← Quay lại trang sách

PHẦN II - 1 -

1

Thầy Nakazawa của chúng tôi tuy nhẹ nhàng nhưng nóng tính; khi tức giận vì chuyện gì đó, thầy có thể lấy roi vụt vào đầu học trò cho đến khi đất dưới chân bắt đầu rung lên. Tuy vậy, tôi vẫn rất thích thầy và thi thoảng còn bẻ một cành cọ chusan ở vườn nhà mang đến trường cho thầy để thầy đánh đã tay hơn. Mỗi lần tôi làm như vậy, thầy lại cười với vẻ chế giễu.

“Cảm ơn trò rất nhiều. Chiếc roi này mà quất vào đầu là phải biết,” thầy nói rồi giả vờ dùng chiếc roi mới đánh tôi.

Tôi không bao giờ nghe lời thầy mà chỉ làm theo ý thích, vì thế dường như thầy không biết phải làm gì với tôi. Nhưng tôi tự thuyết phục mình rằng thầy có thiện cảm với tôi. Khi học trò hư khiến thầy nổi giận và khuôn mặt thầy biến thành một quả cầu lửa, đám học trò đều co rúm người lại và im thin thít. Nhưng ngay cả trong những tình huống ấy, tôi vẫn hoàn toàn bình thản mà đảo mắt nhìn một lượt cảnh tượng cả lớp với nụ cười trên môi. Thế là một hôm khi thầy hiệu trưởng đi thị sát tới lớp, thầy Nakazawa than phiền với thầy về tôi, nói rằng tôi hoàn toàn không có cảm xúc gì cả. Lúc ấy tôi đang đứng cạnh hai thầy và tỏ ra vui vẻ khi nghe họ nói về mình.

“Trò không sợ thầy giáo à?” thầy hiệu trưởng hỏi.

“Không ạ, không hề,” tôi trả lời.

“Vì sao trò không sợ?”

“Bởi vì con nghĩ suy cho cùng thì thầy giáo con cũng là con người mà.”

Thầy hiệu trưởng và thầy Nakazawa nhìn nhau cười gượng nhưng không nói gì cả. Từ khoảng thời gian ấy tôi đã bắt đầu nhìn thấy một đứa trẻ hài hước bên trong vẻ ngoài nghiêm nghị của người lớn, và vì thế tôi không thể dành cho người lớn sự kính trọng đặc biệt như những đứa trẻ bình thường khác.

Cũng vào khoảng thời gian này, Chiến tranh Nhật-Thanh[1] nổ ra. Tôi bị một trận sởi nặng và phải nghỉ học dài ngày. Khi tôi trở lại trường, giáo viên đã được thay thế từ lúc nào. Tôi nghe kể rằng thầy Nakazawa bị gọi nhập ngũ. Nghe nói trước đây thầy là sĩ quan hải quân nhưng do bị bệnh nên được đưa vào danh sách quân dự bị. Chẳng trách thầy hay nói chuyện về tàu chiến. Tôi rất buồn khi nghĩ đến những lần thầy kể cho chúng tôi nghe những câu chuyện trong Tây Du Ký, đến thói quen liếm ngòi bút của thầy trước khi vẽ ra những bức tranh đẹp mắt, đến việc tôi thích mọi thứ ở thầy ngoại trừ việc thầy dùng chiếc gậy là cành cọ chusan để vụt lên đầu học trò, và đến việc tôi không còn có thể gặp thầy nữa. Vì thế, sau giờ học, tôi tập hợp bạn bè lại để hỏi chúng thật chi tiết về dáng vẻ của thầy khi thầy tới chào tạm biệt cả lớp. Nhưng vì tâm trí còn mải để vào các trò chơi, nên đám bạn tôi chỉ ngồi đó như thể chúng đã hoàn toàn quên mất chuyện đó dù rằng chúng mới chỉ chia tay thầy nửa tháng trước. Không những thế, chúng còn tỏ ra sốt ruột và giận dỗi vì bị tôi phá đám trò chơi của mình. Tuy vậy, sau khi vắt óc suy nghĩ, cuối cùng một đứa cũng thốt ra: “Thầy ấy mặc chiếc áo khoác có hình bờm sư tử.”

“Bờm sư tử! Bờm sư tử!” vài đứa khác nói theo.

Những đứa ngốc này bị mê mẩn vì hình bờm sư tử mà chúng được trông thấy lần đầu tiên - dù rằng có lẽ đây cũng là do chúng nhìn nhầm - đến mức chẳng nhớ được bất kỳ điều gì khác nữa. Nhưng tôi vẫn cố gặng hỏi cho bằng được. Tức giận vì tôi không chịu thôi, một đứa khác lên tiếng.

“Thầy giáo nói là: Bây giờ thầy phải ra trận và thầy sẽ không được gặp các trò nữa. Các trò phải cẩn thận lắng nghe giáo viên mới, học hành chăm chỉ, và lớn lên thành những con người tuyệt vời.”

Sau khi tôi nghe xong những lời này, nước mắt chợt dâng lên rồi chảy xuống hai gò má tôi. Đám bạn sửng sốt nhìn tôi chằm chằm, vài đứa thậm chí còn khịt mũi khinh thường, chúng đưa mắt liếc nhau, lấy tay kéo ống tay áo của nhau. Chúng vẫn không biết rằng người ta có thể khóc như vậy, bởi vì chúng tin rằng không thể phá vỡ một nguyên tắc mà thầy giáo đã dạy cho chúng tôi, rằng người đàn ông chỉ được phép khóc ba năm một lần[2].

[1] Cuộc chiến tranh giữa Nhật Bản và Trung Quốc - khi đó do triều đại nhà Thanh hay Mãn Chu cai trị - về vấn đề chủ quyền của Triều Tiên. Cuộc chiến tranh này bắt đầu từ tháng Bảy năm 1894 và kết thúc vào tháng Năm năm 1895.

[2] Một câu ngạn ngữ. Câu này có nhiều dị bản khác nhau, chẳng hạn: “Người đàn ông chỉ được phép khóc khi anh ta chào đời và khi cha mẹ anh ta mất,” hay “Người đàn ông chỉ được phép khóc ba lần trong đời: khi chào đời, khi cha mẹ mất, và khi ống chân của anh ta bị đánh.” Một dị bản tương tự là “Người đàn ông chỉ được phép cười ba lần một năm,” bởi vì cười bị coi là hành vi hạ thấp nhân phẩm của người đàn ông.

