- 5 -
31
Tôi thật nhớ những trò chơi mà chúng tôi chơi trong những ngày ấu thơ yên tĩnh ấy! Thú vị nhất là những trò chơi vào buổi chiều. Nhất là vào đầu mùa hè, khi mặt trời lặn dần, để lại sắc đỏ phản chiếu trên những đám mây, lũ trẻ vì biết rằng sắp đến giờ phải về nhà rồi nên càng tập trung vào các trò chơi của mình hơn. Khi đã chơi mệt các trò như “nấp mau[1]”, bịt mắt bắt dê, đuổi bắt, và nhảy lò cò, O-Kuni-san sẽ chải ngược phần tóc mái về đằng sau để gió thổi cho khô đám mồ hôi trên trán.
“Tiếp theo chúng ta sẽ chơi gì đây?”
“Chơi trò ‘nhốt nó lại’ đi,” tôi vừa đề nghị vừa giờ tay áo lên lau mồ hôi trên mặt.
“Nhốt nó lại! Nhốt nó lại!”
“Nhốt con chim vào lồng!”
“Đoán xem khi nào nó dám ra ngoài!”
Sau trận mưa, những chồi non trên những cành cây sà xuống thấp của đám tuyết tùng bên hàng rào lấp lánh những giọt mưa; nếu rung hàng rào, những giọt mưa này sẽ lộp độp rơi xuống cùng một lúc, trò này rất vui. Chỉ chốc lát sau, nước mưa lại đọng trên cành cây như trước.
Ở một góc của sân chơi là một cây mimosa lớn, trổ ra những bông hoa phớt hồng có lông. Vào buổi chiều, khi tới giờ đi ngủ của những chiếc lá bí ẩn, lũ bướm đêm xinh đẹp bay đến, rung rung cặp cánh dày màu nâu, và tíu tít bay từ bông hoa này sang bông hoa khác một cách kỳ lạ. Một lần, vì cho rằng thân cây mimosa có máu buồn, nên O-Kuni-san và tôi đã thi nhau chà vào đó thật mạnh, tới mức lòng bàn tay chúng tôi suýt nữa thì bong da.
Khi hình ảnh phản chiếu của mặt trời trên những đám mây nhạt dần, mặt trăng đã lén lút chờ đợi từ bao giờ bắt đầu trải ra thứ ánh sáng bàng bạc. Khi ấy, O-Kuni-san và tôi nhìn lên gương mặt dịu dàng của mặt trăng và hát, “Chị Hằng, chị bao nhiêu tuổi?”
“Chị Hằng, chị bao nhiêu tuổi?”
“Mười ba và bảy?”
“Chị hãy còn trẻ quá!...”
O-Kuni-san khum hai tay làm ống nhòm, đưa lên mắt, và bảo tôi, “Cậu làm thế này này, như thế sẽ trông thấy được con thỏ đang giã bánh gạo.”
Tôi ngoan ngoãn làm theo cô và nhìn lên trời. Ý tưởng rằng ở trên mảnh đất tròn mờ nhạt xa xôi kia có một con thỏ đang giã gạo một mình mang lại niềm vui sướng cho đầu óc thơ ngây hiếu kỳ của những đứa trẻ. Khi ánh trăng dần sáng lên, chúng tôi lại đuổi theo bóng của nhau đang dập dềnh trôi nổi trên đường cho đến khi bác đến đón tôi về.
“Về nhà thôi nào, bữa tối đã xong rồi.”
Nếu tôi kháng cự, chôn chân dưới đất quyết không chịu đi, bác sẽ loạng choạng lôi kéo tôi và nói, “Bác không so được với con! Không so được với con!” Cuối cùng, bác sẽ tìm cách dụ dỗ tôi về.
“Ngày mai con có muốn chơi với thằng bé nữa không?” bác gọi O-Kuni-san. Sau khi chào tạm biệt bác, O-Kuni-san quay người đi và nhắc lại:
“Lũ ếch đang kêu, chúng ta đi thôi!”
Vì vẫn chưa hề muốn ra về, tôi cũng hô lên như thế. Và chúng tôi cứ gọi nhau như vậy cho đến khi về tới nhà.
[1] Chongakure. Theo một quan điểm đương thời, đây là một biến thể của trò bịt mắt bắt dê.
32Trong lúc chúng tôi đang tận hưởng những ngày tháng vô lo vô nghĩ thì một điều khủng khiếp xảy đến với cả hai. Chả là chúng tôi đều đã lên bảy tuổi và phải đi học. Bởi vì tôi từng được bác cõng đến trường khi bác mang cơm hộp cho các chị tôi, nên tôi biết trường học là như thế nào. Làm sao tôi có thể đến một nơi có đầy những đứa trẻ trông xấu tính như vậy chứ? Tối nào cũng thế, khi đến giờ tôi mang thùng đồ chơi ra chơi ở phòng ăn, cả bố lẫn mẹ đều dông dài giải thích, nhưng tôi vẫn một mực lắc đầu quầy quậy. Mẹ tôi nói nếu không đi học, tôi sẽ không thể trở thành một con người tuyệt vời. Tôi trả lời rằng tôi không muốn trở thành con người tuyệt vời. Bố tôi nói ông sẽ không nuôi trong nhà một đứa con trai không học hành gì cả. Tôi nói thế thì tôi sẽ rời khỏi nhà cùng với bác tôi và thùng đồ chơi.
Ban đầu, những lời phản kháng được nặn ra từ bộ não nghèo nàn của tôi và những tiếng mè nheo của một đứa trẻ ốm yếu bị mọi người cười nghiêng ngả, nhưng khi ngày đi học đến gần, sự tra tấn này càng trở nên khắc nghiệt hơn, và tới giờ bác đưa tôi đi ngủ, tôi đã kịp nước mắt ngắn nước mắt dài. Không lâu sau, ngược với mong muốn của tôi, người nhà mua về nào là cặp sách, hộp đựng bút bằng bìa cứng, một cây bút lông lớn dùng để viết, và mọi thứ cần thiết khác. Hai chị tôi nói rằng họ cảm thấy ghen tị bởi vì đồ dùng của tôi tốt hơn so với họ, nhưng tôi thậm chí còn không muốn nhìn đến chúng. Tôi chỉ muốn Chó Thần và Bò Đỏ thôi. Và nếu có thể được chơi với O-Kuni-san khi đi ra ngoài, còn lúc ở nhà thì chơi Hạt Nào với bác, thì thực tôi chẳng còn mong muốn gì hơn. Tôi thắc mắc, vì sao họ lại cứ nhất định phải ép tôi đến trường trong khi tôi không hề muốn chứ.
Với tuổi đời non nớt của mình, tôi không thể lý giải được cho chuyện này. Một hôm, tôi tâm sự với O-Kuni-san về hoàn cảnh của mình.
“Ngày nào tớ cũng bị mắng,” cô bé nói.
Vậy là người bạn thân của tôi cũng không thích đi học và cũng phải chịu đựng số phận hẩm hiu giống tôi. Cả hai ngồi lên gốc cây mận damson để an ủi lẫn nhau, thổ lộ cho nhau nghe những nỗi uất ức của mình.
“Tớ sẽ không bao giờ đến trường,” cô bé nói khi chúng tôi chia tay. “Hứa với tớ cậu cũng không đi.”
Tôi mừng rỡ đưa ra một lời cam kết chắc nịch.
33Cuối cùng ngày ấy cũng đến, nhưng ngay từ buổi sáng tôi đã nằng nặc mà rằng, “O-Kuni-san đi thì con mới đi,” và bằng cách nào đó ngày ấy cũng trôi qua.
Tối hôm ấy, tôi bị lôi ra khỏi phòng ngủ, nơi trú ẩn an toàn của tôi, để tới phòng ăn, nơi nghị sự của gia đình. Ở đó mọi người dọa nạt tôi, dỗ dành tôi, nhưng tôi vẫn kiên quyết giữ vững trận địa của mình. Tuy nhiên, có lúc anh trai tôi đột ngột túm lấy cổ áo tôi mà quẳng tôi thật mạnh lên sàn nhà bằng một mánh lới kỳ lạ nào đó, rồi vả liên tiếp vào má tôi.
“Con làm gì thằng bé yếu ớt này vậy!” bác tôi hét lên rồi chạy ra lấy thân mình che cho tôi. “Bác sẽ nói chuyện với nó,” bác nói, rồi đưa tôi trốn vào trong phòng ngủ. Chẳng là anh tôi đang học môn võ ju-đô ở trường cao trung[1].
