- 4 -
22
Ngoại trừ những khi trời mưa, bác tôi bao giờ cũng đưa tôi đi tham gia ngày lễ Đức Đại Nhật được tổ chức ba tháng một lần. Bởi vì tôi vừa đi vừa kéo ống tay áo bác, nên chiếc haori[1] của bác thường bị lệch hẳn sang một bên và bác phải dừng lại giữa đường để điều chỉnh lại. Thi thoảng, nhất là khi trên phố đông người, tôi nắm áo bác chặt đến nỗi bác phải gỡ từng ngón tay của tôi ra. Tôi sẽ buộc nhẹ những sợi dây trên chiếc áo haori của bác, còn bác buộc dây áo tôi thật chặt.
Tại lễ hội của Đức Đại Nhật, bác thường bảo tôi thả vào mấy đồng xu rồi gọi với vào bên trong, “Cho chúng tôi xin chút nến có được không?”
Từ trong góc đang thắp sáng đèn vọng ra một tiếng đáp, “Vâng, thưa cô” rồi một vị sư trẻ đứng lên châm nến và đặt nó trước hình ảnh thờ chính. Sau khi thành kính cầu nguyện, bác tôi tuyên bố, “Vậy là chúng ta xong việc rồi” và bảo tôi nắm ống tay áo bác rồi chúng tôi đi ra hướng cổng.
Những lời cầu nguyện của bác trước Đức Đại Nhật thường là, “Cầu mong cho thân thể yếu ớt của đứa trẻ này được khỏe mạnh lên” và “Cầu mong cho nó không bị thương trên đường” - đây là những lời cầu nguyện mà bác thường nghĩ ra trước mỗi ngày có con số tám.
Vào ngày diễn ra lễ hội này, một toán ăn mày ở đâu bỗng dưng xuất hiện và xếp hàng dọc theo hàng rào của nhà chùa. Chúng tôi thường đến sớm, khi tất cả những người ăn mày này vẫn chưa tề tựu đông đủ, mới chỉ có vài người què hoặc cụt chân nhanh nhẹn xuất hiện và trải ra những chiếc chiếu rơm mỏng. Dưới sự ảnh hưởng của bác, tôi dần dần cảm nhận được một niềm tự hào tuy mơ hồ nhưng rất to lớn về lòng trắc ẩn trẻ thơ của mình sau mỗi lần cho tiền họ. Trong đám người này có một người phụ nữ mù xinh đẹp biết chơi đàn koto. Khác với thời bây giờ, ngày ấy không có nhiều người sở hữu đàn koto, nên bác tôi và vú em thường thì thào bàn tán về người phụ nữ ấy, đoán già đoán non với nhau rằng bà ấy hẳn từng là người phục vụ cho một vị chức sắc thời Mạc phủ hay từng là địa chủ. Bà ấy cất tiếng hát nhưng âm thanh bị đè xuống đến mức gần như không nghe được. Hình ảnh những miếng gảy đàn của bà lướt và lăn trên những dây đàn tạo ra tiếng rì rào nho nhỏ, và những miếng ngựa đàn có hình giống lũ ngỗng trời nằm rải rác trên thớ gỗ có đường vân giống những đám mây của cây đàn - tất cả hiện ra thật mới mẻ và đẹp đẽ trong mắt tôi.
[1] Một loại áo khoác ngoài truyền thống, trước đây chỉ dành riêng cho nam giới thuộc tầng lớp thượng lưu, nhưng về sau được cả nam giới và nữ giới thuộc mọi tầng lớp ưa chuộng trong thời kỳ Minh Trị.
23Nếu đi sớm, bạn có thể trông thấy những người biểu diễn dựng các quầy hàng trông giống như những con nhện. Xung quanh họ là các công cụ và những chiếc hộp chứa những sinh vật dành cho các buổi biểu diễn thu hút sự hiếu kỳ của bạn. Chẳng mấy chốc, những tấm áp phích sẽ được dựng lên. Hầu hết đều là những bức họa kỳ dị như giao nhân mắt lồi đang bơi trên biển và một con rắn thật lớn có chiếc lưỡi chẻ đang chuẩn bị nuốt sống một con gà con. Nhưng thi thoảng cũng có bức tranh vẽ cảnh nhiều con chuột mặc kimono với các màu sắc khác nhau đang biểu diễn nhiều trò vui, trên tay cầm những chiếc quạt có in hình mặt trời mọc. Tôi rất thích bức tranh đó và mỗi lần thấy người ta dựng nó lên tôi đều vào trong xem diễn trò. Nhiều con chuột Nam Kinh túa ra để kéo một chiếc xe và vận hành một cái ròng rọc bắc trên giếng nước. Cuối cùng, chúng mang những túi gạo bé xíu ra khỏi một cửa hàng làm bằng giấy bồi và xếp chúng thành một chồng gọn gàng. Những con chuột đốm nâu và những con trắng như tuyết chạy sục sạo khắp nơi trông thật đáng yêu. Huấn luyện viên của chúng là một phụ nữ tầm 30 tuổi, ăn mặc giống phong cách phụ nữ phương Tây, mái tóc búi cao và đội một chiếc mũ - đây vẫn là một cảnh tượng hiếm thấy vào hồi ấy. Mỗi lần thấy một con chuột mang ra một túi gạo, cô lại nói bằng giọng trầm bổng vần điệu, “Cố lên! Chú chuột nhỏ, mang nó ra đi!”
Khi một con chuột nào đó vì vội vàng mà làm rơi túi gạo bắn về phía khán giả, một đứa trẻ sẽ nhặt nó lên ngay lập tức và ném trả lại. Khi ấy, người phụ nữ kia sẽ nói, “Xin cảm ơn,” với nụ cười thật tươi và cúi chào.
Túi gạo rất hay văng về phía tôi. Tôi cũng muốn nhặt nó lên cho cô ấy, nhưng lần nào cũng vậy, mặc dù háo hức, tôi vẫn không tài nào đưa tay ra được. Sau màn biểu diễn của những chú chuột, người phụ nữ trên sẽ lấy ra một con vẹt từ trong một cái lồng sơn sọc xanh đỏ và ra lệnh cho nó nhắc lại những lời của cô. Thường thì con vẹt sẽ ngoan ngoãn ngồi trên lòng bàn tay cô và nói bất kỳ điều gì mà cô muốn nó nói. Nhưng nếu tâm trạng không tốt, nó sẽ xù lông lên và chỉ phát ra những tiếng kêu the thé. Lúc này, người phụ nữ sẽ nghiêng nghiêng đầu với vẻ mặt khó hiểu và nói, “Tôi không biết hôm nay Tarö yêu quý của tôi bị làm sao.”