2

Một điều còn đáng buồn hơn nữa là tôi hoàn toàn không hợp với giáo viên mới, thầy Ushida. Thầy nổi tiếng là người giỏi nhu thuật nên đám học trò rất sợ, và rõ ràng thầy cũng rất tự hào về điều đó, thi thoảng thầy còn nhảy bật tôm để gây ấn tượng với chúng tôi. Quả thật, chẳng có gì đáng ngưỡng mộ ở thầy cả, ngoại trừ một lần trong giờ học vẽ, thầy khen quả bầu tôi vẽ và nói, Trò giỏi hơn thầy đấy, và cho nó ba vòng tròn. Hẳn là tôi ghét thầy thế nào, thầy cũng ghét tôi thế ấy. Không biết từ bao giờ, nhưng dần dần chúng tôi gần như đã trở thành kẻ thù của nhau.

Ngoài chuyện đó ra, sau khi chiến tranh nổ ra, từ sáng tới tối đám bạn tôi chỉ nói về Tinh thần Yamato[1] và đám người Tàu. Tệ hơn, thầy giáo của chúng tôi cũng tham gia và luôn miệng nhắc đến những đề tài đó như thể thầy đang kích động chó đánh nhau vậy. Tôi thấy chuyện này thật khó chịu và đáng ghét. Thầy không hề đả động gì đến những câu chuyện về Dự Nhượng và Tỷ Can[2]. Thay vào đó, thầy chỉ nói tràng giang đại hải về những cuộc xâm lược của Mông Cổ và những cuộc chinh phạt của Triều Tiên. Khi hát, thầy bắt chúng tôi hát những bài hát u sầu liên quan đến chiến tranh và bắt chúng tôi nhảy những điệu nhàm chán như bài tập thể dục. Tệ hơn nữa, mọi người làm như thể những người Tàu mà chúng tôi “không thể đội trời chung” đang lao về phía họ, và họ nâng cao vai lên, khuỷu tay khuỳnh ra, bàn chân dậm mạnh đôi dép đi tuyết[3] đến mức suýt xé rách phần đế da, trong khi miệng thì hát loạn nhịp trong lớp bụi ngột ngạt đang bị cơn xáo động dưới đất làm cho bay lên. Xấu hổ khi phải đứng chung hàng với những người xấu tính như vậy, tôi cố tình hát càng lệch nhịp hơn. Lúc này ở sân trường vốn bình thường cũng đã rất nhỏ hẹp, chỉ có Katö Kiyomasas và Höjö Tokimune[4] đang khệnh khạng đi lại, tất cả những kẻ yếu đuối đều phải đóng vai người Tàu để bị chặt đầu.

Nếu đi ra phố, bạn sẽ thấy rằng ở tất cả các cửa hàng bán truyện tranh và sách thiếu nhi, toàn bộ các sản phẩm giấy gấp origami và búp bê cô dâu đều đã bị cất đi, thế chỗ chúng là những hình ảnh những viên đạn phát nổ trông thật chướng mắt nhưng lại được trưng ra khắp nơi. Bất luận những gì tôi trông thấy hay nghe thấy đều khiến tôi bực bội. Một lần, khi một đám con trai tụ tập với nhau ở một nơi và lại thi nhau bịa ra những câu chuyện khủng khiếp về chiến tranh dựa trên những lời đồn đại mà chúng nghe được phong thanh ở chỗ này hay chỗ khác, tôi liều lĩnh đưa ra một ý kiến trái ngược với bọn chúng và nói rằng cuối cùng nước Nhật sẽ bị bại bởi tay Trung Quốc. Lời dự đoán táo bạo, bất ngờ này khiến chúng im lặng đưa mắt nhìn nhau một lát, nhưng sau đó, chúng không thèm đếm xỉa đến uy quyền của người đứng đầu lớp mà đưa ra những sự phản đối ngô nghề buồn cười nhưng cũng đáng ngưỡng mộ.

“Ái chà, tệ quá, tệ quá!” một đứa khoa trương thốt lên.

Một đứa khác dùng nắm tay chùi chùi đầu mũi. Một đứa nữa thì bắt chước giọng thầy giáo.

“Xin lỗi về chuyện đó, thưa ngài, nhưng người Nhật có Tinh thần Yamato.”

Cả nỗi ác cảm đối với chúng và sự tự tin vào bản thân đều dâng cao hơn bao giờ hết, tôi đứng ra đón nhận tất cả những đòn công kích của chúng.

“Chúng ta chắc chắn sẽ thất bại, chắc chắn sẽ thất bại!” tôi quả quyết.

Và tôi cứ thế ngồi giữa đám con trai ồn ào này mà đưa ra những luận điểm đánh tan những lập luận vô căn cứ của chúng. Nhiều đứa thậm chí còn chưa từng đọc báo hay nhìn vào bản đồ thế giới. Chúng chưa được nghe những câu chuyện trong những cuốn sách sử như Sử ký và Thập bát sử. Vì thế, tất cả đều bị lý lẽ của tôi đánh bay và chúng đành ngậm miệng lại với vẻ miễn cưỡng hiện rõ trên khuôn mặt. Nhưng điều đó không có nghĩa là cơn phẫn nộ của chúng đã bị dập tắt, bởi vì việc đầu tiên mà chúng làm tiếp theo là đi mách thầy giáo.

“Thưa thầy, bạn Naka-san nói rằng nước Nhật sẽ thua.”

Với vẻ mặt như đã thấu hiểu mọi chuyện, thầy Ushida tuyên bố, “Người Nhật có Tinh thần Yamato,” và sau đó, như thường lệ, thầy lại tuôn ra một tràng những lời chửi rủa tục tĩu dành cho người Trung Quốc. Tôi tức giận như thể những lời đó trực tiếp nhắm vào mình vậy.

“Thưa thầy, nếu thầy nói người Nhật có Tinh thần Yamato, vậy thì hẳn là người Trung Quốc cũng có Tinh thần Trung Quốc chứ,” tôi nói. “Nếu ở Nhật chúng ta có Katö Kiyomasa và Höjö Tokimune, thì ở Trung Quốc họ cũng có Quan Vũ và Trương Phi kia mà, không phải ạ? Hơn nữa, thầy từng kể cho chúng em nghe câu chuyện Kenshin gửi muối cho Shingen[5] để dạy chúng em rằng tinh thần của người chiến binh là phải biết thương cảm kẻ thù. Nếu đúng như vậy, thì thầy không thể nói xấu người Trung Quốc như vậy, đúng không ạ?”

Với những lời này, tôi đã trút ra hết tất cả những sự giận dữ đã tích tụ bấy lâu nay. Nhưng thầy Ushida nhăn mặt.

