- 3 -
14
Vốn sinh ra yếu ớt và thiếu tập luyện nên tôi mắc chứng khó tiêu và thường xuyên quên bữa cho đến khi, giống như ong chúa, thức ăn được bón tận miệng - chuyện này đã mang lại rất nhiều phiền toái cho bác tôi. Thi thoảng bác đặt các nắm cơm vào trong một chiếc hộp trước đây đựng bột đậu rồi giả vờ rằng chúng tôi đang trên đường hành hương tới Thần cung Ise[1]; và cứ thế bác dẫn tôi đi vòng xung quanh mô đất có hình giống ngọn núi ở trong vườn, cuối cùng vỗ hai tay và cầu nguyện trước một ngọn đèn đá, sau đó đặt tôi ngồi xuống một tảng đá dưới cây thông để ăn cơm từ chiếc hộp mang theo. Một lần bác dẫn tôi, em gái tôi và vú em của em gái tới một cánh đồng có hoa dạ anh thảo nở rộ, và chúng tôi cùng nhau ăn những cuộn cơm được bọc trong lớp tảo biển mà chúng tôi mang theo. Từ mỏm đá nơi mọc lên những cây tuyết tùng lớn, cây sếu Trung Quốc, và cây zelkova, chúng tôi có được tầm nhìn bao quát về ngọn núi Fuji rực rỡ, núi Hakone, Ashigara, và những ngọn núi khác. Tôi đang ăn trong tâm trạng vui vẻ hiếm thấy thì thật không may, có người tiến về phía chúng tôi. Tôi lập tức vứt đũa đi và đòi về nhà. Trong số tất cả các sinh vật, con người là loài mà tôi ghét nhất.
Tôi không cảm thấy ngon miệng đối với bất kỳ món ăn nào, nhưng với năng lực thuyết phục độc nhất vô nhị, bác tôi có thể đưa vị ngon vào bất kỳ thứ gì. Tôi thích món trai ướp, bởi vì những con trai đáng yêu đó sẽ bò bằng lưỡi tới trước Công chúa Oto ở tòa Lâu đài Rồng[2]. Và tôi thích măng bởi vì câu chuyện về lòng hiếu thảo của Mösö[3] rất thú vị. Nếu đem rửa phần búp măng bụ bẩm, bạn sẽ thấy ở đoạn gần gốc có những hàng rễ ngắn và những cục gồ lên màu tím. Nếu giơ vỏ măng hướng về phía mặt trời, bạn có thể trông thấy những sọc màu vàng và trắng ngà đan xen nhau. Nếu vỏ măng to, tôi sẽ đặt nó lên đầu làm mũ; nếu nhỏ, tôi sẽ cạo phần lông măng đi rồi dùng vỏ để bọc mơ muối. Khi tôi ngậm mơ muối được một lúc, vỏ mơ sẽ biến thành màu đỏ như nhuộm và vị chua chua tản ra. Tôi còn thích cả trúc đen. Nhìn những mầm trúc được luộc sôi lên đến quay mòng mòng trong nồi đất thật ngon miệng, và khi nhìn thấy bác ăn thử, ngay cả con ong chúa là tôi cũng cảm thấy nước bọt đang tứa ra từ chân răng. Nếu thi thoảng tôi hư, cố tình không cầm đũa, bác sẽ đưa chiếc bát sơn màu bé tí lại gần miệng tôi để bón và nói, “Cháu là con chim sẻ nhỏ, con chim sẻ nhỏ.”
Con cá tráp đỏ rất đẹp, và đứa trẻ nào cũng vui vẻ khi nghe kể rằng trên đầu nó mang theo bảy công cụ[4] và rằng Thần Ebisu ôm nó trên tay[5]. Cặp mắt của nó rất ngon miệng. Lớp bên ngoài giòn xốp, nhưng phần nhân tuy mềm lại vô cùng khó nhai, dù có mất bao lâu cũng không nhai được nó. Khi nhổ nó ra khỏi miệng, viên bi tròn nửa trong suốt rơi đánh cạch xuống đĩa ăn. Việc loài cá này có hàm răng trắng cũng rất hay.
[1]Đền thờ quan trọng nhất trong Thần đạo.
[2]Một tòa lâu đài tưởng tượng nằm dưới đáy biển do nữ thần này cai quản. Theo truyền thuyết này, người thợ đánh cá Urashima Taro đã lặn xuống tòa lâu đài dưới biển và cưới công chúa.
[3]Một trong 24 tấm gương hiếu thảo trong sách Nhị Thập Tứ Hiếu của Trung Quốc. Mösö (tiếng Trung Quốc là Mạnh Tông) vì mẹ già thềm ăn canh măng mà giữa trời đông tuyết cũng vào rừng tìm măng cho mẹ, dù lúc này không phải là mùa măng.
[4] Bởi vì cá tráp biển có xương lớn, nên người xưa có câu nói rằng: “Cá tráp biển được trang bị tất cả các dụng cụ làm nông trong xương của nó”. Con số bảy ở đây cũng có nghĩa là “tất cả những gì cần thiết”.
[5] Một trong bảy Phúc Thần, cai quản giao thông đường thủy, ngư nghiệp, và thương mại. Hình ảnh mô tả phổ biến là người ngồi trên một tảng đá, tay trái cầm một con cá tráp biển lớn, còn tay phải cầm chiếc cần câu.
