trừ sâu, và xóa bỏ các bệnh tật. Hoặc có thể sự can thiệp của con người sẽ dẫn đến những vấn đề không thể ngờ tới, và trong kịch bản tồi tệ nhất, có thể đe dọa chính cuộc sống của con người.

Trong tương lai, nếu con người nhìn lại nền văn minh nhân loại, phân tử nào sẽ được xem là có ảnh hưởng lớn nhất trong thế kỷ 21? Liệu đó có phải là những phân tử diệt cỏ tự nhiên được đưa vào các loại cây trồng biến đổi gene, và vô tình diệt luôn hàng trăm loài thực vật khác? Hay sẽ là các phân tử dược phẩm có thể tăng cường tình trạng sức khỏe cơ thể và tinh thần của con người? Hoặc giả chúng là những biến thể mới của các loại ma túy liên quan đến khủng bố và tội phạm có tổ chức? Liệu có phải chúng là những hóa chất độc hại làm ô nhiễm môi trường? Hay các phân tử mở ra một con đường dẫn đến một nguồn năng lượng mới và hiệu quả hơn? Liệu đó có phải là các loại thuốc kháng sinh được sử dụng quá liều, kết quả là những loài “siêu vi khuẩn” có sức đề kháng cao được sinh ra?

Columbus đã không thể tiên đoán được những kết quả mà cuộc tìm kiếm piperine của ông mang lại, Magellan cũng không ngờ đến những hậu quả lâu dài từ nhiệm vụ tìm kiếm isoeugenol của ông, và Schönbein chắc hẳn sẽ vô cùng ngạc nhiên khi biết rằng phân tử nitrocellulose ông tạo ra từ chiếc tạp dề của vợ lại là khởi đầu cho những ngành công nghiệp khổng lồ từ thuốc nổ cho đến dệt may. Perkin đã không thể tưởng tượng được rằng thí nghiệm nhỏ bé của mình đã mở đường không những cho ngành kinh doanh thuốc nhuộm tổng hợp, mà còn cho sự phát triển của các loại thuốc kháng sinh và dược phẩm khác. Marker, Nobel, Chardonnet, Carothers, Lister, Baekeland, Goodyear, Hofmann, Leblanc, anh em nhà Solvay, Harrison, Midgley, và tất cả những nhà khoa học khác, với những câu chuyện của họ mà chúng tôi vừa kể, chắc chắn đã không tưởng tượng đến tầm quan trọng mang tính lịch sử của những phát minh họ đã tạo ra. Vì vậy, có lẽ chúng ta đang lặp lại sơ sót của tiền nhân, nếu chúng ta ngần ngại trong việc thử phán đoán có chăng một phân tử không đáng nghi ngờ nhưng có thể cuối cùng sẽ có những ảnh hưởng sâu rộng và bất ngờ đến cuộc sống nhân loại, và chúng ta biết rằng khi đó con cháu của chúng ta sẽ nói, “Phân tử này đã thay đổi thế giới của chúng ta.”