“Naka-san không có Tinh thần Yamato,” thầy nói sau một lúc im lặng.

Tôi cảm thấy cơn giận dữ đang nhanh chóng làm phình to các mạch máu nơi thái dương, nhưng vì không thể lấy ra Tinh thần Yamato mà chỉ cho họ xem, tôi chỉ còn biết đỏ mặt và im lặng.

Với “lòng trung thành và sự quả cảm vô song,” những người lính Nhật Bản đã đập tan dự đoán thông minh của tôi. Tuy vậy, điều đó cũng không làm thay đổi sự thiếu tín nhiệm mà tôi dành cho thầy giáo và sự khinh miệt mà tôi dành cho đám bạn đồng lứa của mình.

Tất cả những chuyện này khiến tôi cảm thấy rằng thật ngớ ngẩn khi dành thời gian với những đứa trẻ khác, và tôi dần dần tách biệt mình, chỉ đứng ngoài mà xem những trò hề kỳ cục của chúng với thái độ chế giễu. Một hôm, tôi đứng một mình ở hành lang, hai khuỷu tay tựa lên thanh rào chắn đã bị bàn tay của lũ trẻ tinh nghịch mài mòn nhiều năm đến sáng bóng, và vừa nhìn lũ trẻ nô đùa dưới giàn tử đằng vừa cười. Đột nhiên một giáo viên đi ngang qua phía sau tôi.

“Trò đang cười cái gì vậy?” Thầy đột nhiên hỏi tôi.

“Những đứa trẻ kia chơi rất buồn cười ạ,” tôi trả lời.

Thầy giáo bật cười. “Naka-san, em cũng là một đứa trẻ mà, không phải thế sao?”

“Em có thể là một đứa trẻ, nhưng em không ngốc nghếch như bọn chúng,” tôi nói nghiêm túc.

“Chuyện đó thật rắc rối,” thầy nói rồi đi vào phòng giáo viên và trò chuyện với những người khác. Tôi đoán mình là mối rắc rối cho các giáo viên.

[1] Yamato, ban đầu là một khu vực nhỏ ở vùng thuộc Nara ngày nay, về sau trở thành từ chỉ chung cho toàn nước Nhật Bản.

[2] Dự Nhượng: Để trả thù cho chủ, Dự Nhượng đã nuốt than để thay đổi giọng nói và quét sơn lên người nhằm tiếp cận kẻ thù. Tuy nhiên, sau khi ám sát kẻ thù không thành công, ông đã tự tử. Tỷ Can là người đưa ra những lời can gián ngay thẳng nhưng bị vua hạ lệnh giết chết.

[3] Setta: Dép làm bằng vỏ tre có đế bằng da, được dùng để đi trong trời tuyết.

[4] Höjö Tokimune (1251-1284), nhiếp chính của chế độ Mạc phủ Kamakura và là người lãnh đạo của Nhật Bản trong các cuộc xâm lược của quân Mông Cổ.

[5] Uesugi Kenshin (1530-1578) và Takeda Shingen (1521-1573) là những vị tướng đối đầu nhau. Theo sử gia Rai San’yö (1780-1832) kể lại trong cuốn Dã sử Nhật Bản, câu chuyện về muối diễn ra như sau: “Tỉnh của Shingen [Kai] không có vùng duyên hải. Ông lấy muối từ Tökai. Ujizane bắt tay với Höjö Ujiyasu và bí mật đóng các con đường cung ứng muối. Tỉnh Kai phải đối mặt với khó khăn nghiêm trọng. Khi Kenshin hay tin, ông gửi thư cho Shingen và nói, ‘Thưa ngài, tôi nghe nói rằng Ujiyasu và Ujizane đang dùng muối để quấy phá ông. Cách làm này thật hèn nhát và không công bằng. Tôi tranh đấu với ngài, nhưng tôi tranh đấu bằng cung tên, chứ không phải bằng gạo và muối. Vì thế, tôi mong ngài từ nay hãy lấy muối từ chỗ của tôi. Số lượng có thể lớn hoặc nhỏ, tùy theo nhu cầu của ngài.’ Sau đó, ông ra lệnh cho các thương gia cung ứng muối cho Shingen với giá công bằng.”

3

Mặc dù tôi coi tất cả các học sinh trong lớp đều là những kẻ ngốc đến vô vọng và dành cho chúng sự khinh miệt cùng cực, nhưng tôi vẫn có lòng thương cảm chân thật và chín chắn đối với Kanimoto-san, người có thể nói là thủ lĩnh trong số đám ngốc ấy. Cậu ta rất đần, dù rằng nhìn từ chiều cao mà đoán thì có lẽ cậu ta đã 16 hay 17 tuổi rồi. Tôi nghe nói mỗi lớp cậu ta học lại hai hoặc ba năm, nên cuối cùng mới học chung lớp với chúng tôi. Dĩ nhiên, cậu ta không biết tuổi của chính mình; hơn nữa, bởi vì cậu ta có khuôn mặt non nớt vốn rất phổ biến trong đám học sinh ngốc ấy, nên không ai biết cậu ta thực sự bao nhiêu tuổi. Ở một phía gò má trên khuôn mặt béo tròn vui vẻ của cậu ta có một nốt ruồi to như hạt đậu răng ngựa, có thể coi như đây là tấm bảng hiệu gắn liền với cậu ta trong suốt thời đi học.

Nếu có người nửa đùa nửa thật nói, “Kanimoto-san này, trên má cậu có mực kìa,” cậu ta sẽ khúc khích cười rất chậm rãi rồi nói bằng giọng ề à kéo dài, “Không-có-mực-đâu. Nốt-ruồi-đấy.”

Cậu ta thường đeo ngang lưng một chiếc bàn tính đã rơi hết các hạt đếm và quá nhỏ so với khổ người của mình; cậu ta đến lớp bất kỳ lúc nào tùy ý và khi cảm thấy buồn chán sẽ đột ngột rời đi kể cả khi đang giữa giờ học. Con người nhìn chung thường chỉ thương xót và yêu quý những ai thấp kém hơn họ rất nhiều, và lòng thương cảm này là sự ích kỷ đến đáng khinh. Tuy Kanimoto-san là đối tượng thu hút lòng thương cảm kiểu đó, nhưng không có ai trên đời này lại có thể tận hưởng thế giới một cách tự do như cậu ta. Mặc dù thế, bởi vì vẫn còn đang sống, nên vẫn có những ngày cậu ta có tâm trạng tốt và có những ngày cậu ta có tâm trạng không được tốt cho lắm. Khi tâm tình không ổn, cậu ta hiếm khi xuất hiện ở trường, nhưng trong những dịp hiếm hoi xuất hiện trong tâm trạng ấy, cậu ta không nở lấy một nụ cười, chỉ ngồi im lặng cúi đầu xuống bàn. Sau đó, không biết ý nghĩ nào kích động, cậu ta đột ngột khóc tướng lên và chỉ ngừng lại sau khi đã trút hết nỗi lòng. Và sau khi đã nức nở kể ra những nỗi khổ sở đang tích tụ trong trái tim u tối buồn rầu của mình, cậu ta lại đeo bàn tính lên vai và về nhà như không có chuyện gì xảy ra. Vào những ngày như thế, kể cả khi có người bắt chuyện, cậu ta thậm chí cũng không thèm dành cho họ nụ cười hiền lành ngờ nghệch thường lệ của mình mà hét toáng lên và đuổi họ đi.