Ngày hôm sau, hai má tôi sưng vù, tôi thậm chí còn không ra ngoài ăn cơm mà cứ ở trong phòng ngủ. Vì lo lắng, bác tôi lén lấy đồ thắp hương Đức Phật cho tôi ăn. Sau đó tôi bị sốt cao. Ngay cả trong những hoàn cảnh bình thường, tôi vốn cũng đã rất nhạy cảm, vì thế khi bị sốt tôi hầu như không ngủ được cả đêm. Bác tôi cũng không chợp mắt để thức chăm sóc cho tôi, miệng không ngừng cầu nguyện.
Đợt ốm này kéo dài khoảng 4-5 ngày, và trong lúc tôi còn phải nằm trên giường, không ai nhắc một lời về chuyện đi học. Nhưng ngay buổi tối đầu tiên sau khi tôi hết đau đầu và cơn sốt cũng đã lui, họ lại tiếp tục màn tra tấn của mình. Nhưng có chăng, sự kiên quyết của tôi chỉ càng thêm mạnh mẽ hơn mà thôi, và tôi nhắc đi nhắc lại rằng O-Kuni-san đi thì tôi mới đi. Lần này, không hiểu vì lý do gì mà họ không thử thách tôi nữa, chỉ đơn giản hỏi lại, “Con có chắc là con sẽ đi học nếu O-Kuni-san cũng đi không?”
Tôi cam đoan, “Con chắc chắn.”
Ngày hôm sau, vào tầm tan học, bác tôi cõng tôi với khuôn mặt xanh xao ra đứng ngoài cổng nhà. Trường học chỉ cách nhà tôi chừng 140 mét. Không lâu sau khi tiếng chuông báo hết giờ leng keng vang lên, từng toán trẻ con ùa ra để về nhà. Trước sự ngạc nhiên của tôi, O-Kuni-san cũng từ trường bước ra trong tinh thần vô cùng phấn chấn, trên tay cô bé cũng cầm những thứ như mọi đứa trẻ khác. Và bởi vì bác tôi lên tiếng khen ngợi, “Cháu giỏi quá, cháu giỏi quá,” nên cô bé khoe khoang với chúng tôi về tất cả mọi thứ ở trường học. Ngồi trên lưng bác, tôi rút ra kết luận rằng người bạn của tôi thật tồi tệ. Tối hôm đó, tôi không còn sự lựa chọn nào khác ngoài việc chấp nhận đi học.
Sáng hôm sau, trong chiếc áo haori và chiếc quần mặc vào những dịp trang trọng, tôi theo bố bước qua cánh cổng nhà trường. Tôi được đưa vào phòng giáo viên, ở đó có những chiếc tủ gắn cửa kính, bên trong đựng các quả địa cầu, các loài chim và cá, những cuộn tranh vẽ những loài vật xa lạ, cùng rất nhiều thứ khác thu hút sự chú ý của tôi. (Sau này tôi sẽ học tên của chúng.) Trong lúc bố tôi trình bày tỉ mỉ về việc trí não tôi phát triển kém ra sao, rằng tôi yếu ớt và nhút nhát thế nào, tôi không khỏi cảm thấy xấu hổ. Giáo viên vừa lắng nghe bố tôi nói vừa thô lỗ liếc sang tôi, thi thoảng lại gật đầu. Một lúc lâu sau, thầy hỏi tôi với giọng nhẹ nhàng:
“Con mấy tuổi rồi?”
“Tên con là gì?”
“Bố con tên gì?”
“Nhà con ở đâu?”
Bởi vì tôi đã được dạy cách trả lời cho tất cả những câu hỏi như thế này từ lâu rồi và thầy giáo cũng dịu dàng ngoài sự tưởng tượng của tôi, nên tôi trả lời trôi chảy không một chút vấp váp. Có lẽ vì nghe bố tôi nói rằng trí não của tôi không được tốt, nên thầy giáo nghĩ tôi là kẻ đần. Thầy hỏi thêm vài câu nữa như để chắc chắn về tình hình này và sau đó cho phép tôi vào học; thầy nói, “Tôi nghĩ rằng thằng bé sẽ xoay sở được.”
Ngày hôm ấy tôi về nhà mà không làm bất cứ việc gì khác ngoài việc nghe các chị hướng dẫn cách cư xử ở trường học, cách cúi chào ra làm sao, cách khóa cặp, và những chuyện tương tự. Và ngày tiếp theo, tôi đội lên đầu chiếc mũ lưỡi trai gắn huy hiệu hoa anh đào[2], khoác lên vai chiếc cặp mà tôi chưa từng đeo, và được bác cầm tay dắt đi đến trường, trong lòng là sự hoang mang khó nói thành lời. Tôi xấu hổ luống cuống đến nỗi mọi người không thể không chú ý đến vẻ mặt xa lạ của tôi, và nỗi lo lắng về cuộc sống học đường vẫn còn là điều bí ẩn dằn vặt tôi đến nỗi tôi chỉ biết khép nép đi bên cạnh bác, hai mắt dán chặt xuống ngón chân. Tới trường học, các chị gái tôi dẫn tôi vào lớp và cho tôi ngồi ở hàng trước.
Lớp tôi học là Lớp 1C, nơi tập trung của những học sinh yếu về thể chất và chậm phát triển về trí tuệ.
[1] Kötö chügakkö: Một trường dự bị cho trường đại học hoàng gia. Tuy nhiên, không lâu sau thời gian này, vào năm 1894, nó được đổi thành kütü gakkü, nghĩa là “trường trung học.”
[2] Huy hiệu màu vàng hình hoa anh đào trên mũ học sinh là một thông lệ.
34Những học sinh ghi danh trước tôi đã quen với trường học và bởi vì không có ai yếu ớt như tôi nên chúng thoải mái chơi đùa, la hét. Không lâu sau, tiếng chuông quen thuộc leng keng vang lên. Vì nghe ở khoảng cách gần, nên âm thanh kim loại như xuyên thấu vào tận trong não tôi khiến tôi cực kỳ khó chịu. Các chị tôi rời đi sau khi để lại lời cam đoan rằng vào giờ ra chơi họ sẽ lại đến, bác tôi cũng đi nhưng hứa rằng bác sẽ ở bên ngoài lớp học cho đến khi xong tất cả các tiết học. Vậy là, bị bỏ lại một mình, tôi sợ hãi nhìn quanh và thấy những đứa trẻ khác với dáng vẻ khỏe mạnh nhưng xấu tính đang nhìn tôi một cách lỗ mãng. Tôi co rúm người lại và nhìn chằm chằm vào hốc mắt gỗ trên bàn cho tới khi thầy Furusawa đến. Do những vết rỗ trên mặt mà trông thầy có vẻ dữ tợn, nhưng thầy nổi tiếng là người nhẹ nhàng và được tất cả học sinh trong trường quý mến.
Sách giáo khoa khác với những cuốn sách có tranh minh họa như Chó Bắc Kinh, Chó Sủa Gâu Gâu, Mèo Kêu Meo Meo, Tiếng Lợn Kêu mà bác tôi đã dạy tôi học, hay những cuốn sách minh họa về Chó, Đũa, Sách, Bàn Học, nhưng dù sao cũng dễ hiểu. Vì thế tôi không cần nhìn nhiều vào sách giáo khoa mà chăm chú quan sát mái tóc muối tiêu thưa thớt bay phất phơ trong gió của thầy Furusawa.
Không lâu sau tiết học kết thúc. Những đứa trẻ hiếu động từ các lớp học ùa ra như ong vỡ tổ, và dưới những giàn hoa tử đằng che kín toàn bộ sân chơi, từng nhóm từng nhóm chơi đùa, nào là nhảy ếch, đuổi bắt, nào là đánh trận giả. Đối với tôi, một người chưa từng biết đến bất kỳ thế giới nào khác ngoài thế giới nho nhỏ của O-Kuni-san, thì tất cả khung cảnh này quả thực chóng mặt không chịu nổi. Vậy là tôi đứng đó ráo rác nhìn ngó chỗ này chỗ kia như một con chim non đang lo sợ, rồi bạn bè của các chị tôi kéo đến như muốn nói, “Ra đây là cậu em trai mà chúng tớ được nghe kể suốt đây!” và họ nhanh chóng vây quanh tôi. Và sau khi tuôn ra một tràng những lời khen ngợi lấy lòng tôi, họ bắt đầu đặt cho tôi hàng loạt những câu hỏi quen thuộc: tôi bao nhiêu tuổi, tên tôi là gì... Là một kẻ nhút nhát đáng thương, tôi sợ sệt như một chú lừa đang bị đám báo cái công kích và chỉ có thể gật hay lắc đầu, thậm chí còn không dám ngẩng mặt lên.