Tôi rời quầy biểu diễn với tâm trạng tiếc nuối, trong đầu là hình ảnh của con vẹt sặc sỡ, cái mỏ khoằm, và cặp mắt tinh nhanh của nó.
24Trong số các quầy hàng bán buổi tối, quầy của người bán hözuki[1] có sức thu hút lớn đối với tôi. Người này thường xoay một ống tre có gắn bánh răng, tạo ra một tiếng kêu kin kít.
“Hözuki yaa-i! Hözuki!” ông ta gọi.
Trên những chiếc lá màu đỏ san hô trải trên một tấm lưới nằm la liệt những con hözuki đủ màu sắc, từ xanh, đỏ, trắng, cho đến nhiều loại khác đang nhỏ từng giọt nước. Có hözuki tròn hình cái quạt, hözuki Triều Tiên hình trái tim, hözuki yêu tinh, hözuki hình cái kích - tất cả đều là hözuki đến từ biển, mỗi chiếc túi da đều phình to một bụng nước có hương vị của biển cả. Hözuki Tanba, hözuki nghìn cụm. Người bán hàng già cứ vừa xoay chiếc ống tre vừa gọi: “Hözuki yaa-i! Hözuki!”
Bởi vì không thể tạo ra được âm thanh với cây hözuki, nên tôi luôn đòi người nhà mua cho hözuki biển, sau đó tôi sẽ cẩn thận nắm chúng trong lòng bàn tay và mang về nhà. Cây hözuki Tanba trông như một vị sư mặc bộ áo choàng màu đỏ tươi. Hễ khi nào lột vỏ một quả và phát hiện thấy một vết muỗi đốt, chị tôi sẽ nổi giận và ném nó xuống chiếc chiếu tatami. Muỗi là một kẻ đồng hành độc ác. Khi cây vẫn còn xanh, nó sẽ lặng lẽ hút hết nước ngọt của quả. Một quả bị tổn thương nặng đến nỗi trên đầu nó có một ngôi sao tí hon, và nếu lấy tay xoa xoa vào nó, vỏ của nó sẽ bị vỡ ra.
Vào mùa hè, quầy hàng của những người bán côn trùng khiến tôi mê mẩn. Trong những chiếc lồng có hình dáng giống như cái quạt, con thuyền, và con chim nước, mỗi lồng đều treo một quả tua rua trên đỉnh, là những con dế thông[2] và dế chuông[3] đang thi nhau cất tiếng gáy. Con châu chấu[4] có tiếng kêu như tiếng người kéo cánh cửa trượt, còn con thiêu trùng[5] lại có tiếng kêu giống tiếng xào xạo của lá khô. Tôi muốn mua một con dế thông hoặc dế chuông, nhưng bác tôi bao giờ cũng mua cho tôi con châu chấu. Một lần, để chọc tức bác, tôi mua con châu chấu voi[6] mà bác vốn ghét, và cả đêm đó bác mất ngủ. Châu chấu voi được đựng trong một chiếc lồng tre thô sơ, các thanh ở bốn góc được sơn màu xanh đỏ. Nếu đặt một miếng dưa hấu vào trong tấm lưới, chúng sẽ vừa gặm nó vừa rung rung cặp râu dài. Chúng có khuôn mặt trông như đang hoang mang, và cặp chân dài đến phi lý gắn đằng sau trông thật buồn cười.
Thi thoảng chúng tôi cũng mua những chậu hoa dại. Tới giờ đi ngủ, bác tôi thường đặt chậu ra dưới mái hiên để chúng uống sương đêm. Tôi có thể nói gì để mô tả về cảm giác của một đứa trẻ khi ngắm những bông hoa này nhỉ? Đó là một sự vui thích thuần túy và vô tư mà tôi không bao giờ có lại được nữa. Vốn rất háo hức với chúng, nên sáng hôm sau tôi dậy từ rất sớm rồi để nguyên cả bộ đồ ngủ chạy ra ngoài và dụi mắt cho quen với ánh sáng ban ngày rồi nhìn chúng một lát. Mặc dù những hạt sương nhỏ li ti vẫn còn đọng trên hoa và lá, nhưng những bông cẩm chướng gấm màu đỏ nhung, những bông bướm dại có hình như bộ tóc xoăn, và những bông cúc vạn thọ đều đã tỉnh giấc từ lúc nào.
Nếu tôi mua một cuốn truyện tranh, họ thường sẽ cuộn tròn nó lại rồi dùng một thanh giấy buộc ở giữa. Tôi nâng niu cầm nó về như cầm trên tay một vật mỏng manh dễ vỡ, thi thoảng ghé mắt nhìn vào chiếc ống nhòm tạm bợ ấy. Mọi người ở nhà nhất định đòi xem cuốn sách đó đẹp đến chừng nào, và tôi cảm thấy mình thật quan trọng khi chậm rãi tháo chiếc dây buộc ra. Lúc đó, mọi người sẽ trầm trồ và nói, tôi cũng muốn có nó! Tôi cũng muốn có nó! Ở bìa ngoài là một khung viền với dòng chữ viết bằng mực đỏ: Các loài vật: Phiên bản mới. Hình ảnh con voi đang tươi cười với chiếc mũi dài ngoằng, con thỏ đang bĩu môi, con hươu, và con cừu đều rất đáng yêu. Mặc dù hầu hết các con vật đều được mô tả trong trạng thái một mình và trông có vẻ im lặng, nhưng cũng có con gấu đang đánh vật với Kintarö màu đỏ[7], và con lợn nòi với chiếc mõm nhô ra như măng tre bị ghìm chặt bởi samurai Nitan[8].
Sau khi tự hào khoe cuốn sách với tất cả mọi người, tôi chào họ rồi đi vào phòng ngủ, nơi bác tôi sẽ kể cho tôi nghe những câu chuyện tuyệt vời về từng bức tranh trong đó. Cuối cùng, tôi sẽ ngắm nhìn những bức tranh một lần nữa rồi đặt cuốn sách cạnh gối và ngủ thiếp đi.
[1] Hözuki: Như Naka giải thích, có hai loại hozuki: hözuki biển và hözuki đất liền. Hözuki biển thường là phần vỏ đựng trứng của loài ốc xoắn; hözuki đất liền là tên gọi tiếng Nhật cho “đèn lồng Trung Hoa” hoặc “anh đào mùa đông”, một loại quả có hình giống lồng đèn giấy Trung Hoa.