15Hồi ấy có một người điên gọi là Kẻ Ngớ Ngẩn. Những người già kể lại rằng ngày còn trẻ, ông ấy rất say mê học hành và lúc nào cũng vùi đầu vào sách vở. Thế rồi ông ấy khoe khoang về kiến thức của mình và bị mất trí. Ông ấy để tóc mọc um tùm và khoác trên người những bộ quần áo rách rưới, tầng tầng lớp lớp bụi bẩn và bồ hóng. Ông ấy thường chống cây gậy tre dày, gương mặt lúc nào cũng như đang đăm chiêu suy nghĩ, và lặng lẽ đi loanh quanh bằng chân trần cả mùa hè lẫn mùa đông. Khi có người nhớ đến quá khứ của ông ấy và rủ lòng thương mà cho ông ấy mấy nắm cơm hoặc món đồ ăn nào đó, ông ấy sẽ ngửa cả hai lòng bàn tay để mang nó về nhà, cẩn thận như một vị sư ôm bát khất thực vậy. Nhưng nếu có người đưa đồ cho mặc, ông ấy sẽ miễn cưỡng khoác nó lên người được một hoặc hai ngày, rồi sau đó vứt nó đi và quay trở về với những bộ quần áo rách rưới quen thuộc.
Ông sống trong một cái hang tự đào ở gần một nông trại cách chỗ chúng tôi khoảng 200 mét, và bên trong hang ông đốt lửa quanh năm. Khi nào cảm thấy thích, ông sẽ ra ngoài và đi theo bất kỳ hướng nào tới khi chán thì thôi, đến lúc ấy, ông chỉ việc quay gót trở về. Dù ngày mưa hay gió, người ta vẫn thường xuyên trông thấy ông đi lang thang quanh vùng. Vì thế, khi không có ai trông thấy ông ấy suốt cả một ngày, họ sẽ kháo nhau rằng chắc là ông đang cáu kỉnh, và khi ông không ra ngoài trong ba hoặc bốn ngày, họ lại bắt đầu băn khoăn liệu ông có bị ốm không. Điều kỳ lạ là, nếu gặp một người phụ nữ trên đường, ông sẽ lùi lại mấy bước rồi nhổ nước miếng như thể vừa trông thấy một thứ gì đó ghê tởm. Bác tôi, một người khó tính, rất lo ngại về người đàn ông bẩn thỉu, bốc mùi nồng nặc này ngay từ lần đầu tiên trông thấy ông ấy, nên mỗi lần chạm trán bác đều vội vã lánh đi chỗ khác trước khi ông ấy kịp bước lùi về sau mấy bước. Một ngày nọ, trên đường tới cửa hàng bán kẹo giá rẻ chúng tôi gặp ông ấy, và bác tôi không thể chịu đựng nổi nữa.
“Ông làm ơn đi rửa mặt giúp tôi được không? Tôi sẽ cho ông năm xu.” Nói rồi, bác rút ví ra khỏi đai lưng. Người đàn ông trông có vẻ sửng sốt và dừng lại. Sau đó, ông lắc đầu với vẻ ghê tởm rõ rệt rồi bước đi, quên cả động tác nhổ nước miếng.
Kẻ Ngớ Ngẩn sống cho tới khi tôi lớn lên thành một đứa trẻ bình thường. Thế rồi một hôm, người ta đồn đại với nhau rằng ông ấy đã bị thiêu đến chết vào giữa đêm. Mặc dù có hơi sợ, nhưng tôi vẫn đến chỗ hang nơi ông ở, nhưng tất cả những gì tôi nhìn thấy chỉ là cây gậy tre quen thuộc và những thanh củi nhóm lửa chưa bị cháy.
16Bởi vì đã hứa rằng sẽ để tôi chơi trò Quả Nào, nên bác tôi lấy gậy đập rụng quả của cây hoa trà trắng, dù rằng bởi vì mắt kém và sức lực không có bao nhiêu, bác chỉ đập xuống được nhánh cây và lá cây là nhiều. Quả Nào là trò chơi ở tỉnh quê nhà bác; người chơi chọn hạt trà có hình dáng nào đó, rồi tất cả số người chơi bỏ ra một số lượng hạt giống nhau và lần lượt lắc hạt trong tay sau đó đổ xuống chiếu tatami. Người có nhiều hạt có chồi trắng mọc ra nhất sẽ giành chiến thắng trong vòng đó và được lấy toàn bộ số hạt của các người chơi. Mỗi hạt lại có độ mạnh yếu khác nhau tùy thuộc vào hình dáng và trọng lực của chúng. Tôi nghe kể rằng có người sơn hạt này để trang trí hoặc xảo quyệt đổ chì vào để chúng cứng hơn. Họ thu thập các quả đã bị đập từ trên cây xuống, và đập vỡ vỏ bên ngoài ra để tìm những hạt có hình giống con thuyền hoặc củ cải, đôi khi chúng còn có bề mặt sáng bóng, nằm gọn gàng trong khoang chứa hạt. Tùy theo hình dạng mà chúng được gọi là mö, jä, toko, kai, và những tên gọi tương tự. Tôi nhớ mình đã từng dành cả một ngày mưa yên tĩnh để chơi trò Quả Nào với vài chục hạt.
Vào mùa hè, bác tôi thường chỉ lên những đám mây với nhiều hình thù khác nhau đang trôi trên bầu trời tràn ngập ánh nắng mà bảo với tôi, như thể tất cả lời bác nói đều đúng, rằng đám mây này là ngài Văn Thù Bồ Tát, hay đám mây kia là ngài Phổ Hiền Bồ Tát. Một hôm, sau khi đã chơi thấm mệt, tôi nằm một mình chờ một đám mây có hình dáng giống một vị Phật có thể che chở cho tôi đi ngang qua. Tuy nhiên, đám mây trông giống Phật đi ngang qua lại nằm ngửa, rồi đột nhiên vỡ thành một hình thù đáng sợ khiến tôi liên tưởng đến một con quỷ giả dạng Phật tìm đến để bắt cóc tôi, và thế là tôi chạy một mạch đi tìm bác. Từ đó trở đi, tôi đặt tên cho đám mây có hình dáng như vậy là Phật của Người chết và mỗi khi nhìn thấy nó, tôi lại nhanh chóng chạy đi trốn.