Thật không may, vào lúc đó một giáo viên xuất hiện, đột ngột giật lấy cặp sách của tôi rồi nhấc bổng tôi lên cao cùng với một tiếng hét. Những giọt nước mắt mà tôi gắng gượng kìm nén suốt cả buổi sáng bỗng trào ra như thác, tôi vừa yếu ớt đá chân vừa òa lên khóc, khiến thầy giáo bị dọa sợ.
“Ôi trời ơi! Thầy rất xin lỗi!” thầy giáo nói rồi đặt tôi xuống, sau đó lấy khăn tay lau nước mắt cho tôi. Về sau tôi được biết rằng đó là giáo viên của chị tôi, và thầy làm thế vì muốn tôi vui. Mọi người dặn tôi lần sau nếu thầy làm như thế, tôi không được khóc. Rốt cuộc tôi cũng nắm được trọng điểm và hạ quyết tâm lần sau sẽ không khóc nữa, nhưng có vẻ như một lần là quá đủ với thầy giáo rồi. Thầy không bao giờ dám bế tôi lên nữa.
Sự hỗn loạn trong tiết tập viết sau đó thật khác thường. Chỗ này một đứa bé làm đổ lọ mực và khóc toáng lên. Chỗ kia một đứa chỉ vẽ bánh bao vào vở nên bị thầy mắng. Thầy Furusawa đi đi lại lại giữa đám trẻ, giải quyết từng vấn đề như thể thầy không biết từ “vấn đề” có nghĩa là gì, và chỉ dạy cho từng học sinh, thi thoảng thầy lại duỗi người để xoa xoa lưng. Khi bàn tay dính đầy bụi phấn trắng của thầy nắm lấy bàn tay đang cầm bút của tôi, cả người tôi cứng lại và đầu bút run lẩy bẩy đến nỗi thầy phải cùng tôi ôn đi ôn lại i-ro-ha[1].
Ngày hôm ấy, những sự kích thích dữ dội và những nhiệm vụ hoàn toàn xa lạ đã khiến tôi đau đầu và buồn nôn, vì thế khi buổi học kết thúc tôi về nhà. Bác tôi lấy nước để tôi uống cho dịu lại cơn đau đầu.
“Cháu làm tốt lắm! Cháu làm tốt lắm!” bác nhắc đi nhắc lại và lấy ra đưa tôi thanh quế đựng trong ngăn kéo ở chiếc gối gỗ của tôi, còn chị tôi làm cho tôi một túi bùa hộ mạng bằng vòng hạt Nam Kinh làm phần thưởng. Chẳng mấy chốc cơn đau đầu đã biến mất. Những người khác trong gia đình cũng không ngớt lời khen ngợi tôi, “Làm tốt lắm! Làm tốt lắm!”
Khi đến giờ tan học, tôi sang nhà O-Kuni-san để chơi với cô bé. Mọi người ở đó cũng khen tôi, “Cháu làm tốt lắm!” Thế là tôi nghĩ mình đã làm tốt thật và cảm thấy hết sức tự hào về bản thân.
[1] Ký hiệu âm tiết trong tiếng Nhật, tương đương với A, B, C.
35Sau vài ngày tôi đã có thể tự ở lại trường một mình, dù rằng bác tôi vẫn phải đưa đón tôi. Hằng ngày, bác lấy những chiếc bánh mà tôi thích ăn bỏ vào chiếc hộp vỏ sò rồi dùng những mảnh giấy đỏ dán lại và đặc vào ngăn kéo ở ban thờ, sau đó ngay khi tôi đi học về và đặt cặp sách xuống, bác sẽ lấy ra cho tôi ăn. Vì không thể dễ dàng quyết định được nên lấy cái bánh nào, nên tôi thường chọn ra một vài chiếc.
Không lâu sau, tôi được chuyển sang Lớp A. Các học sinh vây quanh lấy người mới được chuyển từ Lớp C sang và thì thào với nhau, có vẻ như chúng đang đánh giá tôi. Rồi một đứa trông thấy những chữ cái tiếng Đức mà anh tôi đã viết lên cặp tôi và nó tiến lại gần.
“Xem này, trên cặp của nó có chữ tiếng Anh đấy.”
Những đứa khác cũng tiến lại, trầm trồ, thò hẳn mặt vào gần mặt tôi. Khi một đứa hỏi tôi ý nghĩa của những từ được viết trên cặp, tôi nói đó là tên tôi (lúc ở nhà anh tôi đã cho tôi biết như vậy). Thế là cả bọn nhìn tôi đầy ghen tị.
“Quỷ tha ma bắt!” một đứa thốt lên. “Nó là người Nhật Bản mà, đúng không? Thế nhưng nó lại có tên nước ngoài kia đấy!”
Rồi một đứa khác trông thấy chiếc túi bùa hộ mạng gắn quả chuông nhỏ của tôi và bắt đầu mân mê nó bằng bàn tay cáu bẩn. Tuy không thích nhưng tôi sợ và không dám ngăn nó lại. Chiếc túi được đan bằng các vòng hạt Nam Kinh màu xanh nước biển và màu trắng tạo nên họa tiết ô vuông, và trên chiếc chuông có khắc nổi hình con thanh trùng. Ở đầu kia của sợi dây màu tía có gắn một quả bầu bằng thủy tinh. Cậu mang chuông đi làm quái gì thế? Đứa bé sờ chiếc túi của tôi hỏi. Tôi nói đó là để bác tôi nghe thấy và đến đón tôi khi tôi đi lạc. Nghe xong câu trả lời này, đám trẻ nhìn nhau, trên mặt lộ rõ vẻ khinh miệt. Chẳng mấy chốc, chiếc túi bị chúng giày vò đến không chịu nối; những sợi chỉ yếu ớt gắn các hạt lại với nhau bị đứt, và các hạt rơi tán loạn xuống nền nhà. Tôi bắt đầu sụt sùi. Lũ trẻ lập tức đứng lùi lại, trông như thể chúng vừa làm điều gì đó khủng khiếp.
“Không phải tớ! Một con quạ ba tuổi đã làm!” chúng vừa đồng thanh hô lên từ khoảng xa vừa đứng nhìn tôi lo lắng. Tôi luống cuống không biết phải làm gì, và vì không có ai tới giải cứu mình, nên tôi dù muốn cũng không thể khóc được. Tôi chỉ biết đứng nhìn chằm chằm vào đám hạt đang rơi vãi và sụt sịt khóc, nhưng thật may mắn, chị tôi đã đến. Ngay lập tức, cảm giác thống khổ ập đến và tôi khóc òa lên. Lũ trẻ sợ chị tôi mắng bọn chúng nên vội vàng chạy ra khỏi lớp, vừa chạy vừa hô, “Đồ khóc nhè! Đồ ăn vạ! Hãy nhấc nó lên và ném nó đi thật xa!”
Chị tôi an ủi tôi bằng cách hứa sẽ làm cho tôi một cái túi khác. Vốn được chiều thành hư, tôi đòi về nhà ngay lập tức. Cuối cùng chị cũng dỗ được tôi và giúp tôi lau nước mắt, hỉ nước mũi, đúng lúc đó tiếng chuông báo giờ học vang lên. Chị tôi rời đi, và trước khi đi có hứa rằng vào giờ ra chơi chị sẽ lại đến. Lũ trẻ xấu xa đứng bên ngoài lớp học lén lút quan sát toàn bộ cảnh tượng vừa rồi cũng lục tục vào lớp.
“Vừa nãy khóc lóc sụt sùi! Giờ thì cười như quạ!” chúng nhảy vòng quanh tôi và hát.
Giáo viên phụ trách lớp mới là một thầy để râu tên là Mizoguchi. Giống thầy Furukawa, thầy Mizoguchi cũng là người được sinh ra để chăm sóc cho trẻ nhỏ. Thấy tôi có vẻ khép mình, thầy đối xử đặc biệt tốt với tôi.
Ngồi chung bàn với tôi là Iwahashi, con trai của một người bán ngói. Cậu ta nổi tiếng là kẻ hay bắt nạt. Cậu ta lấy bút chì kẻ một đường thẳng ở giữa bàn, và nếu khuỷu tay tôi xâm phạm vào lãnh thổ của cậu ta, cậu ta sẽ không ngần ngại mà dùng khuỷu tay huých tôi một cú thật mạnh hoặc xì nước mũi vào người tôi. Một lần trong giờ học, cậu ta nói chuyện với tôi, và mặc dù không thích tiếp chuyện, tôi vẫn hờ hững đáp lời. Nhìn thấy cảnh này, thầy Mizoguchi viết họ của chúng tôi lên bảng bên cạnh nhau và bên trên vẽ hai vòng tròn màu đen thật to. Thấy thế, lwahashi rướn người về phía chiếc bảng con của mình và khóc. Chỉ có tôi không biết chuyện này có nghĩa là gì nên vẫn nhìn thầy giáo với vẻ khó hiểu.