[2] Matsumushi (Xenogryllus marmoratus): Một loài dế, nổi tiếng vì âm thanh du dương mà chúng tạo ra.
[3] Suzumushi (Homoeogryllus japonicus): Một loài dế, nổi tiếng vì âm thanh trầm lắng trong trẻo. Ở Nhật Bản, loài này được mệnh danh là “vua của những côn trùng biết hói”.
[4] Kirigirisu (Gampsocleis buergeri). Loài côn trùng biết hót nổi tiếng được văn chương kinh điển Nhật Bản gọi là kirigirisu (châu chấu), ngày nay có lẽ được gọi là körogi, một loài dế.
[5] Kutsuwamushi (Mecopoda niponensis). Có lẽ tương đương với “châu chấu đuôi chẽ”. Bởi vì con côn trùng tiếp theo mà tác giả nhắc đến có lẽ là umaoi, “truy mã” (Hexacentrus japonicus), một chi châu chấu.
[6] Gachagacha: Tên khác của kutsuwamushi, một loài châu chấu lớn. Tên gachagacha là một từ tượng thanh, được cho là lấy từ âm thanh giống tiếng hàm thiếc ngựa tạo ra và đôi khi bị coi là “ôn ào”.
[7] Tên thuở bé của chiến binh Sakata no Kintoki (không rõ năm sinh, năm mất), một trong bốn hộ vệ của Minamoto no Raikö (948-1021), người nổi tiếng vì khả năng quân sự của mình cũng như chiến công tiêu diệt lũ cướp vùng Oeyama. Theo truyền thuyết, Kintarö là do nữ thần núi và một con rồng đỏ sinh ra, ông lớn lên bên cạnh những con gấu và các loài động vật khác. Hình ảnh ông với gương mặt đỏ, trên người chỉ mặc chiếc tạp dề và mang một chiếc rìu cỡ lớn hiện nay vẫn được sử dụng làm biểu tượng cho sức khỏe, sức mạnh, và lòng dũng cảm.
[8] Nitta Tadatsune (mất năm 1203), một chư hầu của Tướng Minamoto no Yoritomo (1147-1199), người thiết lập chế độ Mạc phủ. Trong các cuốn sách dành cho trẻ em, Tadatsune thường được mô ta là một chiến binh dũng cảm có thể chinh phục bất kỳ điều gì.
25Tôi nhút nhát đến độ không thể cất tiếng nói khi có người xung quanh, và nếu trông thấy có thứ gì mà mình muốn, thì tất cả những gì tôi làm là ngừng bước chân lại, còn tay vẫn níu lấy ống tay áo của bác. Nhìn ra được sự lạ lùng ở tôi, bác sẽ nhìn xung quanh và đặt câu hỏi. Khi bác chưa nói đúng thứ tôi muốn thì tôi vẫn tiếp tục lắc đầu quầy quậy, nhưng nếu tình hình kéo dài quá lâu, tôi sẽ miễn cưỡng chỉ tay vào thứ mà mình muốn, sau đó bẽn lẽn đưa ngón tay vào miệng. Tôi thích món đồ chơi có tên là “oẳn tù tì”[1], nhưng bác tôi không thích con rắn nên khi thấy tôi không nhìn, bác liền nhanh nhẹn giấu con rắn đi. Tôi cũng thích con thỏ tre biết nhảy nữa. Vào những ngày tiết trời ấm áp, lớp keo dính lỏng dần nên con thỏ không nhảy mà chỉ từ từ nâng mông cao lên rồi ngã sang bên cạnh. Ngoài ra, tôi cũng thích cả con chim biết xoay tròn trong lồng, và nếu thổi vào tay cầm gắn với cái lồng, nó còn có thể phát ra tiếng hót nữa, và chiếc “cung cá tráp”[2] có con cá trượt xuống, chiếc đuôi vẫy vẫy rất tinh tế.
Vào những đêm mùa đông có gió, đốm lửa của những chiếc đèn kantera trong các quầy hàng bên đường bập bùng cháy trong niềm cô tịch và những ngọn bấc trông giống như những con mắt đỏ ngầu. Vào những lúc như thế, người mà tôi cảm thấy đáng thương nhất là một bà cụ bán bánh nho khô. Bánh nho khô là gì tôi không biết. Bà cụ khoảng 70 tuổi, đã già yếu nhăn nheo; bà có một chiếc đèn đã bợt màu với dòng chữ Bánh nho khô ghi trên thân đèn. Ở quầy hàng nho nhỏ của bà có bày ra vài chiếc túi giấy, nhưng tôi chưa từng trông thấy có khách vào mua. Tôi thực sự cảm thấy bà cụ đáng thương nên đã năn nỉ bác, chỉ có điều trông đám bánh ấy bẩn thỉu đến nỗi bác tôi nhất quyết không chịu mua của bà cụ. Vài năm sau, khi tôi đã có thể tự mình ra ngoài chơi vào những dịp lễ hội, bà cụ già vẫn ở đó, trong quầy hàng trước đây bên cạnh quán mì. Hễ khi nào có lễ hội, tôi lại đến trước quầy hàng của bà rồi đi đi lại lại ở đó, nước mắt rưng rưng như chực trào ra. Nhưng lần nào cũng vậy, tôi đều không mua được thứ gì của bà, và ngậm ngùi trở về. Tuy nhiên, một buổi tối nọ, cuối cùng tôi cũng lấy hết can đảm mà tiến về phía chiếc đèn in hàng chữ Bánh nho khô. Bà cụ nghĩ tôi là khách hàng nên đã nhặt lên một chiếc túi giấy.
“Ta có thể giúp gì cho cháu nào?”
Tôi lúng búng không biết phải nói sao, rồi đột ngột ném một đồng hai xu lên quầy và chạy thục mạng về phía bụi cây ở chùa Thiếu Lâm. Tim tôi đập thình thịch và mặt mũi thì đỏ bừng.