Tuy nhiên, nếu vì lý do nào đó mà cậu ta có tâm trạng tốt, thì không cần ai nhờ cậu ta cũng nói, “Tớ sẽ làm ngựa cho cậu.” Vốn là một người cao to và khỏe mạnh, cậu ta làm ngựa rất tuyệt. Tuy vậy, đó là một chú ngựa bất kham, bởi vì ngay khi hết hứng thú, cậu ta sẽ đứng thẳng dậy kể cả giữa lúc hai vị tướng chỉ huy đang giao đấu gay cấn[1].

Tôi quyết tâm thử mọi cách có thể để tìm hiểu bản chất thực sự đằng sau sự im lặng khó hiểu của Kanimoto-san, đằng sau những giọt nước mắt tuôn trào từ nơi sâu thẳm trong sự im lặng ấy, và, bỏ qua lời chế nhạo của mọi người, tôi cố gắng làm bạn với cậu ta. Mỗi lần trông thấy cậu ta có tâm trạng vui vẻ, tôi lại chào cậu ta với những lời chào ngắn như, “Chào buổi sáng” và “Tạm biệt”. Nhưng thái độ của cậu ta đối với tôi giống như một vị hoàng đế nhìn thần dân của mình vậy, và thậm chí còn không thèm nhếch mép đáp lời tôi. Nhưng tôi không để tâm đến điều đó và vẫn kiên trì với cách tiếp cận của mình, cho đến một hôm cậu ta rời khỏi chỗ ngồi, nơi cậu ta vẫn bám rịt lấy như một chú rận và lê bước về phía tôi.

“Naka-san-là-người-tốt,” cậu ta nói bằng giọng ề à quen thuộc. Sau đó cậu quay đi với nụ cười trầm thấp vui vẻ.

Tôi suýt nhảy cẫng lên vì vui sưởng trước lời nhận xét ấy. Lời cậu ta nói hoàn toàn không có lấy một chút giả tạo nào. Khi đó tôi đã biết rằng trong những lời nói của con người có cả những lời nói dối, vì thế tôi vô cùng xúc động trước lời nhận xét bình thường và công tâm ấy, và tôi vui sướng tột độ như thể cuối cùng tôi cũng tìm được chiếc chìa khóa mở ra cánh cửa bước vào bên trong không gian u tối kia, tôi đinh ninh rằng chắc chắn mình sẽ kết bạn được với cậu ta và có thể an ủi con người kém may mắn ấy. Vì thế, tôi hạ quyết tâm phải thành công ngay trong ngày hôm ấy và đi tới chiếc bàn bên cạnh cậu ta rồi tìm mọi cách để bắt chuyện; chỉ có điều cậu ta chỉ nở nụ cười hềnh hệch vô nghĩa như thường lệ, khiến tôi rất bực bội. Cũng có lúc cậu ta ngừng hành động đó và cúi đầu thấp xuống bàn. Rồi rất nhanh sau đó, cậu ta công kích tôi bằng tràng tiếng thét gầm gừ trong cổ họng. Vậy là bao nhiêu công sức của tôi bấy lâu nay đều trở thành công cốc. Vấn đề không phải là Kanimoto-san phải chịu sự cô độc bởi vì cậu ta cũng giống như tôi, không có người bạn nào hợp ý; vấn đề là cậu ta thực sự không cần người bạn nào cả.

[1] Kibasen, “mã chiến”: Một trò chơi đánh trận giả, mỗi đội chơi có năm người, trong đó bốn người hợp lại thành một con ngựa và một người làm chỉ huy cưỡi ngựa. Người chỉ huy của các đội sẽ đấu với nhau và tìm cách đẩy đối thủ xuống đất. Người cuối cùng còn ở trên lưng ngựa sẽ là người chiến thẳng.

4

Xuất phát từ tính hiếu kỳ và lòng tử tế đầy sự khoa trương về bản thân mà bất kỳ ai ở độ tuổi ấy cũng có ít nhất là một lần, anh trai tôi đã khổ công áp dụng một chế độ giáo dục nghiêm khắc và kỹ lưỡng để kéo tôi hướng theo sự phát triển của mình, bất chấp sự phản kháng của tôi, một con người từ khi ra đời đã có hình hài khác với anh ấy cũng như đã được định trước là sẽ đi theo những con đường trái ngược như hướng đông với hướng tây vậy. Và bởi vì như người ta nói, anh tôi thích câu cá đến mức hóa điên, nên hẳn là anh đã có ý nghĩ rằng để tránh cho đứa em trai tội nghiệp khỏi sa vào con đường xấu mỗi ngày, rằng để biến tôi trở nên giống với anh, anh đã hạ quyết tâm sẽ dạy tôi câu cá.

Những ngày không phải đến trường anh đều ép tôi cầm bộ đồ nghề câu cá theo anh đi ra ngoài, dù rằng tôi đi chỉ bởi vì không dám chọc giận anh, và bởi vì tôi không còn sự lựa chọn nào khác. Sau đó, tôi phải lê bước theo đuôi anh tới tận Honjo, nơi mà theo anh là có nhiều hồ thả cá lý tưởng nhưng trong mắt tôi tất cả đều đáng ghét tới cùng cực. Trên đường đi, tôi là đối tượng cho những lời phê bình lặt vặt của anh - nào là chiếc mũ mà tôi đội bị cong vênh, nào là tôi cúi đầu quá thấp, nào là tôi bị phân tâm quá lâu vì những chiếc đèn lồng mà người ta bày ra để bán bên đường, nào là hai tay tôi vung không đều nhau - nói tóm lại, toàn bộ con người tôi từ đỉnh đầu cho đến ngón chân đều bị đem ra phê bình, vì thế khi chúng tôi đến được hồ cá, thì sự căng thẳng về thần kinh, cộng với quãng đường xa lăng lắc, đã hoàn toàn khiến tôi kiệt sức. Nhưng vừa kịp cúi đầu phía dưới lá cờ cắm bên ao và thở hắt ra một hơi lấy sức thì tôi lại bị bắt ra ngồi trên bờ hào ẩm ướt để rồi phải đối mặt với một thực tế là tôi sẽ phải dành cả một ngày ngây ngốc ở đây một lần nữa, và điều đó khiến tôi cảm thấy chán nản như thể toàn bộ sức lực và xương cốt đều đã rời khỏi con người mình.