Khi tiết học kết thúc và chị gái tôi đến, chị vừa cười vừa nói hẳn là tôi đã nói chuyện riêng trong giờ. Tôi băn khoăn không hiểu ai đã nói với chị như thế, nhưng linh tính mách bảo rằng hình như tôi đã làm sai điều gì đó, và tôi trả lời rằng tôi không nói chuyện riêng. Chị nói tôi không cần phải giấu diếm, bởi vì tên của tôi đã bị viết cùng với vòng tròn to đùng trên bảng kia kìa. Khi biết rằng thầy giáo vẽ vòng tròn như thế khi học sinh làm sai, đột nhiên tôi cảm thấy rất buồn bã.
36Sách vở của Iwahashi chằng chịt những vết chì đỏ. Trong một bức vẽ minh họa trên đó, có cảnh một người cảnh sát đang chạy ra từ một ngôi nhà đang cháy, tay dắt một đứa trẻ đi lạc, ánh đèn từ mọi hướng chiếu ngang dọc trên đầu đứa trẻ, còn tròng mắt của vị cảnh sát lối ra như sắp nổ tung. Một lần, cậu ta vẽ hình cậu bé một mắt và cậu bé ba mắt vào bảng con của mình rồi chìa ra cho tôi xem:
“Nhìn này! Nhìn này!”
Vẫn nhớ vòng tròn màu đen dạo nọ, tôi phớt lờ cậu ta. Thái độ này khiến cậu ta nắm chặt tay thành nắm đấm dưới bàn để tôi trông thấy và liếc xéo tôi. Ngay khi tiết học kết thúc và giáo viên ra khỏi lớp, cậu ta hà hơi thổi vào nắm tay và tiến về phía tôi, vì thế tôi chạy ra ngoài hành lang và tìm một chỗ mà cậu ta khó có thể tìm thấy. Một cậu bạn cùng lớp nhưng lớn tuổi hơn với khuôn mặt đỏ và vẻ ngoài nhếch nhác bẩn thỉu đi ngang qua.
“Tớ sẽ cho cậu cái này hay lắm.” Trên tay cậu ta đang cầm thứ gì đó và cậu ta bảo tôi chìa tay ra. Mặc dù sợ sẽ bị mắc lừa, nhưng tôi cũng sợ cậu ta, nên tôi ngoan ngoãn chìa tay ra. Cậu ta thả vài quả mọng màu đỏ vào tay tôi. Thực lòng tôi không muốn có bất kỳ thứ gì như vậy, nhưng vui mừng vì có người đối xử tốt với mình, tôi mỉm cười.
“Cảm ơn cậu.”
Phải 5-6 năm sau, tôi mới biết rằng đó là quả của cây ngũ vị tử[1] mọc ở sau trường. Vì có khuôn mặt đỏ, nên cậu ta được đặt cho biệt danh là Người hầu Mặt khỉ; ngoài ra, bởi vì tên của cậu ta là Chöhei, nên cậu ta còn được gọi là Choppei. Cậu ta là con trai của người bán cá ở phía trước Denpö-in[2].
Sau chuyện này Choppei trở thành người bạn duy nhất của tôi, và mặc dù nếu có thể thì tôi thậm chí không chủ động nói chuyện với cậu ta, nhưng hẳn cậu ta thấy ở tôi có điều gì đó nên vẫn thường xuyên bắt chuyện với tôi. Một hôm, cậu ta bảo tôi:
“Vào giờ học, chúng ta hãy xin ra ngoài đi vệ sinh cùng nhau.”
“Tớ không muốn đâu. Thầy giáo sẽ mắng chết,” tôi nói. Thế là cậu ta vừa hát vừa làm ra vẻ mặt đáng sợ.
Nếu bạn không muốn,
Thì đừng cố thử,
Ai trong bụi sậy kia!
“Tớ đi, tớ đi.” Tôi vội vàng nói. Cậu ta lập tức khôi phục tinh thần vui vẻ và nói, “Nếu cậu làm theo tớ thì sẽ không sao cả đâu.”
Không lâu sau khi tiết học bắt đầu, cậu ta giơ tay lên. “Thưa thầy Mizoguchi, em xin phép ra ngoài đi vệ sinh ạ!”
“Trò có thực sự cần phải đi không? Nếu trò dám nói dối, thầy sẽ phát hiện ra sớm thôi,” thầy giáo nói. Nhưng lời đe dọa này không làm Choppei nao núng. “Vâng, em mót lắm rồi ạ.”
Thầy Mizoguchi buộc phải quan tâm đến học sinh đang cần đi vệ sinh, vì thế thầy nói, “Thôi được rồi, trò đi đi. Nhớ là xong việc phải quay về lớp ngay. Nếu trò dám la cà dọc đường, tôi sẽ cho một vòng tròn đen.”
Vài cánh tay nữa lục tục giơ lên, xin phép được đi vệ sinh thành một nhóm. Khi chuẩn bị rời đi cùng bọn chúng, Choppei liếc mắt nhìn tôi thật nhanh. Tôi giật mình, sợ sệt giơ tay lên và bắt chước lời của những đứa vừa nãy, “Thưa thầy Mizoguchi, em xin phép ra ngoài đi vệ sinh ạ!”
Thầy Mizoguchi không biết kẻ xúi bẩy là Choppei nên đồng ý ngay tắp lự.
Nhà vệ sinh ở cách các lớp học khá xa, ngay dưới một bụi trúc sasa[3] thuộc về ngôi đền thờ Thần Bát Phiên ở bên cạnh. Choppei đang chờ tôi ở đó.
“Chúng ta vật nhau đi,” cậu ta rủ.
Tôi nhìn xung quanh. Những đứa trẻ khác đã trèo qua rào chắn của lối đi và đang nhổ cỏ ngọt mọc ở bờ đê hoặc lấy đất mềm vo thành viên rồi ném nhau. Đối với chúng, đi vệ sinh là lời biện hộ để được ra chơi. Choppei giục tôi: “Nào, đi nào.”
Mà tôi thì vốn cho đến tận lúc đó mới chỉ biết chơi trò đánh trận giả giữa Shiöten và Kiyomasa với đối thủ là bác tôi, nên tôi không biết phải làm gì cả, nhưng rút lui bây giờ đã muộn rồi.
“Nguy hiểm lắm đấy. Xin cậu hãy nhẹ tay thôi,” tôi khốn khổ nói rồi chẳng nghĩ ngợi gì mà túm lấy Choppei. Vốn khỏe mạnh, Choppei lôi tôi xoay tròn mấy vòng, vừa lôi vừa hét, “Đấu đi! Đấu đi!”
Thật tồi tệ, việc này quả là quá sức chịu đựng của ngài Kiyomasa tiếng tăm lừng lẫy; ngài vấp chân vào gấu quần hakama của chính mình rồi ngã chồm hổm.
“Cậu yếu quá đấy. Lần sau chúng ta sẽ chơi nữa,” Choppei khinh bỉ nói, và dợm bước quay trở về. Tôi chỉnh lại chiếc áo kimono nhăn nhúm rồi đi theo cậu ta.
Bước vào cửa lớp, cậu ta gập người chào thật nhanh với vẻ mặt ngây thơ.
“Thưa thầy, cho em vào lớp ạ.”
Tôi cúi chào mà không nói gì cả. Những đứa khác cũng lần lượt theo nhau vào. Đứa nhổ cỏ ngọt vì cứ nhai mãi trong miệng nên bị thầy phạt đứng góc lớp. Tệ hơn, đám cỏ ngọt cậu ta giấu trong ngực áo kimono thò ra ngoài và bị trông thấy, khiến thầy giáo lại khiển trách một thôi một hồi. Tôi quyết định không bao giờ đi vệ sinh nữa.
[1] Binan-kazura (Kadsura japonica): Một loài cây bụi ra quả mọng màu đỏ. Loài cây này rất hay được nhắc đến trong văn chương kinh điển của Nhật Bản.
[2] Có lẽ đây là tên của một ngôi chùa hoặc một ngôi miếu nào đồ.
[3] Sasa (Sasa nipponica): Một chi thuộc họ tre, nhưng trúc sasa là loài cây mọc thấp với nhiều lá.