Tôi không có ý định tới tham gia “Lễ hội cho kẻ ngốc” ở đền thờ của Thần Bát Phiên[3]. Lý do ở đây là chiếc mặt nạ kẻ ngốc với chiếc mũi gãy, gương mặt hyottoko[4] và cặp mắt lộn ngược cùng những chú hề khiếm nhã và bám dai dẳng khiến tôi cảm thấy ghê sợ. Tuy vậy, với lòng tốt ngây thơ của mình, gia đình tôi - cả bác tôi cũng đứng về phe họ - sẽ tìm mọi cách để đưa tôi đến đó trong niềm hy vọng rằng việc này sẽ giúp tôi chữa trị được căn bệnh trầm cảm. Sau khi tôi lên chín hay mười tuổi, mỗi lần đến dịp này tôi đều nài nỉ với họ rằng đến những nơi như thế thật khó chịu, nhưng tất cả đều nghĩ tôi chỉ đang mượn cớ nên vẫn kiên quyết đẩy tôi ra khỏi nhà cho bằng được. Khi đó, tôi lại đi đến một cánh đồng gần nhà rồi ngả lưng nằm trên một vách đá với những tán cây rộng và thả hồn ngắm núi non.
[1] Sansukumi: Một đồ vật bao gồm ba bộ phận gắn nam châm đại diện cho một con rắn, một con ốc sên, và một con ếch. Theo quan niệm phô biến ở Nhật Bản, con rắn sợ ốc sên, con ốc sên sợ con ếch, và con ếch sợ con rắn.
[2] Tai-yumi: Một món đồ chơi đơn giản trông giống cây cung, dây cây cung có gắn một con cá tráp nhỏ bằng đất sét. Khi giơ cung lên, con cá sẽ trượt xuống và run rẩy như thể cá sống.
[3] Tên của thần Chiến tranh trong Thần Đạo.
[4] Mặc nạ hình gương mặt nam giới với một mắt rất nhỏ và khuôn miệng trông giống một cái ống bị cong. Từ này bắt nguồn từ từ, có nghĩa là “người đàn ông bị cháy.”
26So với những đứa trẻ ngỗ ngược ở Kanda, thì những đứa trẻ ở nhà mới hiền lành hơn nhiều, và đường xá cũng vắng vẻ hơn; một thế giới phù hợp với một người như tôi. Vì thế, bác tôi vất vả tìm cho tôi một người bạn để chơi cùng, và cuối cùng bác cũng tìm được O-Kuni-san, một cô bé sống ở bên kia đường. (Gần đây tôi mới biết rằng cha cô bé từng là samurai ở thái ấp Awa và là một người trung thành có tiếng[1] vào hồi ấy.) Bác tôi là người đầu tiên phát hiện ra rằng O-Kuni-san là một cô bé yếu ớt và trầm tính, thậm chí bác còn biết cô mắc chứng đau đầu mãn tính. Vì thế, bác quả quyết rằng cô bé là người bạn phù hợp với tôi. Một hôm, bác đưa tôi đến khoảng đất trống bên trong cổng nhà của O-Kuni-san, nơi cô đang chơi đùa cùng vài đứa trẻ khác, rồi mặc cho tôi kháng cự, bác vẫn đặt tôi xuống gần bọn chúng.
“Nó là một cậu bé rất ngoan. Các cháu có muốn chơi với nó không?”
Đám trẻ ngơ ngác một lát rồi lại nhanh chóng vui vẻ tiếp tục trò chơi của mình.
Ngày hôm đó tôi chỉ làm “khán giả.” Tôi vẫn khư khứ bám rịt lấy ống tay áo của bác và đứng xem chúng chơi một lúc rồi về nhà. Ngày hôm sau tôi cũng được đưa đến đấy. Sau khoảng ba hoặc bốn ngày, lũ trẻ và tôi dần trở nên quen biết nhau hơn một chút, và khi chúng phá lên cười chuyện gì vui vẻ thì trên gương mặt tôi cũng xuất hiện một thứ gì đó từa tựa nụ cười.
O-Kuni-san cùng đám bạn rất hay nhảy bài “Hoa sen đã nở rồi[2]”. Vì thế, bác tôi cũng kiên nhẫn dạy cho tôi bài hát này và để tôi tập luyện trước từ ở nhà. Sau khi yên tâm rằng tôi đã nắm vững cách múa, bác lại đưa tôi vào trong cổng và mặc dù tôi rất hồi hộp lo lắng, bác vẫn đặt tôi xuống bên cạnh O-Kuni-san. Khi thấy cả hai đứa trẻ nhút nhát chúng tôi đều rụt rè đứng lùi lại, bác khéo léo dụ dỗ chúng tôi xích lại gần rồi kéo tay chúng tôi chạm vào nhau, lòng bàn tay này chồng lên lòng bàn tay kia, các ngón tay cong lại, và bác nhẹ nhàng ấn xuống từ bên trên, thế là rốt cuộc bác cũng làm cho chúng tôi nắm lấy tay nhau. Vốn từ trước tới giờ, tôi chưa từng để người lạ cầm tay mình, vì thế tôi có phần sợ hãi. Hơn nữa, vì sợ rằng bác tôi có thể lén đi ra chỗ khác, nên tôi vẫn dán chặt mắt vào bác. Sự xuất hiện của người mới lúng túng kém hòa nhập này hoàn toàn phá hỏng niềm vui của đám trẻ, và chúng không chịu xoay người. Thấy thế, bác tôi liền chen một chân vào vòng tròn, vỗ hai tay rất vui vẻ, chân dậm bước nhịp nhàng rồi vừa xoay người vừa hát,
Ôi, hoa đã nở rồi, hoa đã nở rồi,
Hoa nào đã nở?
Đám trẻ chậm rãi bắt nhịp cùng bác và bắt đầu thì thào cất tiếng hát. Với sự đi đầu của bác, tôi cũng bắt đầu kín đáo hát theo, trong lúc hát không quên liếc nhìn khuôn mặt của tất cả đám trẻ.
Ôi, hoa đã nở rồi, hoa đã nở rồi,
Hoa nào đã nở?
Hoa sen đã nở rồi!
Ngay khi vòng tròn nhỏ bắt đầu xoay, bác tôi càng nỗ lực hơn nữa. Tiếng hát càng lúc càng to hơn, vòng tròn càng xoay nhanh hơn. Tôi vốn trước giờ chưa từng đi bộ bình thường như người ta, nên tim tôi bắt đầu đập thình thịch trong lồng ngực, và tôi cảm thấy chóng mặt. Tôi muốn bỏ đi, nhưng tất cả mọi người đều đang rất tập trung và kéo tôi xoay vòng theo. Sau một hồi lâu, lũ trẻ hát,
Chúng ta tưởng hoa vừa mới nở,
Nào ngờ hoa khép cánh lại cũng rất nhanh!