Ngoài những món vũ khí để tham gia vào Trận chiến Yamazaki, chiếc giỏ da cũng đựng cả đồ chơi, trong đó tôi thích nhất là chiếc trống và bộ shö[1]. Những ống tre dài ngắn khác nhau được đặt trong một vòng tròn mềm, chúng phát ra những âm thanh cao vút, mang lại cho thần kinh mong manh của tôi một cảm giác dễ chịu. Chiếc trống thì nhỏ vừa với vai tôi, và tôi thích mọi đặc điểm của nó, kể cả chiếc dây điều chỉnh màu đỏ tươi và hình dáng thú vị của nó. Người bác tuyệt vời của tôi, vốn hầu như việc gì cũng từng làm qua, sẽ rủ tôi gõ trống, còn chính bác cũng đặt một chiếc trống to hơn trên đùi để đệm theo tôi.
Những vật tí hon, chẳng hạn một cái móng chân thỏ vướng vào một cây chổi đánh phấn má, chiếc “mỏ sếu” dùng để cào cổ họng khi bị hóc xương, và cái búa nhỏ bằng đồng dùng để treo ở chuôi kiếm làm đồ trang trí, đều được bỏ vào trong một ngăn kéo gọi là ngăn kéo của Kanpon trong chiếc tủ có nhiều ngăn kéo nhỏ. Tôi không bao giờ chủ động nói món đồ mà tôi muốn là gì. Bác tôi sẽ lấy ra từng món trong lúc tôi sụt sùi và lắc đầu quầy quậy, cho đến khi bác tìm được đúng món. Tuy nhiên, trong hầu hết mọi trường hợp, hễ bác lấy ra Chó Thần và Bò Đỏ, thì tâm trạng tôi sẽ lập tức trở nên tốt hơn. Đôi khi tôi cảm thấy không thích thứ gì đó và vứt nó lung tung. Ngay cả những lúc tôi hư như vậy, bác cũng không hề nổi giận mà chỉ lo lắng xem tôi có chuyện gì và đặt tay lên trán tôi. Nếu thấy tôi bị sốt, bác sẽ đưa tôi đến gặp bác sĩ ngay lập tức. Mà tôi thì không thích chuyện này chút nào, nên nếu bác đặt tay lên trán tôi, tôi sẽ ỉu xìu thấy rõ và bớt quấy hơn.
Vào mùa cúc, bác thường hái hoa cúc ở sân sau nhà để làm “thảm hoa cúc” giúp tôi nền tính hơn. Bác rải những cánh hoa cúc lên một tờ giấy theo họa tiết giống như họa tiết của Ả-rập và ấn xuống. Sau một lúc, bác nhấc vật ấn lên, và thế là tấm thảm ngát hương đã hoàn thành. Tôi rất thích những tấm thảm hoa cúc này.
Cũng có khi tôi lấy hết truyện tranh trên tủ sách xuống rồi đòi người bác kiên nhẫn vô hạn của mình đọc cho nghe hết truyện này đến truyện khác. Nếu tôi bị mắng vì chuyện gì đó, thì sau một hồi khóc lóc thỏa thuê, tôi sẽ lên cơn dỗi. Tôi giận dữ với cả những người tìm cớ này hay cớ khác hòng lại gần dỗ dành mình và chui vào một góc phòng, giở những cuốn truyện tranh ra xung quanh hay ngồi chơi đồ chơi để tự an ủi bản thân. Vào những lúc như vậy, Chó Thần, Bò Đỏ, cái búa thần kỳ, và nàng công chúa trong cuốn truyện tranh, tuy rằng không nói lời nào, nhưng chúng lại vỗ về tôi bằng sự tử tế của mình. Sau đó, tôi sẽ cảm thấy tự thương hại bản thân vì đã ngừng khóc, thế là nước mắt lại tuôn ra lần nữa. Tôi vừa sụt sùi vừa tự bảo, “Mình không quan tâm, mình có tất cả những người bạn này rồi,” trong khi vẫn giữ thái độ bất mãn với tất cả mọi người.
[1]Một loại nhạc cụ được sử dụng trong những màn ca vũ của thời kỳ Gagaku. Nhạc cụ này bao gồm một ống thổi, bên trong cắm 17 ống tre. Đây là một loại nhạc cụ có lưỡi gà tự do.
17Vào buổi tối, tôi chơi với đống đồ chơi bị dồn vào phòng ăn nơi gia đình tôi tụ tập. Khi buồn ngủ, bạn sẽ trở nên cáu bẳn với tất cả mọi thứ. Vì thế, nếu thấy tôi bắt đầu dụi dụi mắt và mất kiên nhẫn, bác tôi sẽ biết đã đến giờ cho tôi đi ngủ.
“Chao ôi, cháu tôi buồn ngủ rồi này,” bác nói rồi thu dọn đám đồ chơi đang nằm ngổn ngang khắp nơi và ấn cổ tôi xuống để tôi gập người trên sàn nhà và chào mọi người.
Tôi hay phản kháng, một mực nói rằng mình không muốn đi ngủ, nhưng kiểu gì thì rốt cuộc tôi cũng bị kéo vào phòng ngủ nơi bác vẫn ngủ với tôi và vú em ngủ với em gái tôi. Ngay từ khi mặt trời lặn, chiếc đèn lồng andon[1] trong phòng được châm lên và giường chiếu cũng được chuẩn bị sẵn sàng[2] để tôi có thể đi ngủ ngay khi tâm trạng xấu nổi lên. Vào mùa đông, bác tôi thường lấy bộ đồ ngủ đem đặt trên cái ủ chân, chờ cho tới khi nó ấm lên và thoát hơi nước ra, sau đó thổi phù phù vào nó rồi mới nhẹ nhàng bọc nó quanh cơ thể gầy gò của tôi. Một chiếc ga trải giường có họa tiết hoa cúc, còn một chiếc nữa, có lẽ được nhập khẩu từ phương Tây về, có hình những chú chim hồng tước với đỉnh đầu màu vàng và những cành cây trên nền vải trúc bầu màu nâu hạt dẻ. Những tấm ga này mang theo mùi thơm của nắng, và tôi thích vùi mặt xuống nền vải mềm mịn ấy mà hít hà.