Dãy cọc dẫn vào con hào tanh tưởi và lầy lội phủ đầy lớp rêu xanh. Ở một cái ao tù nằm trong một góc của con hào, đám gỉ sắt màu đỏ nổi lềnh bềnh trên mặt nước, những con bọ cạp nước đuổi bắt lũ gọng vó và những con bọ nước khổng lồ thi nhau nhảy lên nhảy xuống. Chỉ riêng việc nhìn vào những cảnh tượng ấy cũng đủ để khiến tôi phát ớn lên, nhưng nào đã hết, ở nhà máy cạnh đó người ta đang dập những tấm sắt nên không ngừng phát ra những âm thanh lanh lảnh khiến đầu tôi đau như búa bổ. Anh tôi bảo, Em cắt giun tốt hơn rồi đấy, anh rất thích, nhưng như thế vẫn chưa làm anh hài lòng đâu. Mặc dù không biết phải làm gì với chiếc cần câu mà anh đưa, nhưng tôi vẫn giả vờ chăm chú theo dõi chiếc phao đang nổi trên mặt nước trong khi trong đầu hiện lên hết ý nghĩ khó chịu này đến ý nghĩ không mấy thoải mái khác, chẳng hạn như, Vì sao mình phải học câu cá? Ngược lại, anh tôi vốn bị cận thị nhưng ngay khi đến ao cá mắt anh đột ngột trở nên tinh nhạy khác thường. Anh thường đặt từ 5-7 chiếc cần câu mà vẫn có thời gian trông chừng cái phao của tôi.

“Kìa, cá đang cắn câu của em đấy!”

Nếu tôi kéo con cá ra khỏi nước, anh sẽ mắng tôi vì đủ thứ chuyện - nào là tôi cuốn dây quá lóng ngóng vụng về, nào là tôi không biết gỡ cá. Vì vậy, tôi lười biếng kéo dây với niềm hy vọng rằng con cá sẽ nhanh chóng thoát ra được. Sau đó, một con cá bụng vàng toàn thân lấm lem trồi lên, còn tôi chỉ đứng trông và nghĩ thầm, Con cá chép đó thật là bẩn. Sự lờ đờ này khiến anh tôi tức giận và ném đồ về phía tôi. Tới lúc ấy, con cá sẽ tự thoát ra được và bơi đi mất.

Khi ngày câu cá cuối cùng cũng kết thúc và đã đến lúc phải về nhà, chiếc giỏ đựng cá toát ra thứ mùi cá tươi lại trở thành một gánh nặng mới. Và, một lần nữa vì sự nghiệp giáo dục tôi, anh tôi sẽ cố ý đi đường vòng và chọn con đường mà tôi không thích - con đường có những cửa hàng bán đồ cổ, nhà kho, xe cộ, và những con rãnh hai bên, con đường nơi có đường dây điện đong đưa trong gió, con đường có những quầy bán đồ ăn. Tôi lê đôi chân đã mỏi nhừ đi sau anh, vừa đi vừa chịu đựng những lời anh mắng. Và bởi vì chúng tôi chọn đường xa hơn, nên khi gần về đến nhà thì mặt trời đã lặn. Thật khó có thể mô tả được cảm giác khó chịu và những lời phàn nàn của anh vào thời điểm ấy... Một hôm, khi một ngôi sao, rồi một ngôi sao nữa bắt đầu mọc trên bầu trời, tôi mải mê ngước nhìn chúng - tôi lấy lại được sức lực từ những lời mà bác tôi đã dạy, rằng ngôi sao chính là những vị thần linh và những vị Phật - khiến anh tôi tức giận khi thấy tôi đi tụt lại đằng sau.

“Sao em lại đi chậm như thế hả?”

Tôi giật mình trả lời, “Em đang ngắm những vì sao thân thương của chúng ta.”

Cảm thấy khó hiểu trước những lời nói của tôi, anh quát lên, “Đồ ngốc, chỉ cần nói ‘ngắm sao’ là được rồi!”

Thật là một con người đáng thương! Tôi có gì sai chứ khi vì lòng mong mỏi của trẻ thơ mà gọi những viên đá lạnh lẽo đang quay quanh bầu trời là “những vì sao thân thương của-chúng ta”, giống như cách tôi gọi con người này - người mà vì sự tình cờ nào đó đã trở thành bạn đồng hành của tôi trong Địa ngục - là anh trai thân thương của em?

5

Một lần, cũng lại nhân danh giáo dục, tôi được đưa tới một bãi biển. Không biết rằng phản ứng phấn khích bất thường của tôi đối với ý tưởng này là bởi vì những ký ức tốt đẹp mà tôi có từ một chuyến đi trước đó và bởi vì một người bạn (của anh tôi) đã tới đó trước và đang chờ chúng tôi, anh tôi cũng rất háo hức vào buổi tối trước khi lên đường, và đưa tôi đi hội chợ Đa Văn Thiên Vương[1] và mua cho tôi cuốn tạp chí Công dân nhỏ. Sáng hôm sau, với sự đồng hành của một người anh trai tốt bụng phá lệ thường và với tâm trạng nhẹ nhõm vì mọi chuyện diễn ra suôn sẻ, tôi rời nhà đi, chỉ mang theo cuốn tạp chí Công dân nhỏ.