Và tất cả cùng tiến về phía bác tôi. Bác tôi hát,
Ôi, tôi rất tiếc! Tôi rất tiếc!
và thoát ra khỏi vòng tròn.
Hoa đã khép cánh rồi, hoa đã khép cánh rồi,
Hoa nào khép cánh?
Hoa sen đã khép cánh rồi...
Rồi vẫn trong tư thế nắm tay nhau, tất cả giơ tay lên cao và đung đưa theo nhịp bài hát.
Chúng ta tưởng hoa vừa mới khép,
Nào ngờ hoa nở cũng rất nhanh!
Đóa hoa sen đang khép cánh đột ngột nở ra, khiến hai tay tôi đều bị giật sang hai bên. Sau khi những động tác này lặp đi lặp lại vài lần, tôi đã mệt phở vì không quen với sự vận động này, hơn nữa tinh thần cũng phải cố gắng quá sức. Bác tôi phải gỡ các ngón tay của tôi ra rồi mới cõng tôi về nhà.
[1]Okamoto Kansuke (1839-1904): Nhà thám hiểm vùng Karafuto (Sakhalin) và Chishima Rettö (Quần đảo Kurile Islands), nhà giáo dục, kiêm tác giả của 60 đầu sách.
[2] Một bài hát múa theo kiểu vòng tròn, bắt nguồn từ thời Edo và trở nên phổ biến nhất vào đầu thời kỳ Minh Trị. Sau khi bài hát được đưa vào sách giáo khoa, nó trở nên nổi tiếng khắp Nhật Bản. Trong bài hát này, trẻ nhỏ nắm tay nhau xếp thành một vòng tròn và xoay người, bắt chước cánh hoa sen khép lại và mở ra. Một đứa trẻ đứng ở chính giữa.
27O-Kuni-san là người bạn thực sự đầu tiên của tôi. Ban đầu, tôi chỉ chịu chơi khi có bác ở bên cạnh, và quả thực bác đã ở bên cạnh tôi bởi vì bác biết rõ rằng tôi bị đặt vào nơi này. Nhưng sau khi quan sát và yên tâm rằng khác với Kanda, vùng này là thế giới được tạo ra cho một đứa trẻ như tôi, rất yên tĩnh và an toàn, bác bắt đầu để tôi một mình, sau khi căn dặn tỉ mỉ nhiều lần rằng tôi phải nhớ chạy vào bên trong cổng nếu thấy có xe đi ngang qua, rằng tôi không được lại gần các rãnh nước, và vô vàn điều khác.
Khi còn lại O-Kuni-san và tôi, cô bé làm theo thể thức kết thân thông thường của trẻ con và đặt ra cho tôi những câu hỏi, bắt đầu là tên của bố mẹ tôi, cho đến ngày tháng năm sinh của tôi. Và khi cô hỏi về năm sinh, tôi ngoan ngoãn nói rằng tôi sinh năm con gà.
“Tớ cũng sinh năm ấy,” cô bé[1] nói. “Chúng mình làm bạn tốt nhé.”
Sau đó chúng tôi cùng nhau đi loanh quanh, vừa đi vừa phất tay áo lên như vỗ cánh và nói “Cục ta cục tác! Cục ta cục tác!” Cảm giác cùng chung năm sinh với nhau thật tuyệt vời, như thể hai người cùng nhau sống lại quá khứ vậy. O-Kuni-san cũng ca cẩm chuyện người nhà cứ gọi cô là Gầy Đét hoặc Chân Dài, còn tôi cũng bất mãn chuyện gia đình gọi mình là Bạch Tuộc nên rất thông cảm với cô. Mặc dù nói với nhau rất nhiều chuyện, nhưng chuyện nào chúng tôi cũng đạt được sự nhất trí, nên chẳng mấy chốc chúng tôi đã thân thiết với nhau. O-Kuni-san có làn da nâu và dáng người gầy gò, chiếc mũi cân đối rõ ràng, và để tóc mái; mái tóc của cô được buộc lại gọn gàng phía sau và cột chặt bằng một sợi vải đỏ.
Chúng tôi lúc thì dựa người vào cánh cổng đã bị mối mọt gặm nham nhở, lúc thì ngồi xổm vầy bùn, khuôn mặt kề sát nhau đến mức đầu hai đứa suýt chạm vào nhau, rồi vừa chơi chúng tôi vừa trò chuyện con cà con kê về những thứ tủn mủn lặt vặt, chẳng hạn về chiếc răng mới rụng ngày hôm qua, hay ngón tay bị gai đâm. Và khi hài lòng với nhau, chúng tôi cùng phá lên cười. Hình như cô bé bị mất một chiếc rằng nanh, nên mỗi khi cô cười lên, chỗ đó trống hoác như một cái động. Vốn từ trước tới giờ chỉ quanh quẩn với bác ở nhà, nên sau khi chơi với O-Kuni-san, tôi nhanh chóng có được những ý tưởng về mọi việc, chẳng hạn cái gì là tốt và cái gì là xấu. Nhưng bởi vì tôi, mặc dù cùng tuổi nhưng lại non nớt hơn cô rất nhiều, nên chuyện gì tôi cũng nghe theo O-Kuni-san.
Ở trong vùng còn có một cô bé nữa tên là O-Mine-chan lớn hơn chúng tôi một tuổi. Cô bé này không những ích kỷ mà còn cực kỳ hay ghen tị, nên tất cả lũ trẻ đều không thích cô ấy. Nhưng bởi vì chúng tôi gặp nhau hằng ngày, nên vì phép lịch sự của trẻ con mà đôi khi chúng tôi buộc phải để cô ấy chơi cùng. Một hôm, O-Kuni-san và tôi lại nói về năm Dậu và vừa đi vừa phất tay áo vừa nói cục ta cục tác, cục ta cục tác. Khi gặp chúng tôi như thế, O-Mine-chan nói, “Ô, tớ sinh năm con khỉ!” rồi hét lên như khỉ và giơ tay cào chúng tôi.
[1] Tên thật của cô bé là Okamoto Take (1883-1896). Cô lớn hơn Naka hai tuổi, nhưng khác với Naka, cô bé mất sớm.
28O-Kuni-san có chiếc lược sơn màu đỏ với họa tiết sơn mài hình hoa cúc. Cô bé còn có một cái kẹp tóc đằng đuôi gắn một quả bóng bằng vải crepe màu đỏ tươi và ngọc xanh biển. Mỗi lần có đồ mới, O-Kuni-san lại đem khoe với tôi. Nhưng hễ tôi định nhìn gần hơn thì cô bé lại trêu tôi bằng cách giấu nó trong tay áo. Vào những lúc như thế, tôi lại thầm tiếc rẻ vì mình không sinh ra là con gái, và thắc mắc vì sao đám con trai không biết cách làm đẹp như con gái.