Bởi vì tôi sợ thứ ánh sáng mờ mờ, nên sau khi cho tôi đi nằm, bác tôi thường mở chiếc ngăn kéo nhỏ gắn trên thân đèn và lấy ra một sợi bấc mới để phòng hờ. Khi bác nhúng đầu sợi bấc mới xuống đĩa dầu và đặt nó bên cạnh sợi bấc mới đã được tẩm ướt dầu, nó liền xèo xèo bắt lửa. Tay bác run run vì phải cố gắng kéo lại đầu kia của sợi bấc đang thò ra mép bên kia của đĩa dầu. Sau đó, bác lấy lọ dầu rót thứ dầu thực vật màu vàng hổ phách vào đĩa. Sợi bấc mềm mại, cách nó thấm dầu, hình dáng của cái giữ sợi bấc, mùi dầu cháy, tất cả mọi thứ. Tôi ghét nhất là cảnh xác những con côn trùng nằm đen thui ở đáy đèn và đầu đã cháy hết của sợi bấc bám vào mép đĩa. Vì thế, hằng ngày, sau khi đổ phần dầu đã sử dụng đi, bác tôi lại dùng con dao lưỡi rộng để gạt phần đầu bấc đen đi.
Đối với đứa trẻ nhát gan là tôi đây, chiếc đèn này có phần kỳ dị. Từ chỗ nằm của mình, tôi vẫn cố mở to đôi mắt đã buồn ngủ và cảm thấy ngọn lửa hình con suốt với đầu bấc đèn ở giữa trông giống như một con yêu tinh có một mắt dài và hẹp. Khi bác tôi thò đầu vào trong đèn để khơi bấc lên, gần tới nỗi mũi bác suýt bị cháy, cái bóng khổng lồ của bác phản chiếu trên cái chụp đèn bằng giấy khiến tôi không khỏi băn khoăn liệu có phải chính bác cũng là một loài yêu tinh nào đó hay không.
Xong việc, bác vừa đút diêm trở về ngăn kéo vừa cầu nguyện cho linh hồn của những con côn trùng đã bị ánh sáng thu hút để rồi bị thiêu cháy. Có lần tôi không ngủ được vì sợ quỷ sứ đang ẩn nấp ở trần nhà chỗ lõm vào, nơi ánh đèn không tới được. Bác tôi cố gắng nhón mũi chân lên rồi giương đèn lên phía đó.
“Thấy chưa? Chẳng có ai trốn ở đó cả.” Ngày ấy, tôi hình dung quỷ sứ là một thứ gớm ghiếc màu đen, toàn thân phủ đầy lông lá.
“Ban đêm mà cháu sợ thì nhớ gọi bác,” bác nói. “Bác tợn thế này. Tất cả bọn chúng đều phải bỏ chạy thôi.”
Rồi bác kể truyện cho tới khi tôi ngủ thiếp đi. Có thể bác không biết đọc “chữ vuông”, nhưng bác đã nghe và nhớ nằm lòng rất nhiều thứ, và số lượng những câu chuyện mà bác biết thì nhiều tới không đếm xuể. Không những thế, bác còn có biệt tài bổ sung vào những phần đã quên bằng chính trí tưởng tượng tuyệt vời của mình. Bác dùng những biểu cảm và giọng nói khác nhau cho các nhân vật khác nhau, từ samurai cho tới các nàng công chúa, thậm chí còn làm mặt quái vật cho tôi xem, và trong ánh sáng mờ tỏ của ngọn đèn, biểu cảm ấy trông rất thật.
[1] Andon: Loại đèn có khung gỗ còn chụp đèn làm bằng giấy, sử dụng dầu của hạt cải dầu hoặc các loại dầu thực vật khác. Nhờ tính kinh tế, ổn định, và an toàn, loại đèn này vẫn tiếp tục được sử dụng ở Nhật kể cả sau khi các loại đèn phương Tây được nhập về và trở nên phổ biến. Ở một số nơi, đèn andon vẫn được sử dụng tới những năm 1920, dù rằng khi đó đã có điện.
[2] Vào buổi sáng, bộ đồ giường sẽ được cất vào trong tủ để căn phòng có thể được sử dụng cho các mục đích khác trong ngày.
18Trong số những câu chuyện đáng thương nhất phải kể đến câu chuyện về đứa trẻ xếp đá bên bờ sông Tam Đồ[1] và chiếc trống Hatsune trong Nghìn cây đào. Bác tôi thường hát một đoạn trong bài hát hành hương đó bằng giọng buồn bã sau đó mới giải thích cho tôi. Tôi không hiểu được nguyên nhân một cách đầy đủ, tôi chỉ nhớ được chi tiết một đứa trẻ đã gây đủ phiền toái cho mẹ của nó bằng cách nằm trong bụng bà suốt chín tháng rồi qua đời trước khi kịp làm điều gì để báo ân đang xây một tòa tháp nhỏ để chuộc tội; một mình nó đang lầm lũi xếp đá bên bờ sông Tam Đồ thì một con quỷ xuất hiện và quấy nhiễu nó bằng cách dùng cây gậy sắt phá hủy tòa tháp mà nó đang xây. Nhưng sau đó vị Bồ tát Địa Tạng[2] từ bi đã bảo vệ đứa trẻ bằng cách giấu nó trong ống tay áo của mình. Mỗi lần nghe kể câu chuyện này, tôi lại cảm thấy buồn rầu đến nghẹt thở, ý nghĩ về số phận của đứa trẻ tội nghiệp khiến tôi nức nở sụt sùi không thôi. Những lúc ấy, bác sẽ vỗ vỗ vào lưng tôi an ủi và nói, “Đừng lo lắng, đừng lo lắng. Cháu thấy không, chúng ta còn có Đức Địa Tạng cơ mà.”
Tôi luôn nghĩ rằng Bồ tát Địa Tạng là vị Phật trông giống hệt vị Phật bằng đá đứng ở ven đường với thị giả đi cùng.