37Trong số các môn học, môn được đám học sinh thích nhất là đạo đức. Bởi vì thầy giáo thường treo một cuộn tranh gồm nhiều hình ảnh minh họa tuyệt đẹp lên tường và kể cho chúng tôi nghe nhiều câu chuyện thú vị. Một bức tranh vẽ cảnh một con gấu mẹ bị bắn vào đầu và chết trong tư thế vẫn đang nâng một tảng đá lên để gấu con tiếp tục tìm kiếm cua bên dưới tảng đá để ăn; một bức tranh khác vẽ cảnh một vị tướng đang chống cằm trên tay và quan sát một con nhện đang giăng tơ. Bị hấp dẫn bởi những bức tranh đẹp cùng những câu chuyện hay, đám học sinh bao giờ cũng đòi thấy kể thật nhiều. Thầy Mizoguchi mở cuộn tranh ra để lộ lần lượt từng bức tranh và nói:
“Chỉ cần các trò ngoan ngoãn, thầy kể bao nhiêu truyện cũng được.”
Thường thì rốt cuộc thầy sẽ kể về toàn bộ cuộn tranh. Tuy nhiên, có một điều kỳ lạ là bao giờ thầy cũng bỏ qua bức tranh ở đầu tiên, trong đó vẽ cảnh một phụ nữ người nước ngoài bị ngã trên tuyết, trên tay còn đang ôm một đứa bé. Đám học sinh mặc dù trông thấy nó nhưng cũng không hề lên tiếng hỏi về câu chuyện này. Nhưng tôi lại đặc biệt bị thu hút bởi nó, nên lần nào tôi cũng thắc thỏm chờ thầy kể, chỉ là tôi chờ mãi mà vẫn không thấy gì.
Khi chuông báo hết giờ vang lên, đám học sinh ồn ào vây lấy chiếc ghế nơi thầy đang ngồi, một đứa trèo lên đùi thầy, đứa khác bám lấy vai thầy, và cứ thế chúng hét lên, “Thầy ơi kể lại cho tụi em nghe câu chuyện đó đi! Kể lại cho tụi em nghe câu chuyện đó đi!” và buộc thầy phải kể đi kể lại những câu chuyện ấy. Vì không bạo dạn được như chúng, nên tôi chỉ lặng lẽ đứng cách xa chỗ đó một chút, mơ hồ nhìn vào những bức tranh. Nhưng một lần, thầy Mizoguchi quay sang phía tôi và hỏi, “Naka-san, thầy cũng kể cho em nghe một câu chuyện nhé? Em thích truyện nào?”
Thấy tôi chỉ biết đỏ bừng mặt, thầy giục, “Em phải nói cho thầy biết chứ.”
Tôi cảm thấy như cuộc đời mình sắp chấm dứt vậy, cuối cùng tôi mở miệng lầm bầm, “Truyện này ạ,” rồi chỉ tay vào bức tranh vẫn luôn thu hút sự chú ý của tôi. Dường như câu trả lời này không làm cho ai hài lòng cả, bởi vì tất cả đều lắc đầu, “Truyện đó có gì hay đâu.”
“Truyện đó không thú vị đâu,” thầy Mizoguchi nói, và hỏi thêm, “Như thế có được không?” Tôi im lặng gật đầu.
Thầy Mizoguchi chợt nhận ra là tôi chưa biết câu chuyện này. Vì thế, thầy thuyết phục các học sinh khác đang phàn nàn và kể cho tôi nghe. Câu truyện kể về một người mẹ đi lạc trong tuyết, cô ấy liên tục cởi quần áo của mình để mặc cho con cho đến khi bản thân mình chết cóng. Bức tranh không có nhiều màu sắc nên không hấp dẫn được lũ trẻ, và câu chuyện cũng chỉ có vậy, nên lũ trẻ không cảm thấy hào hứng, đây cũng là lý do vì sao thầy Mizoguchi bỏ qua nó. Nhưng đối với tôi, câu chuyện đó còn hơn cả thú vị. Tôi lắng nghe với niềm thương cảm hệt như khi bác tôi kể cho tôi nghe câu chuyện về nàng Tokiwa[1].
Kể xong truyện, thầy Mizoguchi hỏi, “Không có gì thủ vị, đúng không nào?” Tôi thành thật gật đầu. Thầy giáo sửng sốt, còn dám học sinh khúc khích cười với vẻ khinh bỉ.
[1] Tokiwa Gozen (1138-1190?): Vợ lẽ của tướng quân Minamoto no Yoshitomo (1123-1160). Sau khi Yoshitomo bị đánh bại trong cuộc nổi loạn Heiji Disturbance vào năm 1160 và bị giết, người chiến thắng là Taira no Kiyomori (1118-1181) ra lệnh bắt và giết ba người con trai của Tokiwa. Hay tin, Tokiwa đem theo ba người con bỏ trốn khỏi Kyoto. Khi đó là tháng Hai, trời rất lạnh và đổ tuyết không ngừng. Tokiva cởi áo ra cho các con mặc và luôn đứng ở đầu gió để che chắn cho các con.
38Vào khoảng thời gian đó, tôi thường có mong muốn trốn tránh ánh mắt của mọi người và tìm một chỗ trốn để được ở một mình, có thể là dưới gầm bàn, trong tủ quần áo, ở bất kỳ đâu có thể. Trong lúc giấu mình vào những nơi như thế và ngẫm nghĩ về nhiều chuyện, tôi thường cảm nhận được một sự bình yên và thỏa mãn không thể mô tả. Nơi trú ẩn mà tôi thích nhất là không gian bên cạnh chiếc tủ ngăn kéo. Nó nằm trong căn phòng tối tăm nhất trong nhà, chỉ lấy được chút ánh sáng từ ô cửa sổ hướng bắc day mặt về phía nhà kho. Khoảng trống từ chỗ ô cửa sổ đó và chiếc tủ kia vừa đủ để tôi len vào, thu hai đầu gối lên. Tôi ngồi xổm ở đó nhìn ra những vết nứt chói chang nắng trên khung cửa sổ, ngay bên cạnh đó là một cây thanh tùng, cây ngũ vị tử quấn lấy một cái cây chết, những cái dây leo màu đỏ của nó và lũ rệp hút nhựa của cái cây kia.
Tôi thường ở đó nửa ngày, thậm chí cả ngày, tự lẩm bẩm một mình, rồi từ lúc nào không hay tôi bắt đầu có thói quen lấy bút chì viết chữ hiragana[1] đại diện cho âm wo lên một cạnh của chiếc tủ; cuối cùng vô số chữ wo lớn nhỏ tạo thành những dòng chữ. Thấy tôi thường xuyên chui vào góc đó, bố tôi thử vào xem và chẳng mấy chốc đã phát hiện ra những hàng chữ kia. Nhưng ông chỉ nghĩ đó là những nét vẽ nguệch ngoạc tiêu khiển và không mắng tôi nhiều, chỉ nói rằng nếu muốn tập viết, tôi phải viết vào vở. Nhưng chao ôi, chúng không phải là những nét vẽ nguệch ngoạc. Không hiểu vì sao nhưng tôi thấy chữ wo trong bảng chữ cái hiragana trông giống một người phụ nữ đang ngồi. Với trái tim nhỏ bé của tôi, với cơ thể yếu đuối của tôi, hễ khi nào có chuyện gì xảy ra, tôi lại tìm sự an ủi ở ký tự đó, những ký tự này phán đoán tâm tư của tôi rất chính xác và an ủi tôi bằng sự tử tế của chúng.
Ngay cả sau khi chuyển đến nơi ở mới, tôi vẫn bị quấy nhiễu bởi những giấc mơ đáng sợ xuất hiện rất thường xuyên, khoảng ba ngày một lần, và sau đó tôi thường chạy lung tung trong nhà vào nửa đêm. Một trong những giấc mơ như vậy là hình ảnh một xoáy lốc màu đen treo lơ lửng giữa không trung, có đường kính khoảng 0,3 mét, và liên tục nở ra rồi co lại như lò xo trong chiếc đồng hồ. Cảnh tượng đó đã đủ đáng sợ rồi, nhưng dù tôi cố gắng trấn an bản thân, thì vẫn có một con sếu khổng lồ ở đâu bay tới và dùng mỏ ngoạm lấy lốc xoáy ấy. Trong một giấc mơ đáng sợ khác, những thứ trông giống như những bộ ruột xô đẩy nhau tạo thành âm thanh như tiếng nước bắn. Sau đó tất cả biến thành khuôn mặt của một người phụ nữ đang há to miệng như kẻ ngốc, rồi đột nhiên đôi mắt mở to và khuôn mặt bị kéo dài xuống. Hoặc khuôn mặt đó không há miệng, chỉ mở rộng sang hai bên, hết nháy mắt rồi nhăn mũi và biến thành một khuôn mặt dẹt kỳ lạ. Nó cứ mở rộng rồi thu hẹp như vậy cho đến khi tôi òa lên khóc.