Khi chúng tôi chơi trốn tìm, trước tiên O-Kuni-san sẽ dọa tôi một trận với những câu chuyện như “Ngày hôm qua có một cậu bé ba mắt xuất hiện trong bụi cây ở sân sau đấy” và “Tớ từng trông thấy một con rắn đá rất ngoằn ngoèo”. Sau đó cô bé sẽ bảo tôi đứng dưới gốc cây mận damson và nhắm mắt lại rồi cô bé đi tìm chỗ trốn. Tôi phải đi vòng qua nhà để vào sân sau tìm cô. Gần phía góc vườn, bên trong một hàng rào tre là nơi nhốt hai con ngỗng mà tôi rất sợ. Tôi cố gắng lẻn qua, nhưng lần nào chúng cũng phát hiện ra tôi, và thế là chúng nâng đầu lên như vương miện của Thần Ebisu mà quạc quạc đuổi theo tôi. Cuối củng tôi cũng qua được cửa của chúng và tiến về phía khóm chè. Nhưng nào đã hết rắc rối, bởi vì ở đó có con bò nuôi để vắt sữa của nhà hàng xóm, nó thường xuyên thò cổ qua hàng rào rồi rống lên. Bởi vì tôi cũng sợ cả nó nữa, nên chỉ dám rụt rè ngó nghiêng nhìn khóm chè một lúc rồi tiếp tục tìm kiếm trong vườn. Ở vườn có nhiều cây lớn nên rất khó tìm được cô bé. Tôi nhìn quanh quẩn một hồi mà vẫn không trông thấy ai cả, và tôi biết chắc cả con bò lẫn cặp ngỗng đều đang chờ tôi trên quãng đường về.
“Cậu xong chưa?” tôi ngập ngừng hô lên.
Trong bầu không khí im ắng hoàn toàn chỉ có giọng nói của tôi vang lên. Liệu có phải cô bé lừa tôi và chạy đi chỗ nào khác rồi không? Tôi bắt đầu băn khoăn, trong lòng dâng lên cảm giác cô đơn. Tôi ước gì bác tôi sẽ đến đón tôi ngay lúc ấy.
“Cậu xong chưa?” tôi hô lên hỏi lại lần nữa. Tôi biết rằng giọng nói của mình bây giờ đã run run vì nước mắt. Rồi ở đâu đó gần bụi tre bỗng vang lên một giọng nói nhỏ, “Xong rồi.”
Cô bé ở đằng kia, tôi nghĩ, và chạy lại gần chỗ bụi tre. Nhưng ngay đằng sau hàng rào, những cây bạch quả của ngôi chùa bên cạnh vươn lên thành một khối đen kịt, và xen giữa đám tre là mấy cây hoa trà và bồ kết đứng lộn xộn tạo thành một vùng tối tăm. Khi tôi vẫn còn đang đứng ngẩn người vì sợ hãi, trong bụng băn khoăn không biết liệu có đúng là cậu bé ba mắt đã từng xuất hiện ở đây hay không, thì một tiếng khúc khích vang lên từ sâu trong bụi cây rậm rạp ấy. Như được khích lệ, tôi mạnh dạn tiến vào. Nhưng rễ và mấu tre mọc lên khắp nơi, còn cây tầm ma cũng giăng kín lối. Vì vậy, đối với một đứa bé như tôi mà nói, một đứa bé có người bác luôn cẩn thận dọn đường đi cho tôi, không bỏ qua dù chỉ một viên đá cuội, thì con đường này giống như Núi Kim của Địa Ngục, nghĩa là không thể đi qua. Không những thế, tôi còn hình dung ra những con rắn ngoằn ngoèo sẽ xuất hiện khắp nơi xung quanh mình. Và mọi chuyện thật kỳ lạ. Tôi dò dẫm từng bước đi đầy sợ hãi tiến về phía trước. Khi tôi đến gần, O-Kuni-san thình lình từ trong góc tối nhảy ra, xoay tròn mắt và hô lên, “Òa!”
Mặc dù biết đó là O-Kuni-san, nhưng tôi vẫn nổi da gà khắp người và bỏ chạy thục mạng, vừa chạy vừa thét lên, “Dừng lại! Dừng lại đi!” Phản ứng này càng khiến cô bé khoái trá, và cô chạy đuổi theo tôi như thể sẽ đuổi theo tôi tới cùng trời cuối đất.
Sau đó đến lượt tôi đi trốn. Nhưng tôi không thể trốn trong bụi cây, mà cô bé thì hiểu rõ về địa hình nhà mình, nên chẳng mấy chốc cô đã tìm được tôi. Tuy nhiên, thi thoảng vì lý do nào đó, cô bé không tìm được chỗ tôi trốn nên đi vào nhà ăn bánh. Tôi không biết chuyện đó, nên sau khi chờ chán chê, tôi lại đi ra và nói, “Thôi được rồi, trời sáng rồi!” Sau đó cô bé nói, “Tớ tìm được cậu rồi!” và chạy ra, miệng vẫn còn chóp chép nhai.
“Cho cậu nữa này,” cô nói và đưa cho tôi mẩu bánh kinkatö đang ăn dở.
29Cả hai chúng tôi đều rất thích những tấm đề-can. Mùi dầu của chúng thật khó tả. Vì nóng vội muốn có hình xăm, chúng tôi nhổ nước bọt lên chúng để dán, và trong lúc lấy ngón tay chà lên chúng, cả hai hối hả nói, “Nhanh lên rồi dán, nhanh lên rồi dán!”
Sau đó chúng tôi đặt bàn tay song song với nhau rồi thích thú cấu véo lớp da trên mu bàn tay lúc này đã in hình đủ mọi loại chim chóc và động vật khác nhau. Trong chốc lát, những miếng đề-can khô lại khiến da chúng tôi ngứa ngáy, nhưng chúng tôi chỉ dám cẩn thận gãi gãi xung quanh chúng cho vơi cơn ngứa. Một lần, hai đứa cùng in hình ảnh giống nhau lên cánh tay và thi xem ai giữ được lâu nhất. Tôi đã vô cùng cẩn thận để ống tay áo không cọ vào làm hỏng nó, thế nhưng sáng hôm sau tất cả những gì còn lại vẫn chỉ là những mảnh nhỏ còn sót lại. Ăn xong bữa sáng, tôi đến nhà O-Kuni-san trong tâm trạng vô cùng lo lắng.