Tôi vốn được bác tôi một tay nuôi dạy, mà bác tôi là một Phật tử thuần thành, nên tôi cũng không phân biệt giữa con người với động vật, và tôi nghe kể câu chuyện về con cáo con đáng thương mà bố mẹ nó bị lột da sống như thể chuyện đó đang diễn ra với chính tôi vậy. Tôi nghe kể rằng ngay trong lúc đang bị người ta lột da, cặp cáo bố mẹ lông trắng như tuyết vẫn không ngừng khóc thương cho đứa con bị bỏ lại, “Đứa con tội nghiệp của chúng ta! Đứa con tội nghiệp của chúng ta!” Đây là chi tiết đáng thương nhất trong số ba dị bản về câu chuyện chiếc trống này mà tôi biết. Đó không phải là chiếc trống từ trên trời rơi xuống và được bọc trong một đám mây bí ẩn[3], cũng không phải là chiếc trống câm mà người ta cho rằng một kẻ tàn ác đã làm ra nó từ vải thêu kim tuyến[4], mà chỉ là một chiếc trống bình thường được làm từ da của hai con cáo nặng lòng yêu con sống trên một cánh đồng nào đó ở tỉnh Yamato. Thậm chí đến bây giờ, mỗi khi nghĩ đến câu chuyện này, những cảm xúc mà tôi có ngày ấy vẫn khuấy động lòng tôi.
Bác tôi cũng học thuộc lòng toàn bộ các bài thơ trong cuốn Một trăm bài thơ của một trăm tác giả, và khi hai bác cháu đã nằm trên đệm, bác lại đọc chúng cho tôi nghe bằng giọng buồn rầu rất đặc biệt của mình, và kiên nhẫn ép tôi nhớ một hoặc hai bài mỗi tối.
“Hôm nay dù chia tay,” bác nói.
“Hôm nay dù chia tay,” tôi nói theo.
“Đến chốn xa tùng dày.”
“Đến chốn xa tùng dày.”
“Nhưng nếu người mãi đợi.”
“Nhưng nếu người mãi đợi.”[5]
Chốc lát sau, tôi đã ngủ thiếp đi. Nếu tôi nhớ được một bài thơ, bác sẽ nhẹ nhàng vỗ giấc cho tôi ngủ và nói, “Bác sẽ thưởng cho cháu một món quà. Giờ thì hãy ngủ đi.”
Bởi vì tôi học thuộc các bài thơ khá nhanh, nên bác nghĩ rằng tôi là một kỳ tài.
“Tối hôm qua thằng bé nhoáng cái đã thuộc được những hai bài thơ,” sáng hôm sau bác sẽ tự hào kể với mẹ tôi như vậy.
Tôi không hiểu nhiều, mà chỉ gom lại những từ mà tôi biết trong từng bài thơ rồi hình dung đại để về ý nghĩa của nó. Ngoài cảm giác do cách đọc của bác gợi lên, tôi cũng có ấn tượng sâu sắc với tổng thể cả bài. Ngày đó, tôi có một tập thẻ thơ cũ, mỗi thẻ in một bài thơ kèm với hình vẽ minh họa. Mặc dù những tấm thẻ đã rách tả tơi và những hình vẽ cũng đã mờ, nhưng tôi vẫn mơ hồ đoán ra được hình tuyết đọng trên một cây thông hay hình một chú nai đang đứng dưới tán cây thích. Ngoài ra tôi cũng có cả cuốn sách Bách nhân nhất thủ.
Việc tôi thích hay ghét các bài thơ cũng bị tác động bởi hình vẽ trên tấm thẻ, hình dáng và khuôn mặt của nhà thơ. Những bài thơ mà tôi thích là Sue no Matsuyama[6], Awaji-shima[7], và Öe-yama[8]. Bài thơ Sue no Matsuyama mang đến bên tai tôi một âm thanh dịu dàng cô độc khôn tả, với những con sóng xinh đẹp vỗ lên bờ có hàng thông đứng như trong bức vẽ minh họa trên tấm thẻ. Bài Awaji-shima lại khiến tôi nức nở. Một chiếc thuyền lênh đênh trên biển, bên trên là những chú chim choi choi đang chao qua liệng lại. Mỗi lần nghe bài thơ này, tôi lại không khỏi nhớ đến một câu chuyện trong một cuốn truyện tranh, trong đó một nàng công chúa bị quỷ bắt đưa vào sâu trong núi ấy[9]. Tôi cực kỳ ghét những nhà sư già cả nhăn nheo như Abbot Henjö và Gyöson, nhưng tôi nghĩ Semimaru đáng yêu một phần vì tên của ông ấy[10].
[1] Con sông ở địa ngục, nơi linh hồn người chết phải đi qua để đến thế giới bên kia.
[2] Tên tiếng Phạn là Ksitigarbha. Theo tín ngưỡng Nhật Bản, đây là vị Bồ tát thường cứu rỗi các linh hồn ở địa ngục, đặc biệt là những đứa trẻ mất sớm.
[3] Ban đầu đây là một vở kịch có nhan đề “Chiếc trống thần”. Một phụ nữ nằm mơ thấy một chiếc trống từ trên trời rơi xuống chui vào bụng mình, sau đó bà có thai và sinh ra một đứa trẻ đặt tên là Tenko. Về sau, một chiếc trống thật từ trên trời rơi xuống, và khi Tenko gõ nó, chiếc trống phát ra những âm thanh du dương. Sau khi biết chuyện này, nhà vua ra lệnh cho Tenko phải giao chiếc trống cho triều đình. Tenko đem trống giấu đi nhưng bị bắt lại và bị dìm chết dưới sông. Khi người ta mang trống đến dâng lên nhà vua, dù gõ thế nào chiếc trống cũng không kêu nữa.