Chuyến đi đó tình cờ trùng với dịp Lễ hội Sao[2], và ở vùng nông thôn, nhà nào cũng treo trúc sasa gắn những thẻ bài thơ năm màu, những bông hoa tai thỏ nở rộ trên những mái nhà lợp rạ. Bị cảnh tượng đẹp mắt này làm cho phân tâm, tôi thắc mắc to lên thành tiếng, Tại sao ở thị trấn người ta không làm như thế này nhỉ? và nhận được lời trách mắng đầu tiên của anh trai trong chuyến đi. Trong tâm trạng phấn chấn khi được thỏa sức ngắm nhìn những cánh đồng lúa xanh, bầu trời, mặt biển, và những cánh buồm trắng, tôi có vô vàn điều muốn nói và muốn hỏi, nhưng vì sợ bị mắng nên tôi chỉ dám nghĩ thầm trong bụng, đồng thời băn khoăn không biết liệu mình đi theo anh như thế này có phải là sai lầm hay không. Trong lúc tôi đang suy nghĩ vẩn vơ như vậy thì lại bị anh mắng, lần này là vì tôi cứ im thin thít không chịu nói năng gì. Vì sao anh ấy lại bực dọc vô cớ như vậy nhỉ? Hóa ra, tâm trạng của anh không tốt là bởi vì tôi đã không hỏi câu, Con tàu di chuyển như thế nào?

Nơi mà chúng tôi đến là một túp lều lợp rạ trong một ngôi làng chài được bao quanh bởi những lùm cây bụi, dưới đất vương vãi vỏ sò và những thứ linh tinh khác. Ngoài người bạn hồ hởi chào đón chúng tôi, trong túp lều còn có một cặp vợ chồng già với làn da đen đúa và cô con gái cũng có màu da giống họ. Chúng tôi đến vào giờ ăn trưa, nên bà mẹ và cô con gái - cả hai trông giống như những chú mèo đen - mang ra hai chiếc khay chân cao trông cáu bẩn cho ba người. Họ giục chúng tôi ăn nhanh lên bởi vì gia đình họ cũng dùng bộ bát đĩa đó mà họ phải chờ chúng tôi ăn xong trước đã. Tôi lúng túng ăn rồi buông đũa xuống khi mới ăn hết một nửa phần của mình.

Vì túp lều quá nhỏ, nên chúng tôi quyết định rằng anh em tôi sẽ chuyển tới một mũi đất ở cách đó khoảng hai cây số. Người bạn ngỏ ý muốn đưa chúng tôi đi, còn anh tôi nói hai người sẽ đuổi theo tôi, vì thế tôi được cho lên một chiếc xe lung lay như sắp đổ và đi trước. Phu kéo xe là một người vạm vỡ trông có vẻ giản dị và trung thực, và tôi rất có thiện cảm với ông. Nhưng khi chúng tôi vòng vèo đi qua những lùm cây bụi, cảm giác cô độc dần dần xâm chiếm tôi và không lâu sau, tôi cảm thấy mình không thể chịu đựng thêm được nữa. Tôi đã cố gắng hết sức để khiến mình phân tâm nhưng quanh đi quẩn lại trong đầu tôi chỉ hiện ra hàng rào tuyết tùng và quang cảnh căn phòng ăn ở nhà. Khi nghĩ đến việc mình sẽ phải xa nhà vào tối hôm đó và tối hôm sau nữa, tôi không cầm được nước mắt và những giọt nước mắt lã chã rơi xuống đùi tôi. Lũ trẻ con của những người dân làng chài trông thấy cảnh này liền cười ré lên và hô to với nhau,

“Này chúng mày ơi, nhìn thằng nhóc kia kìa! Nó đang khóc! Nó đang khóc đấy!”

Người kéo xe thi thoảng quay lại nhìn và nói câu gì đó để an ủi tôi, nhưng từ ngữ ông dùng nghe lạ tai nên tôi không hiểu ông nói gì. Trong lúc xe cứ đi như vậy, tôi chợt trông thấy những con cua càng đỏ rất đẹp đang bò ra khỏi những khe hở dọc các hàng rào bên đường, và rồi, khi bị tiếng xe chạy làm cho giật mình, chúng lại chạy vọt trở về chỗ cũ. Tôi rất muốn bắt chúng. Nhưng không lâu sau, chúng tôi đã ra đến bờ biển. Con đường mòn quanh co uốn khúc giữa một bên là sườn đồi và một bên là mép nước. Tôi bực mình mỗi khi dòng thủy triều dâng lên chặn đường đi, nhưng người kéo xe vẫn điềm nhiên như không, có lẽ ông vừa đi vừa nghĩ đến chuyện gì khác. Khi xe đến điểm con đường cắt xuyên qua đồi, tôi vô tình quay người lại và chợt trông thấy anh tôi cùng người bạn. Khi tôi vừa chật vật nén xuống cơn nức nở đang sắp trào lên cổ họng, anh tôi vội vàng chạy lên và bế tôi xuống.

Những khối đá nhấp nhô như vây cá nằm rải rác từ chỗ bờ gập ghềnh ra tới biển, và vì bị chắn đường đi nên những con sóng vỗ vào vách đá rồi hất tung lên thành hình tròn trông như chiếc đầu trọc của một con quái vật biển, sau đó nhanh chóng vỡ tan và bắn ra xung quanh. Mỗi khi xe đổi hướng để tiến dần về phía một cái vịnh nhỏ, đường bờ biển ngày càng trở nên nhỏ và hẹp hơn, và những ngọn sóng thấp từng đợt từng đợt tấp vào tạo thành tiếng ì ọp. Nghe thấy âm thanh này, không hiểu sao lồng ngực tôi như bị nghẹn lại thành một đống, và mặc dù trước đó tôi đã kiềm chế không khóc, nhưng lúc này nước mắt lại tuôn ra một lần nữa. Một đợt sóng dâng lên ì ọp, những bọt nước nhanh chóng rút đi, nhưng trước khi tôi kịp thở phào để nghĩ, Sóng đi rồi, thì đợt tiếp theo lại ì ọp tới. Khi cuối cùng chúng tôi cũng đi qua chỗ vịnh đó, vịnh tiếp theo lại xuất hiện với nhiều tiếng ì ọp hơn. Mặc dù tôi dần đói bụng và chân cũng ngày càng mỏi, nhưng mũi đất kia dường như vẫn còn ở cách đó rất xa, và âm thanh ì ọp của sóng biển kéo dài bất tận mà đi theo chúng tôi ở mọi chốn. Khi chúng tôi bắt kịp một đoàn ngựa đang lọc cọc bước đi thì người bạn của chúng tôi chợt để ý thấy mắt tôi ngân ngấn nước, anh thì thào chỉ cho anh trai tôi thấy.

“Cứ kệ thằng bé, cứ kệ thằng bé,” anh nói rồi nhanh nhẹn bước về phía trước.

Nhưng sau đó anh liên tục quay lại nhìn, cuối cùng anh dừng bước và nhẹ nhàng hỏi tôi, Em mệt sao? Em ốm à?

“Em thấy buồn khi nghe tiếng sóng,” tôi thật thà đáp.

Anh trai tôi trừng mắt nhìn tôi.