Mọi người nghi ngờ rằng tôi gặp phải những giấc mơ như vậy là do những câu chuyện mà bác tôi kể. Ngoài ra, cũng có người nêu ý kiến rằng tôi thử ngủ ở phòng khác xem sao, và thế là mọi người quyết định rằng tôi nên ngủ cạnh bố. Thế nhưng những câu chuyện về những chiến tích của những người như Miyamoto Musashi[2] và Yoshitsune[3] cùng với Benkei[4] của ông ta mà bố kể cho tôi nghe hằng đêm cũng không có tác dụng là mấy; những con ma gớm ghiếc kia chẳng coi một người bố là gì và vẫn đến thăm tôi như thường. Ở căn phòng ngủ cũ có một con quỷ nấp trên hốc tường trên trần; ở căn phòng mới chiếc đồng hồ tám cạnh trên cột nhà biến thành cậu bé một mắt và bốn cánh cửa trượt khiến tôi hoảng hồn khi chúng biến thành bốn cái miệng khổng lồ.
[1] Hiragana: Một trong 3 bảng chữ cái ngữ âm cơ bản của tiếng Nhật. Nó đại diện cho mọi âm của tiếng Nhật. (ND)
[2] Một kiếm sĩ nổi tiếng với tài có thể đồng thời sử dụng hai kiếm một lúc. Tác phẩm nổi tiếng nhất của ông là cuốn Ngũ Luân Thư.
[3] Minamoto no Yoshitsune (1159-1189): Một vị tướng đã giúp gia tộc của mình là Miyamoto giành chiến thắng trước gia tộc đối thủ là Taira.
[4] Một vị sư chiến binh huyền thoại rất trung thành với Yoshitsune.
39Theo lời tư vấn của bác sĩ, bố tôi quyết định đưa tôi và mẹ, cả hai chúng tôi đều có thể chất ốm yếu, tới một vùng bờ biển nào đó để cải thiện tình hình sức khỏe. Trên đường đi, tôi vô cùng vui vẻ khi thấy thiên nhiên mở ra trước mắt tôi hệt như mong muốn bấy lâu nay, dù tôi chỉ là một đứa trẻ, bởi vì trước giờ tôi mới chỉ trông thấy những khung cảnh ấy trong các bức tranh trên những tấm thẻ thơ và trong những cuốn vở tập viết có tranh minh họa. Tôi trông thấy biển huyền bí, thứ mà trí tưởng tượng bé nhỏ của tôi không thể nghĩ đến. Biển có màu chàm trong suốt với những chiếc thuyền chạy bên trên, cánh buồm lấp lánh như bạc. Khi chúng tôi đi qua những vách đá dốc đứng, tôi cảm thấy một sự cô đơn tới mức không thể chịu đựng và thương cảm cho những đám cỏ hoang mọc lộn xộn trên đó.
Tại một ngôi đền trông giống như Long Cung[1] dành cho người Trung Quốc, một bà cụ người Hoa đang cầu nguyện; cứ mỗi lời cầu nguyện, bà lại ném một hòn sỏi lên vỉa hè. Một cô bé trông như búp bê với mái tóc rẽ ngôi và bôi sáp thơm bước đi khập khiễng bằng đôi chân đáng yêu, tôi thấy cô bé thật xinh đẹp. Một cửa hàng bán những món đồ lặt vặt làm từ vỏ sò trưng bày chật kín những báu vật từ biển khơi. Bố tôi mua vài chiếc kẹp tóc để mang về làm quà kỷ niệm cho các chị gái tôi và một túi “vỏ ốc biển” cho tôi, nhưng tôi băn khoăn không hiểu vì sao ông không mua tất cả chúng, bởi vì món nào trông cũng rất đẹp. Khi chúng tôi ngồi xe đi qua hàng thông bên bờ biển, những cây thông kéo dài dường như vô tận. Hình ảnh những cây thông xuất hiện trong cuộn tranh treo tường vẽ quang cảnh vùng Takasago mà nhà chúng tôi treo lên vào dịp năm mới, và bởi vì bác tôi thường bảo rằng thông là một loài cây linh thiêng, nên tôi có niềm yêu thích khá mê tín đối với chúng.
Không lâu sau, chúng tôi tới quán trọ. Tôi vừa mới tận hưởng bầu không khí yên ả dọc hàng thông, nhưng ở đây lộn xộn rất nhiều người, nên tôi òa khóc và nói, “Con muốn về nhà.” Lập tức chủ quán trọ và những người giúp việc ùa ra chỗ tôi, gọi tôi là “Thiếu gia”, dụ dỗ tôi để tôi cảm thấy mình là người quen cũ của họ. Vì vậy, tôi bình tĩnh lại và rất nhanh đã thôi khóc. Thời gian còn lại trong ngày hôm đó, trong mùi hương của những cơn gió mặn, tôi mê mẩn ngắm nhìn những con sóng ồn ào vỗ lên những cây thông thấp lùn, quên đi tất cả mọi thứ xung quanh.
Buổi tối, đèn được thắp lên. Cái chụp đèn là một chiếc giỏ tre hình ống dán giấy bên trên, và nó nằm trong một cái hộp trang nhã sơn màu đen. Những con rầy xanh khao khát ánh sáng bay vào và đậu trên đèn. Trông chúng thật dễ thương với thân mình màu xanh lá cây và khoảng trống rộng giữa hai mắt. Nếu lấy ngón tay dí lên chúng, chúng sẽ bò ngang, trốn sang mé khác của giỏ đèn. Những con thanh diệp vũ cũng tìm đến.
Một buổi tối, tôi đang đứng ngoài hiên xem pháo hoa thì một phụ nữ xinh đẹp mang gói kẹo đến.
“Cái này cho cháu,” cô nói.
Tôi thấy bảo đó là một “geisha”, rằng geisha là những người đáng sợ, hay lừa gạt. Cô “geisha” kia tiến đến rất gần tôi và nói, “Cháu bé đáng yêu quá! Cháu mấy tuổi rồi?” Cô đặt hai tay lên vai tôi và nhìn thẳng vào mặt tôi, gò má cô suýt chạm vào gò má tôi. Bị vây giữa hai ống tay áo thơm nồng của cô, tôi thậm chỉ còn không biết trả lời thế nào, hai tai đỏ bừng, tay thì vẫn bám chặt lấy lan can, rồi đột nhiên tôi nhận ra rằng cô đến để lừa gạt tôi. Hoảng sợ, tôi luồn xuống dưới ống tay áo của cô rồi chạy vọt đi tìm mẹ. Tôi kể lại chuyện cho mẹ nghe trong khi trống ngực vẫn đập thình thịch, còn mẹ vừa mỉm cười vừa mắng tôi hành xử lỗ mãng. Sau đó, mỗi lần ngắm pháo hoa, tôi lại tự nhủ với mình rằng lần tới nếu cô geisha ấy hỏi, tôi nhất định phải đáp lời, và nếu cô ấy cho kẹo, tôi phải cảm ơn. Nhưng hẳn là cô ấy phật lòng, bởi vì cũng sau lần đó, cô ấy thậm chí không thèm lại gần tôi nữa. Tôi tiếc nuối vì đã không có cơ hội được nói cho cô ấy biết sự hối hận của mình.
Một hôm, tôi cùng bố đi sâu vào một cụm thông dày đặc. Trong không khí phảng phất mùi thông, và khắp nơi trên mặt đất rơi đầy quả thông. Bố đi chậm rãi, nhưng bởi vì tôi còn mải mê nhặt quả thông, nên thi thoảng tôi lại phải chạy theo để bắt kịp bố. Tôi vừa lộn xộn chạy theo bố vừa trò chuyện thân mật trong đầu với đống quả thông mà tôi nhét đầy trong ngực và ống tay áo, rồi chúng tôi thấy một vọng lâu, ở đó có một ông lão với cặp lông mày trắng như tuyết đang cời lá thông. Tôi mừng húm, cứ tưởng đó là ông lão ở vùng Takasago - tôi thực sự nghĩ như vậy - và tôi phá lệ nói rất nhiều chuyện với bố. Khi quay trở về nhà trọ, bố vừa cười vừa kể với mẹ, “Ngày hôm nay Cậu bé Bạch tuộc nhà ta nói năng không ít đâu nhé.”
[1] Ryügü (jö): Tòa lâu đài dưới biển nơi vua Thủy Tề ở.