[4] Ban đầu đây là một vở kịch nô nhan đề “Chiếc trống thêu kim tuyến”. Một ông lão làm vườn đem lòng yêu đơn phương một quý bà trong triều đình. Sau khi biết chuyện này, người phụ nữ kia gửi cho ông một chiếc trống làm bằng vải thêu kim tuyến kèm lời nhắn rằng nếu ông gõ cái trống này và bà ta nghe được, thì bà ta sẽ xuất hiện trước mặt ông. Ông lão gõ trống cả đêm, nhưng bởi vì nó được làm từ vải nên không phát ra âm thanh nào. Vì tuyệt vọng, ông nhảy xuống sông tự tử.
[5] Bài thơ của Arihara no Yukihira (818-893), dịch nghĩa là: Ta chia tay người để đi về vùng Inaba / Ngọn núi Inaba nơi có nhiều tùng mọc / Tuy đây không có tùng như núi kia / Nhưng khi nghe nói người đang chờ đợi / Ta sẽ trở lại với người ngay.
[6] Sue no Matsuyama, bài thơ của Kiyohara no Motosuke (908-990), dịch nghĩa như sau: Phải chăng đã có lần thề thốt với nhau / Hai đứa cùng vắt nước mắt thấm đầm tay áo / Khác với lời thề, ngọn sóng kia sao lạ thế / Đã tràn lên ngọn núi Sue no Matsuyama rồi sao?
[7] Awaji-shima, bài thơ của Minamoto no Kanemasa (không rõ năm sinh, năm mất), dịch nghĩa như sau: Vì tiếng chim trời kêu nhau / Khi chúng bay ngang qua đảo Awaji / Làm cho ta, người lính thú giữ ải Suma / Bao đêm đang ngủ chợt tỉnh giấc.
[8] Öe-yama, bài thơ của Koshikibu no Naishi (mất năm 1025), dịch nghĩa như sau: Hết vượt núi Öe / Phải băng qua cánh đồng Ikuno / Đường về xứ Tango nơi mẹ ở xa vời vợi / Mình chưa đến (thắng cảnh Ama-no-hashidate) vùng đó / Mà mẹ cũng chẳng có thư về.
[9] Núi Öe chỉ hai địa điểm ở Kyoto, một là vùng ở gần thành phố, và địa điểm thứ hai ở xa hơn về phía tây bắc. Bài thơ của Koshikibu nhắc đến địa điểm thứ nhất, nhưng cậu bé Naka nhầm nó với địa điểm thứ hai.
[10] Semimaru có nghĩa là “Chàng Ve sầu”. Mặc dù Semimaru thường được minh họa là một vị sư, nhưng ông xuất hiện trong một số truyền thuyết, và một số người cho rằng đây là nhân vật không có thật trong lịch sử.
19Vào những đêm trời đổ tuyết, bác tôi vừa khởi những viên than trong cái ủ chân vừa dọa tôi rằng ông Sư Tuyết mặc bộ cà sa màu trắng đang đứng ngay bên ngoài cửa. Khi trời nóng, bác sẽ quạt cho tôi bởi vì khi ấy tôi sẽ rất khó ngủ. Tôi còn thích cả những bức vẽ trên chiếc quạt. Nằm trong chiếc màn tỏa mùi thơm dễ chịu và lắng nghe tiếng muỗi bay vo ve bên ngoài, thi thoảng tôi sẽ vui tay bẻ một nan quạt. Có khi một con cú sừng bay tới đậu trên bụi cây ở ngôi chùa gần đấy và cất tiếng kêu, và bác tôi sẽ bảo, “Bác nghe người ta nói cú là loài chim dữ, nó có thể nhổ ra một nghìn con muỗi trong một tiếng kêu. Ngày mai chúng ta lại có đầy muỗi cho mà xem.”
Khi gió lạnh nổi lên, những con dế sẽ bắt đầu kêu. Một lần tôi định bắt chúng về để chăm sóc nên bỏ vài con vào trong một cái lồng bắt đom đóm, nhưng sau khi kêu vài lần, chúng bỗng dưng im bặt. Tôi nhìn vào thì thấy toàn bộ đã trốn đi từ lúc nào qua một cái lỗ mà chúng tạo ra ở lớp vải lụa quấn quanh lồng. Nghe tiếng dế kêu, ngay cả một đứa trẻ cũng cảm nhận được nỗi tịch mịch của mùa thu vừa đến. Bác tôi bảo, tiếng kêu của chúng có nghĩa là, “Trời lạnh rồi đấy, mau vá quần áo rách đi thôi,” còn vú em thì bảo với em gái tôi rằng chúng đang nói, “Cho tao ti đi, cho tao ti đi, cho tao ti đi, rồi tao sẽ cắn mày.”
Thi thoảng, tôi sẽ dậy thật sớm vào buổi sáng để nghe tiếng kêu của lũ quạ làm tổ trong những cây thông đen ở chùa Thiếu Lâm. Nhưng những hồm ấy, bác tôi nhất định không cho tôi rời giường.
“Đó là những con dậy sớm nhất. Còn cháu phải ngủ thêm nữa.”
Bác chỉ cho tôi rời giường sau khi những con thứ hai hoặc thứ ba lên tiếng. Đó là cách để bác giữ tôi trên giường cho đến lúc thích hợp.
Tới buổi chiều, rất nhiều chim sẻ bay về ngủ ở “cây san hô”[1] trông giống hình mô đất mọc trước cửa phòng ngủ của tôi và làm huyên náo, con thì lắc lắc đầu, con thì mài mỏ, con tì mổ lẫn nhau để giành cành cây tốt hơn. Khi mặt trời lặn và những tia sáng còn dây dưa ở lại cũng phai nhạt dần, thì ngay cả một vài con chim vốn muộn đi ngủ và còn đang kêu chiêm chiếp cũng chìm vào im lặng. Tôi nghĩ chúng là bạn tốt của mình, và khi tôi thấy mình vẫn nằm trên giường sau khi lũ quạ dậy sớm thứ ba kêu, tiếng chiêm chiếp của lũ chim sẻ khi chúng rời tổ nghe như thể chúng đang cười nhạo tôi lười biếng, và thế là tôi vội vàng dậy.