“Tớ xin lỗi, cái của tớ nó thành ra thế này.”
O-Kuni-san khinh khỉnh nhìn tôi rồi vén ống tay áo lên để chứng minh rằng cô vẫn giữ được hình xăm, nhưng phát hiện ra rằng hình ảnh trên cánh tay cô cũng đã trở nên lộn xộn thành một đống. Cô bé trợn tròn mắt và nói, “Của tớ cũng thế này!” rồi phá lên cười vui vẻ.
Khi hoa anh đào nở, chúng tôi thi xem ai có thể xâu nhiều cánh hoa vào một sợi chỉ hơn.
Một hôm, khi chúng tôi đang chơi ở tiền sảnh nhà O-Kuni-san với mấy bát đựng đậu đỏ, giả vờ rằng những chiếc lá của cây chua me đất là dưa chuột, thì O-Mine-chan tìm đến và nói, “Chúng ta cùng chơi đi.” Ngay lập tức, O-Kuni-san quay sang thầm thì với tôi, “Tớ không thích nó. Hãy chơi xấu nó vào.”
Cô lén nhổ một ít cỏ vấn vương mọc cạnh hàng rào rồi đột nhiên ném chúng về phía O-Mine-chan và hét to, “Cỏ vấn vương, cỏ vấn vương, hãy bắt đồ xấu xa kia đi!”
Nhưng O-Mine-chan đâu có dễ dàng bị đánh bại như thế, cô bé ném lại một ít cỏ về phía chúng tôi. O-Kuni-san chia cho tôi một nửa số cỏ đang cầm trên tay, và tôi bặm môi găng sức ném thật mạnh về phía O-Mine-chan để trả thù cho những cảm giác khó chịu hằng ngày.
“Cỏ vấn vương, cỏ vấn vương, hãy bắt đồ xấu xa kia đi!”
“Cỏ vấn vương, cỏ vấn vương, hãy bắt đồ xấu xa kia đi!”
“Cỏ vấn vương, cỏ vấn vương, hãy bắt đồ xấu xa kia đi!”
Bởi vì bị tấn công bất ngờ, hơn nữa còn bị áp đảo về quân số, nên O-Mine-chan bắt đầu tháo chạy. Chúng tôi đuổi theo và tiếp tục ném cỏ điên cuồng. Chẳng mấy cốc, đám cỏ vấn vương đã bám lên khắp lưng cô bé. Cô quay người lại giận dữ nhìn chúng tôi chằm chằm rồi đi vào trong nhà cùng đám cỏ vấn vương trên lưng. Tôi nhìn cô đi mà trong lòng thắc thỏm lo sợ cô sẽ mách người lớn, nhưng rồi cô lại quay người lại, hếch cằm lên với chúng tôi đầy vẻ ghét bỏ, và chạy đi.
Lá đậu răng ngựa khi bị mút vào miệng sẽ phình to lên như bụng con ếch cây. Chuyện này thật thú vị nên tôi cứ tha thẩn nhổ lá trong vườn, dù rằng lần nào cũng bị mắng. Nếu đặt một cánh hoa sơn trà lên lưỡi và hít một hơi vào, nó sẽ tạo ra âm thanh nghe giống tiếng sáo hichiriki[1].
Mùa xuân đến, cây mận damson trước tiền sảnh trông dáng dấp như một nhà nho và nở từng chùm hoa bềnh bồng như những đám mây. Dưới ánh nắng mặt trời, những chùm hoa mận nhạt màu bỗng trở nên chói chang, và mùi thơm nhè nhẹ phảng phất quanh chúng. Lũ trẻ hàng xóm thường tụ tập dưới gốc cây mận này và rủ nhau chơi nhiều trò khác nhau. Khi nghe tiếng chúng nhí nháu, bác tôi sẽ dẫn tôi ra gặp chúng và bác chỉ chịu vào nhà sau khi đã thì thầm vào tai chúng mấy lời dặn dò. Mặc dù tất cả đều lớn hơn tôi 3-4 tuổi, nhưng chúng cũng rất thân thiết với bác tôi, mà bác tôi lại có tính yêu quý trẻ con, và dần dần chúng gọi bác tôi là bác Kan-chan. Chúng thường chơi cùng tôi với tâm thế bảo vệ che chở, và chăm sóc tôi như chăm một đứa bé con. Điều kỳ lạ là, mặc dù cao lớn hơn tôi rất nhiều, nhưng trò nào chơi với tôi chúng cũng dễ dàng bị thua. Khi chúng tôi chơi đuổi bắt, không có ai bắt được tôi, và khi chúng tôi chơi đánh quay, thật khó hiểu, không có ai đánh trúng con quay của tôi cả. Thế là trước khi tôi kịp hiểu chuyện gì đang xảy ra, tôi đã trở thành người thắng cuộc. Lúc tôi về nhà và tự hào khoe chiến công với cả nhà, mọi người sẽ không tiếc lời khen ngợi tôi, “Chà, con thật là giỏi!”
Phải một thời gian rất lâu sau, tên đần là tôi đây mới nhận ra rằng họ đối xử với tôi như một kẻ ngốc vậy.
[1] Một nhạc cụ hơi nhỏ làm bằng tre, thường được sử dụng trong nhã nhạc.
30Ở gần đó có một ông cụ vừa bán thạch millet vừa làm nông. Khi thời tiết tốt, ông sẽ kéo xe đi bán dạo, vừa đi vừa thi thoảng thổi chiếc charamela[1]. Âm thanh của nhạc cụ đó dường như phá vỡ sự hài hòa của tất cả mọi thứ nhưng lại có sức hấp dẫn kỳ lạ đối với đám trẻ con. Mỗi khi nghe thấy tiếng kèn ấy, những đứa đang ở trong nhà phải chạy vội ra ngoài, còn những đứa đang chơi cũng ngừng lại để chạy tới. Đủ loại trẻ con, một vài đứa treo gậy bên hông như kiếm, một vài đứa cầm những con quay lấm lem bùn đất phía trước áo kimono, ồn ào tụ tập bu quanh chiếc xe của ông cụ. Ngoài thạch millet, ông còn mang que rút thăm trúng thưởng và mấy món kẹo rẻ tiền, vì thế lũ trẻ sẽ tíu tít bận rộn với những tấm thẻ màu xanh đỏ trong một lát. Ông cụ lấy một cái que gỗ để khuấy lớp thạch màu hổ phách trong ống và kéo chiếc que ra, lúc này ở đầu que đã gắn một viên thạch bóng loáng. Bạn đưa nó vào trong miệng và xoay chiếc que, thế là vị ngọt ngào tan ra hòa vào trong nước miếng của bạn, và viên thạch cứ thế nhỏ dần, nhỏ dần.