“Tự em đi về đi,” anh nói rồi bước đi nhanh hơn. Ngược lại, người bạn của chúng tôi tuy bất ngờ trước câu trả lời này của tôi nhưng vẫn cố gắng trấn tĩnh anh tôi.

Sau đó, anh nói với tôi, “Một cậu bé cần phải cứng cỏi hơn một chút.”

[1] Tiếng Phạn là Vaisravana: Một trong bốn vị Thiên Vương. Ở Nhật Bản, đây là một trong Thất Phúc Thần.

[2] Một trong bảy dịp lễ hội lớn ở Nhật Bản, được tổ chức vào ngày 7 tháng Bảy. Ngày lễ này bắt nguồn từ lễ Thất Tịch của phương Đông.

6

Khi chúng tôi đến quán trọ tĩnh mịch cô độc đứng gần chân mũi đất nhấp nhô đá, mặt trời đang dần lặn, những đám mây đỏ rực bao quanh mặt trời xoay như chiếc bánh xe. Rồi chúng dần dần biến đổi sang màu đỏ, tím, và xanh chàm, cuối cùng hòa làm một với màu trời và nhạt dần đi. Trong lúc đứng bám vào cây cột ở mái hiên và xem những đợt sóng tấp vào mũi đất làm phát ra những ánh lân quang, tôi cảm thấy cổ họng ngứa ngáy và những giọt nước mắt không ngừng lăn trên má. Tôi cứ dùng tay quệt nước mắt bôi lên cột, và ý nghĩ duy nhất của tôi lúc ấy là, Mong cho ngày mai đến thật nhanh.

Những cơn gió mang hơi mưa khiến đám lá thông xạc xào, và những con côn trùng không biết từ đâu bò ra bắt đầu cất tiếng kêu. Một người giúp việc ra đóng lớp cửa trượt bên ngoài. Tôi đành phải quay vào trong phòng, và để che đi khuôn mặt đang đầy nước mắt, tôi lấy ra cuốn tạp chí Công dân nhỏ để đọc. Một hình vẽ minh họa cảnh Kidömaru bị một mũi tên cắm trên trán, một tay nâng cao tấm da bò, tay kia cầm kiếm sát vào người, chuẩn bị giết Raikö[1]. Khi tiếp tục giở các trang khác, tôi liếc thấy một tiêu đề “Cậu bé đánh trống” và quyết định đọc bài viết. Bức tranh minh họa vẽ nhân vật chính vừa đi vừa giơ cao gậy đánh chiếc trống treo trước ngực, hoàn toàn không để ý đến các binh lính đang bị bỏ lại phía sau. Cậu bé này có cái đầu to, tay chân lóng ngóng vụng về, và thường xuyên bị mọi người chế nhạo, vì thế càng đọc, tôi càng thấy mình giống cậu ta, nên nước mắt lại lã chã rơi xuống cuốn tạp chí cho đến khi anh tôi quát lên.

Sáng hôm sau, mặt biển hoàn toàn bị bao phủ trong sương mù. Và âm thanh của một con thuyền đang đi trên đó khiến tôi vui sướng không thôi. Thực ra, tôi không trông thấy chiếc thuyền mà chỉ nghe thấy âm thanh của nó giống như tiếng chim kêu hay tiếng trẻ con khóc đòi sữa vào buổi sáng.

Người bạn của chúng tôi ghé qua, và cả ba cùng nhau ra bờ biển. Bãi cát, những tảng đá, và những đám tảo biển bị hất tung lên thành hình sóng - tất cả đều ướt đẫm sương mai, còn lũ côn trùng ra rả kêu tối qua bây giờ chỉ còn lại lác đác vài con đang cất lên những tiếng chíp chíp rất đáng yêu. Dưới chân cồn cát nằm giữa phần đất phẳng và bãi biển dốc có cỏ mọc và những cây thông đen đang ngả nghiêng vì gió. Một chiếc thuyền câu cá với hình dáng giản đơn đang nằm phơi mình trên cồn cát, bên cạnh đó là mấy tấm ván để trượt thuyền, một chiếc giỏ đựng cá trông giống như tổ chim, một cái xẻng, dây thừng, mấy con nhím biển, mấy con sao biển đã chết, và vài thứ linh tinh khác.

Một lát sau, sương mù tan đi. Khi mặt trời đỏ ửng nhô lên khỏi mặt biển đang sóng sánh một màu xanh chàm sâu thăm thẳm, tôi bắt đầu cảm thấy ngứa ngáy, mồ hôi túa ra, những người dân làng chài, gồm cả nam, nữ, và trẻ nhỏ, ồn ào đi men theo những con đường hẹp trên các dụn cát và bắt đầu kéo lưới. Khi họ hò dô kéo lưới, đám rong rêu được chất đống lên ở nhiều chỗ và bắt lửa, xèo xèo phun ra những làn khói trắng. Trong lúc đó, anh tôi đã tự mình bơi ra chỗ một tảng đá cách nơi đó một đoạn, vì thế tôi lội ra một vũng nước chỉ biến thành dòng suối nhỏ khi trời mưa và bắt đầu nhặt đá cuội cùng vỏ sò. Ở đó có rất nhiều cua ẩn sĩ con. Mặc dù thoạt nhìn, trông chúng giống như những vỏ sò bình thường, nhưng nếu bạn đứng im để mặc chúng một lát, chúng sẽ thò chân ra ngoài và loạng choạng bò loanh quanh. Chúng sống trong bất kỳ vỏ sò nào mà chúng tìm được, dù hình nhọn hay hình tròn. Điều thú vị nằm ở chỗ, tất cả đều là cua ẩn sĩ con.

Người bạn của chúng tôi tìm được một vỏ ốc xà cừ dài khoảng 5 xăng-ti-mét và mang đến cho tôi. Trên vỏ đã có sẵn hai chiếc lỗ có thể xỏ một sợi dây mỏng qua. Thế là tôi tính toán rằng về nhà, tôi sẽ buộc nó vào quả tua rua của chiếc ô theo kiểu phương Tây mà chị gái cho tôi. Nhưng trong lúc tôi đang mải nghĩ như vậy, anh tôi lên bờ và bảo tôi vứt hết vỏ sò và đá cuội đang cầm trên tay đi. Không còn sự lựa chọn nào khác, tôi đau lòng ném từng thứ đi, cuối cùng chỉ còn lại chiếc vỏ ốc xà cừ. Vì không nỡ vứt nó đi, nên tôi nhắn nhó. Anh tôi bực mình giơ nắm đấm lên, nhưng người bạn kia đã kịp ngăn lại và thuyết phục anh cho phép tôi được mang ít nhất chiếc vỏ ốc ấy về nhà, và rốt cuộc anh cũng vô cùng miễn cưỡng mà đồng ý. Chiếc vỏ ốc xà cừ ấy, cùng với quả tua rua gắn chung với nó, hiện giờ vẫn nằm trong hộp đồ chơi cũ của tôi.