40Trở về sau chuyến đi, tôi cảm thấy một nỗi cô đơn tựa như niềm phản bội khi phát hiện ra rằng trong lúc chúng tôi đi vắng, O-Kuni-san và gia đình đã chuyển đến sống ở một nơi xa theo yêu cầu công việc của bố cô bé. Từ đó trở đi, tôi không còn bị những giấc mơ đáng sợ dày vò, hơn nữa, tôi cũng bắt đầu trổ giò. Nhưng trí óc chậm chạp bẩm sinh của tôi cùng thái độ thờ ơ với trường học vẫn không có gì thay đổi. Lý do không chỉ bởi vì cơ thể tôi yếu ớt, mà còn bởi vì cuộc sống học đường với quá nhiều sự phức tạp và quá nhiều sự tổn thương cho một đứa trẻ ngây thơ đã khiến tôi không tài nào yêu thích nó cho nổi. Ngoại trừ một điều may mắn là thầy Nakazawa, người phụ trách lớp tôi khi ấy, là một giáo viên tốt mà tôi vô cùng quý mến, và hơn nữa, chỗ ngồi của tôi ở ngay trước bàn của thầy. Cho dù tôi thường xuyên nghỉ học, thầy cũng không nói gì, và cho dù tôi học kém, nhưng thầy chỉ khúc khích cười.
Dẫu vậy, thầy cũng có một lần mắng tôi, đó là lần tôi đánh nhau với đứa bạn ngồi cùng bàn, Andö Shigeta. Không hiểu vì sao nhưng chúng tôi vô cùng ghét nhau và thường xuyên mâu thuẫn. Một hôm, trong giờ số học, cậu ta một mực bắt tôi phải nhìn vào chiếc bảng con của mình, trên đó cậu ta vừa vẽ một khuôn mặt bị chột một mắt, bên cạnh đó ghi tên của tôi bằng nét chữ nguệch ngoạc. Vì thế tôi vẽ một cái còng lớn bằng gỗ, vẽ thêm mắt và mũi vào đó, ở bên cạnh viết chữ “Mắt tường” và giơ lên cho cậu ta xem. Thế là đột nhiên cậu ta đá vào cẳng chân tôi. Không chấp nhận yếu thế, tôi huých khuỷu tay vào sườn cậu ta. Chúng tôi cứ đấu đá qua lại như thế một lúc thì bị thầy phát hiện; khi hết giờ học, thầy yêu cầu hai đứa ở lại. Thầy hiếm khi trông giận dữ như vậy khi hỏi lý do chúng tôi đánh nhau. Tôi kể lại toàn bộ câu chuyện, không quên nhấn mạnh rằng tôi không phải là kẻ khơi mào, nhưng Shigeta nói dối rằng tôi trêu chọc cậu ta trước, vì thế thầy không cho chúng tôi về nhà, thầy nói, đây là trường hợp “cả hai bên đánh nhau đều xứng đáng bị trừng phạt như nhau.” Những đứa trẻ khác đều vui vẻ cầm đồ đạc bọc trong vải và ra về. Một vài đứa tò mò còn đứng ngoài cửa nhìn vào và cười khúc khích với nhau.
Khi tất cả các học sinh trong trường đều ra về hết, bầu không khí xung quanh trở nên cực kỳ yên tĩnh, mà tôi thì không thích điều này chút nào. Tôi sẽ làm gì đây nếu tình hình cứ thế này và trời tối? Tôi sẽ không được ăn, cũng không được ngủ mất. Khi nào thì bác tôi mới đến đón tôi và xin lỗi thầy? Những ý nghĩ đó cứ quay cuồng trong đầu tôi, và những giọt nước mắt bắt đầu chậm rãi dâng lên trong mắt. Thầy giáo thi thoảng nhìn sang hai đứa chúng tôi, lúc này đang khóc sụt sùi, dù rằng thầy đang giả vờ đọc sách và lén khúc khích cười. Shigeta cứ đưa tay mân mê những sợi dây của chiếc cặp treo trên vai, trên gương mặt không giấu nổi sự nôn nóng muốn về nhà; cuối cùng cậu ta òa khóc và nói, “Thưa thầy, em xin lỗi.”
“Vậy là em đã xin lỗi. Rất tốt. Thầy tha thứ cho em,” thầy Nakazawa nói và cho cậu ta ra về.
Bản thân tôi cũng rất nóng lòng muốn về nhà, nhưng bởi vì cực kỳ phẫn nộ chuyện mình bị bắt ở lại trong khi lỗi không phải ở mình, tôi kiên trì ngăn lại dòng nước mắt cứ chực trào ra. Tuy nhiên, cuối cùng tôi không còn sự lựa chọn nào khác ngoài nức nở. Mà mỗi khi nức nở, tôi lại rì rầm theo thói quen; tôi vừa lấy tay dụi mắt vừa chậm rãi nghĩ về sự đúng sai, công bằng và không công bằng trong chuyện này. Và hễ khi nào tôi xác định rằng mình có lỗi, tôi lại ngừng nức nở ngay lập tức, còn khi không nghĩ như vậy, tôi lại vỡ òa thành tiếng, trong lòng không khỏi cảm thấy cay đắng khi mình bị chèn ép phi lý chỉ bởi vì tôi nhỏ bé và yếu ớt, và nghĩ thầm trong lòng, “Cứ chờ đến khi tôi trả thù tất cả các người.” Cũng có một sự thật nữa là, sau khi đã nức nở nói ra những tâm tư chất chứa trong lòng mình, bạn sẽ cảm thấy con tim mình như được thông khí, và bạn cảm nhận được một cảm giác dễ chịu khôn tả tận sâu trong khí quản của mình.
Trong lúc đó, thầy Nakazawa không biết nói sao với tôi.
“Nếu trò xin lỗi, tôi sẽ cho trò về,” thầy nhắc đi nhắc lại như thế, nhưng tôi không chịu, một hai cho rằng mình không có lỗi. Tuy nhiên, khi chậm rãi lắng nghe những lời thầy nói, cuối cùng tôi cũng hiểu ra rằng, dù cho đó là lỗi của Shigeta khi khơi mào câu chuyện này, nhưng tôi sai vì đã phản ứng với bạn ngay trong giờ học, vì thế tôi cúi gập người trước thầy và nói, “Thưa thầy, em xin lỗi,” và thầy để tôi đi.
Ở nhà, khi nghe chuyện Cậu bé Bạch tuộc nhút nhát của nhà ta vừa đánh nhau, cả gia dình tôi đều cười thật to, như thể đó là một điều kỳ diệu vậy.
41Hình phạt dành cho thái độ lơ là trong học tập rất trực tiếp: khi tới kỳ kiểm tra tôi hầu như không có gì trong đầu cả. Bị bỏ lại bơ vơ trong lớp học khi mà tất cả những người khác đều nhanh chóng hoàn thành bài kiểm tra và rời đi là một cảm giác khó chịu như một con bạch tuộc bị luộc sống vậy, kể cả là trong giấc mơ. Tồi tệ nhất là bài kiểm tra đọc. Cuối cùng tôi cũng bị gọi đến bàn giáo viên. Tôi phải đọc chương có nhan đề là “Bảo vệ lâu đài Ulsan.” Tôi chưa từng trông thấy thứ gì gọi là “Ulsan” trước đây cả. Tôi chỉ im lặng đứng đó, vì thế thầy giáo cũng không nghĩ ra được việc gì hay hơn để làm, thầy bảo tôi đọc, chỉ cho tôi một vài chữ, nhưng tôi chỉ bị hớp hồn bởi hình ảnh minh họa cảnh Katö Kiyomasa bị quân nhà Minh bao vây và hoàn toàn không hiểu gì về cuốn sách này. Hết kiên nhẫn, thầy giáo ném cuốn sách tập đọc xuống trước mặt tôi và nói, “Vậy thì em đọc bất kỳ phần nào có thể đọc đi.”
“Em không biết đọc phần nào cả,” tôi nói thản nhiên như thể không có gì sai cả.
Ngay cả sau khi các bài kiểm tra đã xong xuôi, tôi vẫn ngồi yên một chỗ. Tôi cho rằng bởi vì tôi ngồi ở hàng thứ nhất nên tôi là số một. Tôi chưa từng nghĩ đến khả năng biển tên của mình treo ở cuối cùng, rằng tôi bị gọi cuối danh sách, hay rằng tôi là học sinh kém cỏi nhất. Này nhé, tôi được xếp chỗ ngay bên cạnh giáo viên ưa thích của mình mà còn không bị mắng chút nào - nếu điều này không chứng minh rằng tôi là số một, thì còn điều gì khác nữa chứ? Bên cạnh đó, tôi chưa từng được gọi lên để nhận bằng, và khi tôi về nhà hớn hở khoe rằng mình là số một, tất cả mọi người đều bật cười và nói, Con giỏi lắm! Con giỏi lắm! Vì thế, đối với tôi mà nói, mọi chuyện đang diễn ra rất suôn sẻ.