Cặp vợ chồng bán “kẹo que ngon ngon” cũng đến. Người đàn ông đội trên đầu một thứ trông giống như cái chậu giặt được buộc bằng nhiều vòng đồng. Ở mép chậu cắm những lá cờ nhỏ, trên đầu mỗi lá cờ là chiếc kẹo màu đỏ trắng hình vịt gỗ. Người bán hàng rong mặc bộ yukata in họa tiết cá chép vượt vũ môn[2], anh ta vừa đi vừa đánh trống udo-dong và lắc lư vai và hông nhịp nhàng theo tiếng trống. Đi theo anh là một người phụ nữ trên đầu đội chiếc khăn theo kiểu “chị cả[3]” và chơi đàn samisen phát ra thứ âm thanh khàn khàn. Nếu có người mua nhiều, người đàn ông sẽ đeo lên mặt chiếc mặt nạ okame[4] và nhảy múa, còn lũ trẻ sẽ vây vòng quanh để xem. Anh ta xoay đầu, phất ống tay áo, và nhảy múa tự do theo tiếng đàn samisen của người phụ nữ; bước nhảy của anh khác với lũ trẻ chỉ biết chạy loanh quanh la hét. Khi màn múa kết thúc, anh sẽ nói, “Xin thứ lỗi vì chúng tôi ồn ào quá.”
Sau đó anh sẽ nhấc chiếc chậu lên đầu trở lại, nhưng suýt chút nữa lại hạ nó xuống để chiều lòng lũ trẻ, cuối cùng anh vừa đi vừa ngân ngấn nước mắt[5].
Cha của O-Kuni-san là một người cao to vạm vỡ, khỏe mạnh, và đáng sợ. Ông thường đi làm nhiệm vụ vắng nhà, khi ở nhà, ông lại nhốt mình trên gác cả ngày để viết lách. Bởi vì hễ chúng tôi làm ra tiếng động nhỏ nào cũng bị ông mắng, nên khi ông ở nhà tôi sẽ không sang đó chơi, còn O-Kuni-san cũng khúm núm ở trong nhà. Nếu tôi không biết ông có nhà mà chạy sang và gọi, “O-Kuni-san, chơi với tớ không?” thì cô sẽ mở he hé cánh cửa trượt ốp giấy ở tiền sảnh, đưa ngón tay trỏ lên trước mũi và lắc lắc với vẻ hoảng sợ cực kỳ.
Một lần, gia đình O-Kuni-san mời tôi sang chơi nhân ngày Lễ hội Đào[6]. Bệ đặt búp bê được bày ở trên cao trong mé trang trọng[7] của căn phòng khách tràn ngập ánh nắng mặt trời, và những con búp bê được bày trên đó trông thật lộng lẫy. Bộ búp bê nhà tôi thì nhỏ đến độ “bạn có thể đặt chúng vào trong mắt mình,” nhưng bộ của nhà O-Kuni-san thì lớn và xếp kín cả năm chiếc kệ. Bởi vì tin tưởng rằng tất cả các con búp bê đều là người sống, nên tôi khúm núm cúi chào lần lượt từng con, khiến tất cả mọi người có mặt ở đó đều phá lên cười. Ngay lúc ấy, cha của O-Kuni-san mà tôi vẫn đinh ninh là đang vắng nhà, đột ngột xuất hiện. Tôi lúng túng không biết làm gì, hết nhìn chằm chằm vào đám búp bê lại nhìn sang ông, rồi tôi bắt đầu sụt sùi chực khóc. Thấy tôi sợ, ông mỉm cười - điều mà ông rất hiếm khi làm - và bọc đậu nổ đưa cho tôi, rồi hỏi tôi mấy tuổi rồi, tên là gì, và những câu hỏi tương tự.
“Trong số tất cả chúng ta ở đây, ai là người đáng sợ nhất?” cuối cùng ông hỏi. Tôi thật thà chỉ tay vào ông. Lần này tôi lại chọc cho mọi người một trận cười nghiêng ngả nữa. Cả ông cũng bật cười.
“Chỉ cần cháu biết giữ yên lặng, bác sẽ không mắng cháu đâu,” ông nói.
Khi ông đi lên gác, cuối cùng tôi cũng cảm thấy nhẹ nhõm và thở phào một hơi.
[1] Charumera: Một nhạc cụ hơi đơn giản, xuất hiện đầu tiên ở Thổ Nhĩ Kỳ vào nửa sau thế kỷ XVI, về sau được truyền bá sang Trung Quốc rồi đến Nhật Bản.
[2] Theo truyền thuyết Trung Quốc, hàng nghìn loài cá và rùa cố gắng nhảy lên thác nước tên là Long Môn ở sông Hoàng Hà, nhưng chỉ có cá chép là thành công, và sau đó hóa thành rồng.
[3] Anesan-kaburi: Một cách đơn giản dùng khăn choàng lên đầu thay cho khăn đội đầu.
[4] Khuôn mặt của O-Tafuku-san, xem chú thích về nàng Ota-san ở Chương 13.
[5] Yokayoka-ameya. Thường thì đây là những người biểu diễn dạo, họ thường ghé vào các quán rượu bình dân vào buổi tối và biểu diễn những trích đoạn ngắn về cuộc đời của những người nổi tiếng.
[6] Momo no sekku; còn gọi là hina-matsuri (Lễ hội Búp bê), được tổ chức vào ngày 3 tháng Ba âm lịch (ngày nay là ngày 3 tháng Ba dương lịch). Theo Chamberlain: “Vào ngày 3 tháng Ba, mọi cửa hàng búp bê ở Tökyö, Kyöto, và nhiều thành phố lớn khác đều trưng bày O Hina Sama, tức là những mô hình tí hon mô phỏng cả người và đồ vật, toàn bộ triều đình Nhật Bản thu nhỏ. Đây là một ngày lễ lớn hằng năm của tất cả các trẻ em gái.” Trước đây, nhiều hộ gia đình cũng có những con búp bê như vậy.
[7] Shömen: Mé của căn phòng có tokonoma (góc hóng mát) và một chiếc tủ trang trí.