“Cây san hô” quả đúng như tên gọi, nó sinh ra những hạt màu đỏ tươi. Thật thú vị khi nhặt những hạt rơi xuống trên lớp rêu mềm mại.
[1]Sango-ju: cây tú cầu, tên tiếng Latin là Viburnum awabuki. Cây này được gọi là “cây san hô” bởi vì nó ra những cụm hoa và quả mọng trông giống san hô.
20Khoảng đất phía sau nhà chúng tôi, rộng chừng 42 mét vuông, một nửa dùng để trồng hoa, một nửa dùng để trồng rau. Đầu mùa hè, một người bán rong cây giống thường đi qua hàng rào nhà chúng tôi và rao hàng bằng chất giọng thong thả. Thi thoảng bác tôi sẽ gọi ông ta vào nhà và mua vài cây giống rau. Ông ta mang theo những chiếc hộp làm từ rơm, bên trong nhồi thứ đất tơi xốp và ẩm, từ trong đó nhú ra những cặp lá sinh động của nhiều loại cây khác nhau. Người bán hàng rong đội chiếc mũ tết bằng cói thận trọng xúc chúng ra như thể ông đang nâng niu những món trân bảo. Mỗi lần, bác tôi lại mua vài cây giống của các loại cây như cà, dưa hấu, rồi đem trồng ở khoảnh đất trồng rau. Những cây cà giống, bí ngô giống, và mướp hương giống vẫn còn màu đỏ tía khẽ rung rung những chiếc lá hình bầu dục của chúng theo làn nước mà hai bác cháu tôi đều dặn tưới cho chúng vào hai buổi sáng chiều. Mỗi lần nhìn chúng, tôi lại thấy chúng lớn hơn một chút, vươn ra cả lá lẫn dây, cuối cùng mọc lan ra khắp nơi, những chùm quả to lắc lư trong gió. Tôi rất thích ra vườn kiểm tra chúng.
Bác tôi vốn rất thích chăm sóc cho chúng nên vừa càu nhàu vừa dựng những cây gậy tre lên để giúp đỡ đám dây leo. Thế là mỗi ngày chúng leo được một hoặc hai vòng quay gậy, và chẳng bao lâu sau, giữa những chiếc lá sần sùi nhú ra những bông hoa vàng và đỏ tía. Lũ mòng tròn tròn sẽ đến và bay tíu tít xung quanh như thể toàn bộ thế giới này là của chúng rồi chui vào trong hoa.
Trong khi những bông hoa đực rũ cánh xuống, thì đài của những bông hoa cái phình lên, rồi dần dần trở thành hình dẹt, hoặc dài và mỏng, cuối cùng trổ ra hình dáng của cái gọi là “cà Trung Quốc” hay bí ngô. Quả cà lớn lên trông giống những chiếc túi nhỏ, quả mướp hương thì có hình thù như những con rắn mù. Quả dưa chuột có những vết sần sùi rất đáng ghét. Mỗi khi quét đám lá ra và phát hiện được những khoang hạt vẫn còn nguyên hạt trong đó, tôi lại mừng húm. Đậu kiếm, đậu thận, hoa hành lá đều trông giống đầu chiếc bút lông đã bị mòn.
Một lần, cây “cà Trung Quốc” giống mà bác tôi mua về trồng dần dần mọc thành hình dạng khác, và cuối cùng trở thành quả bầu. Tôi hân hoan nhìn vô số những quả bầu treo lủng lắng, nhưng bác tôi rất tức giận bởi vì bị ông bán cây giống rong lừa và bác nhất định không chịu chăm sóc cho chúng đàng hoàng. Vì thế, cuối cùng toàn bộ số quả đều rụng. Từ lần đó về sau, bác quyết định sẽ mua cây giống ở một cửa hàng rau trong thị trấn. Nhưng bất luận mua cây giống gì, bác tôi đều nghi ngờ rằng tất cả rồi sẽ mọc thành cây bầu nên lần nào đi mua bác cũng tuyên bố với người bán hàng là nếu cây mọc thành cây bầu, bác sẽ mang trả lại cả rễ lẫn cây.
Trên mô đất cạnh hàng rào tuyết tùng bao quanh vườn rau, những cây hạt dẻ của bà và những cây óc chó mà tôi nhặt về từ đâu đó rồi ném ra đó cũng đang bắt đầu nhú mầm. Những cây bóng nước mà bà thích và trồng xuống cũng tự rải hạt giống của mình ra và nay thì nở hoa khắp vườn. Mặc dù bóng nước không phải là loài hoa dại đặc biệt hấp dẫn, nhưng tôi rất thích chúng. Tôi còn ngắt vài bông hoa để nhuộm móng tay. Tôi cũng thích nghiền hạt của cây hoa phấn để lấy phần bột trắng. Hoa mai nở rộ. Có một cây hạnh già trổ hoa màu xanh nhạt như một đám mây bềnh bồng. Anh trai tôi và tôi trông ngóng chúng nở nhất và rất hăng hái xua đuổi lũ quạ. Những quả lớn của nó mọc thành chùm, khiến những cành thấp hơn oằn xuống chạm vào mặt đất. Chúng tôi hái những quả mà mình với tay được, còn những quả ở cao hơn thì đập xuống, và thế là hai anh em đã mang về được một giỏ đầy.
Ở khoảnh đất trồng hoa có hoa loa kèn vằn và hoa loa kèn trắng. Những màu sắc rực rỡ hoặc phong phú thường khiến tôi cảm thấy nặng nề. Về hoa, một ví dụ là đám phấn màu nâu sẫm phủ trên đầu của những nhụy hoa loa kèn.