Vào khoảng thời gian học kỳ này gần kết thúc, một gia đình mới chuyển về làm hàng xóm nhà tôi. Giữa nhà tôi và nhà họ, cách vườn rau ở sân sau nhà tôi, chỉ có một hàng rào tuyết tùng, nên hai nhà có thể tự do qua lại. Khi tôi ra sau nhà để thám thính xem chuyện gì đang diễn ra, thì một cô bé chạc tuổi tôi cũng bước ra chỗ hàng rào, rồi đột ngột cô bé nấp sau hàng rào ấy, hiển nhiên là cô cũng đang đứng ở khoảng trống giữa hai hàng rào tuyết tùng để lén lút thám thính nhà tôi. Lát sau, cô lại đi ra và liếc tôi một cái, vậy là tôi cũng liếc lại một cái, rồi cả hai nhìn đi chỗ khác. Trong lúc chúng tôi đang lặp đi lặp lại trò này, tôi để ý thấy rằng cô bé đó khá gầy gò, trông có vẻ ốm yếu, và không hiểu sao tôi bỗng cảm thấy mến cô bé ấy. Lần tiếp theo khi bốn mắt chạm nhau, trên khuôn mặt của cô bé như phảng phất ý cười. Thế là tôi cũng cười. Như muốn tránh mặt, cô bé ấy xoay người lại bằng một chân. Tôi cũng làm như vậy. Cô ấy nhảy lên. Tôi cũng vậy. Cả hai cùng nhảy lên. Trong lúc nhảy lên như vậy, tôi dần dần dịch chuyển khỏi bóng cây hạnh, còn cô ấy cũng dịch chuyển khỏi chỗ hàng rào, cả hai đã tiến đến gần hơn đủ để có thể nói chuyện. Nhưng ngay lúc ấy có tiếng gọi vang lên, “Con gái, đến giờ ăn rồi.” Cô bé nói, “Vâng,” rồi vội vàng chạy đi.
Tôi tiếc nuối quay vào nhà, vội vàng ăn cho xong bữa, rồi lại đi ra. Cô bé đã ở đó chờ từ lúc nào.
“Chúng mình chơi đi,” cô nói và tiến về phía tôi với vẻ thân thiện. Bởi vì tôi đang chuẩn bị sẵn sàng tinh thần để nhảy vài lần nữa rồi mới bắt quen, nên tình huống bất ngờ này không khỏi khiến tôi lúng túng đến đỏ bừng mặt, nhưng tôi vẫn nói, “Ừ, chơi đi,” và tiến lại gần phía cô bé. Lúc này, cô bé đã không còn xấu hổ nữa mà hỏi tôi rành mạch, “Cậu mấy tuổi rồi?”
“Chín,” tôi đáp.
“Tớ cũng chín,” cô hơi mỉm cười, rồi bổ sung thêm một điều mà có lẽ chỉ người lớn mới nói, “Nhưng bởi vì tớ sinh vào dịp năm mới nên hơi lớn so với tuổi.”
“Tên cậu là gì?” tôi hỏi.
“Kei,” cô bé nói một cách rành mạch.
Sau khi chúng tôi báo tên cho nhau theo thể thức làm quen và trao đổi dăm câu chào hỏi của cuộc gặp gỡ ban đầu, O-Kei-chan nói, “Tớ sắp đi học rồi. Chúng ta hãy đi học cùng trường nhé.”
Khỏi phải nói, tôi rất mừng khi nghe thấy câu ấy. Vì thế tôi vắt óc ra để liệt kê những điểm tốt của trường mình, những câu chuyện về đạo đức tuyệt vời ra sao, thầy giáo lớp tôi dịu dàng như thế nào, cùng vô vàn những điều khác hòng thuyết phục O-Kei-chan tới lớp mình. O-Kei-chan rất sôi nổi và không rụt rè chút nào; cô bé có cặp mắt tròn trong sáng và mái tóc đen mướt. Trên cặp má mềm mại và nhợt nhạt của cô, tôi có thể trông thấy màu rất đẹp của máu. Với tính cách mạnh mẽ và già dặn trước tuổi, tôi cảm thấy rằng cô bé có xu hướng coi mình như nữ hoàng trước tôi, một cậu bé nhút nhát, đầu óc chậm chạp, và non nớt so với tuổi. Nhưng tôi hài lòng với quyết định rằng tôi sẽ khom mình trước tiếng gọi của vị nữ hoàng này, người mới xuất hiện ở đây để cai trị tôi.
42Một hôm, khi trông thấy O-Kei-chan được bà đưa tới trường, trống ngực tôi đập rộn ràng. Kể từ ngày hôm đó, cô bé cầm cuộn vải bọc đồ đến lớp và vì là người mới nên được xếp ngồi ở hàng đầu, ngay bên cạnh tôi. Tôi không thể tập trung vào bài học và thường xuyên đưa mắt liếc sang phía cô. O-Kei-chan thì kiên trì cúi nhìn xuống, trông ngoan ngoãn và khiêm nhường. Vào giờ ra chơi, do vẫn chưa có ai để kết bạn, cô nhìn lơ đãng. Tôi muốn nói chuyện với cô nhưng vẫn ngậm miệng im như hến bởi vì tôi sợ mọi người sẽ cười nhạo mình. Hẳn là cô bé cũng biết tôi đang cảm thấy như thế nào, nhưng cô giả vờ không biết và tỏ ra không quan tâm. Rốt cuộc tôi trải qua các tiết học trong ngày hôm ấy với mở cảm xúc hỗn độn. Trên đường về nhà tôi nghĩ, mình sẽ nói về chuyện này, mình sẽ hỏi cô ấy về chuyện kia. Ngay khi về đến nhà, tôi chạy vội ra sân sau và thấy cô đang một mình chơi với quả bóng.
“O-Kei-chan!” Tôi hô to và chạy nhào về phía cô. Tuy nhiên, O-Kei-chan lại khinh khỉnh nói, “Tớ sẽ không chơi với đồ học dốt trong lớp,” rồi nhanh chóng bỏ vào nhà. Những kỳ vọng vỡ tan, tôi buồn rầu trở về và kể với bác nghe chuyện này.
Tối hôm đó, khi cả nhà tụ tập trong phòng ăn như thường lệ, lần đầu tiên tôi được mọi người nói cho biết - một cách chắc chắn - rằng tôi quả thực đúng là kẻ học dốt trong lớp. Ban đầu tôi bướng bỉnh cho rằng mình là số một. Nhưng khi nghe mọi người thông báo rằng gần đây thầy giáo vừa mới cảnh báo với gia đình rằng mặc dù thầy không muốn đối xử quá đáng với tôi - đứa con thiểu năng của họ - nhưng với tình hình trên lớp của tôi hiện tại, thầy sẽ không thể nào cho tôi lên lớp được, vì vậy thầy hy vọng rằng tôi sẽ chú ý hơn một chút trong những kỳ kiểm tra tiếp theo, tôi đã bật khóc. Đột nhiên tôi cảm nhận được một cách trọn vẹn nỗi xấu hổ của việc là học sinh dốt trong lớp trong suốt thời gian này. Chính vì tin rằng tôi bị thiểu năng nên thầy giáo mới cho phép tôi thích nghỉ bao nhiêu ngày cũng được, và cũng không hề mắng mỏ cho dù tôi học hành chểnh mảng ra sao. Suy cho cùng, tôi bị coi là một kẻ ngốc mà. Ngay cả tôi cũng biết thật xấu hổ khi là học sinh dốt trong lớp. Nhưng sở dĩ tôi không học là bởi vì tôi cứ nghĩ mình là số một bất kể tôi lười biếng đến đâu chăng nữa. Giá mà mọi người nói cho tôi biết mọi chuyện sớm hơn, tôi sẽ ôn bài, tôi sẽ không trốn học. Càng nghĩ, tôi càng hận tất cả mọi người. Những ý nghĩ sôi sục trong đầu tôi, tôi nghĩ đến chuyện nọ lại khóc, nghĩ đến chuyện kia lại nức nở, cứ như vậy cho đến khi bác tôi, lúc này cũng đang khóc vì thương cảm, đưa tôi về phòng và nói, “Con không cần phải khóc, con không cần phải khóc.”
Kể từ đó, tôi được dành riêng một chiếc bàn nhỏ và được yêu cầu phải ôn lại bài học của từng ngày, chuẩn bị cho ngày hôm sau, và thi thoảng tóm tắt lại những gì tôi đã học. Bác tôi phụ trách môn toán, tập viết, và bất kỳ điều gì bác có thể làm cho tôi, còn c