21Cách nhà chúng tôi không xa là ngôi chùa thờ Thần Yama[1]. Vào ngày cổng Địa ngục mở[2] và tiếng chuông buồn thảm bắt đầu vang lên như gọi người, mặc cho sự miễn cưỡng của tôi, bác tôi vẫn mặc cho tôi bộ kimono màu xanh nhạt bằng vải gai dầu, buộc chiếc đai bằng lụa crepe Trung Quốc quanh ngực, và dẫn tôi ra ngoài để cầu nguyện. Bởi vì lễ hội Bon[3] năm nào bác tôi cũng mặc cho tôi bộ kimono ấy, nên cuối cùng màu xanh nhạt của nó khiến tôi mất hết cả tinh thần. Khoảng trống giữa khu vực hẹp xung quanh và cổng chính có những quầy hàng bày bán nước đá sát cạnh nhau với giá một xu mỗi cốc, bánh cá hầm, và sushi. Tiếng nổ của bóng bay và tiếng rao của những người bán hàng tạo nên một mớ âm thanh huyên náo khó chịu xen lẫn với bụi đường. Những thằng nhóc đeo tạp dề phụ việc trong các quầy hàng la hét the thé như thể Thần Yama là của riêng chúng. Tôi ghét cay ghét đắng đám bọn họ.
Đi vài bước lên bậc thang bằng đá là cánh cổng màu đỏ dán kín “ngàn thẻ điện thờ”[4]. Ở bên tay phải là một điện thờ Thần Yama nho nhỏ, trong đó Thần Yama với khuôn mặt được khắc họa thô sơ ngồi trong tư thế quen thuộc. Bên trong điện, mùi nhang khói ngột ngạt, và tiếng chuông lanh lảnh liên hồi bởi vì lũ trẻ trong vùng đánh khiến tôi cảm thấy đầu mình có thể vỡ tan thành từng mảnh nhỏ ngay được. Nhưng bác tôi đã vài lần kiên quyết bắt tôi phải đánh chuông bằng cái búa gỗ, và không chịu rời đi khi chưa bắt tôi nhìn thật kỹ khuôn mặt của Thần Yama. Sau đó, hầu như không cho tôi dừng lại một lát để thở, bác lại dẫn tôi tới chính điện, nơi có bức tượng bà cụ già ở sông Tam Đồ[5]. Bà cụ trong tư thế ngồi với làn da nhợt nhạt, hốc mắt hõm vào trông như hai cái nồi đồng, trên đầu là nhiều tầng vải màu đỏ và trắng. Cảm giác không thoải mái trong suốt chuyến đi cộng với ánh mặt trời lúc nào cũng rọi trên đầu khiến tôi không lần nào không bị đau đầu kinh khủng. Nhưng bác tôi vốn là người mê tín nên năm nào cũng tìm ra được lý do nào đó để lôi tôi đi.
Vào ngày lễ Phật nhập Niết Bàn[6], bác tôi treo lên một cuộn tranh đã hoen màu vẽ Phật Thích Ca nằm nghiêng, rồi đặt trước bức tranh đó một cái bàn nhỏ để đặt hương hoa lên. Cuộn tranh đã bị mối mọt ăn này và bức tượng Thần Daikoku trên bàn thờ là hai món tài sản duy nhất còn lại của bác tôi. Khi bác ngồi trước bàn để cầu nguyện, bác sẽ nhờ tôi châm một nén hương rồi sau đó kể cho tôi nghe rất nhiều câu chuyện khác nhau về Phật Thích Ca. Ở bên Ngài là voi, sư tử, A-tu-la, Khẩn Na La, rồng[7], và người trời - qua lời kể điệu nghệ của một người sùng kính và mê tín như bác tôi, tất cả đều hiện lên thật sống động và tất cả đều bắt đầu khóc than. Người phụ nữ xinh đẹp đang đứng trên đám mây phía trên cặp cây sala[8] và nhìn xuống là Maya, mẫu thân của Phật Thích Ca. Bác tôi bảo, túi thuốc mà bà ném từ trên trời xuống bị mắc vào một cành cây sala nhưng không ai để ý thấy. Việc Phật Thích Ca nhập niết bàn nghe như thể đó là sự từ biệt cha mẹ, và tôi khóc vì thương Ngài.
[1]Là vị thần cai quản địa ngục (Diêm Vương). Vị thần này xuất hiện nhiều trong Hindu giáo và Phật giáo.
[2]Trong Phật giáo, cổng Địa ngục mở vào ngày thứ 15 của tháng Giêng và tháng Bảy để tạm thời ân xá cho những linh hồn phạm tội đang bị đày đọa ở đó.
[3]Chamberlain: “Lễ hội Phật giáo lớn... thường được người nước ngoài gọi là Lễ hội Đèn lồng, nhưng có lẽ nên gọi là Ngày lễ Vong hồn thì đúng hơn. Vào dịp này, linh hồn của tổ tiên đã khuất sẽ về ban thờ gia tiên trong mỗi nhà để hưởng những mâm cỗ đặc biệt được chuẩn bị cho họ. Người sống sẽ tránh ăn thịt.” Lễ hội này thường được tổ chức vào ngày 13-15 của tháng Bảy; hiện nay theo dương lịch là vào ngày 13-15 của tháng Tám.
[4] Senja-fuda: Tấm thẻ ghi tên của những du khách đã tới thăm đền/chùa và được dán ở đó.
[5] Theo truyền thuyết dân gian, có một ông bà già sống ở sông Tam Đô, chuyên cướp quần áo của linh hồn người chết trước khi họ qua sông.
[6] Nehan-e: Là dịp kỷ niệm ngày Phật Thích Ca nhập Niết Bàn, được tổ chức vào ngày 15 tháng Hai.
[7] A-tu-la: Một chủng loài ưa tranh đấu trong thần thoại Ấn Độ, liên tục gây chiến với vua Trời. Trong Phật giáo, A-tu-la là một trong tám phi nhân loại bảo vệ cho Đạo Phật. Khẩn Na La: Một loài sống trên trời, rất giỏi ca hát. Rồng: Một trong tám phi nhân loại bảo vệ cho Đạo Phật.
[8] Cây này mọc ở phía Bắc Ấn Độ, khá cao, và nở hoa màu vàng nhạt. Phật Thích Ca tạ thế bên cặp cây sala ở vùng ngoại ô Kushinagara.