[1] Kidömaru: Một nhân vật lừa đảo xấu xa xuất hiện trong những câu chuyện về vị tướng Minamoto no Raikö (Yorimitsu: 948-1021). Trong cảnh được nhắc đến ở đây, hắn tìm cách phục kích Raikö bằng cách núp trong bụng của một con bò chết.

7

Anh tôi cố gắng giáo dục tôi một cách có chủ đích, chính xác, và nghiêm khắc, nhưng một sự kiện bất ngờ xảy ra đã hoàn toàn cắt đứt mối quan hệ vốn gây nhiều sóng gió cho cả hai bên này.

Không biết từ khi nào anh tôi không còn hài lòng với những con cá ở ao nữa mà chuyển sang tập thả lưới; anh vẫn bắt tôi xách giỏ đựng cá đi theo như trước, và thường xuyên dẫn tôi ra con sông ở gần nhà. Chỉ cần đi bộ chừng 400-500 mét rồi qua một cây cầu là tới một cánh đồng thoai thoải đổ xuống dòng sông, nơi người ta xếp những khung làm mizuhiki[1] nhuộm hai màu trắng và đỏ trông như những tấm khiên. Đi thêm một đoạn ngắn nữa sẽ thấy một guồng nước. Nhìn dòng nước rơi xuống máng nước đang quay điên cuồng, tôi cảm giác như nó là vật sống nên sợ hãi tới mức nổi da gà. Chiếc guồng nước khổng lồ phả ra những hơi thở là bụi nước, vừa ồn ào xoay tròn không ngừng vừa nhỏ tong tỏng những giọt nước như giọt mồ hôi. Ở phần giã gạo đặt bên trong guồng nước nhồi đầy bột gạo, rất nhiều chiếc chày trông giống những vũ công một chân cùng thi nhau giã, tạo nên những âm thanh thình thịch trầm thấp. Khi đến đó, không hiểu sao tôi cảm thấy đăng đắng nơi đầu lưỡi và cảm thấy ngột ngạt.

Tiếp tục thong dong đi ngược dòng sông là tới một con đập, nơi dòng nước lững lờ màu xanh biếc tách thành ba ngả: một ngả chảy xuống chỗ máng ở guồng nước, một ngả chảy vào rừng ở phía bên kia bờ sông, và ngả cuối cùng ào ào chảy ra khỏi miệng đập. Những tia nước bắn ra xung quanh, bọt nước sủi lên, và nước bắn cả lên bờ - mỗi khi nhìn tất cả những cảnh tượng này, một cảm giác cô độc đến không chịu nổi và một nỗi sợ hãi mơ hồ bỗng ập đến trong tôi, ý nghĩ duy nhất trong đầu tôi lúc ấy là, Mình phải về nhà ngay lập tức.

Có người nói, hà bá của lưu vực ở chỗ thác nước ấy là một con kappa. Có người lại nói đó là một con cá chép dài gần 2 mét. Và ai cũng cam đoan rằng họ đã nghe được điều này từ một người đã tận mắt trông thấy nó. Mỗi năm, hà bá lại chọn ra một hoặc hai đứa trẻ để bắt đi. Vì thế, không biết từ lúc nào người ta đã dựng lên một tấm bia để tưởng nhớ những đứa trẻ đáng thương đó bên bờ biển rải rác những viên đá cuội. Những đứa trẻ đó bây giờ ra sao? Tôi đưa mắt nhìn ra những cánh đồng lúa rộng mênh mang đang lượn sóng trong gió mà chợt cảm thấy có gì đó nghèn nghẹn trong lồng ngực, nước mắt lại trào dâng lên khóe mắt. Đây là những giọt nước mắt dâng lên tự nơi sâu thẳm trong trái tim tôi, và tôi không có cách nào ngăn chúng được. Để giấu đi gương mặt đang ướt nhòe, tôi cúi mặt nhìn xuống chân cho đến khi chúng tôi đi tới dãy bốn hoặc năm ngôi nhà lợp mái rạ. Đây là nơi người ta cho thuê lưới và bán đồ câu, và trên tấm chiếu tatami đã bạc màu vì nắng gió, họ bày ra cần câu và phao với đủ loại hình dáng như hình bình rượu sake, hình hạt dẻ, và hình đĩa tròn. Phía cuối sân là một con mương có cá tuế và tôm bơi lội, dọc bờ ruộng là hàng cây sồi non khẳng khiu, và ở bờ ruộng bên kia là một ngọn núi bị bao phủ trong một khu rừng tưởng chừng như trải dài vô tận.

Anh tôi cầm lưới, tôi thì cầm giỏ đựng cá, cả hai đều đi chân trần leo xuống bờ sông mé thác nước và đi loanh quanh ở chỗ trũng phía dưới bờ bên kia để bắt cá. Anh tôi rất vui sướng bởi vì trước đó anh chỉ biết giũ lưới thành những búi lộn xộn nhưng bây giờ đã có thể trải lưới thành hình tròn. Nhưng với tôi mà nói chuyện đó chẳng có chút gì thú vị cả. Tôi thường đứng trong bóng râm của khu rừng đổ xuống dòng sông mà lắng nghe tiếng ve kêu và nghĩ đến những cây tử vân anh trong những cánh đồng. Thi thoảng anh tôi đi qua chỗ tôi để bỏ vào giỏ mấy con gebachi[2] và cá đác vừa bắt được rồi nói, “Bây giờ anh làm khá hơn nhiều rồi.”

Tôi thường dìm cái giỏ xuống nước để lũ cá bên trong có thể thở được. Sau đó, cảm thấy chúng đã trở thành bạn mình, tôi sẽ hé mắt nhìn vào. Lũ cá thật nhát gan, chỉ một âm thanh nhỏ cũng khiến chúng giật mình rồi đâm sầm vào cạnh giỏ. Trong lúc đó, anh tôi lại càu nhàu về chuyện tôi không chịu quan sát cách anh quăng lưới.

Một hôm, khi những chuyện này đang diễn ra, tôi đang đứng dưới sông thì bất chợt trông thấy một viên đá trắng như tuyết ngay gần chân mình nên cúi người xuống nhặt. Dĩ nhiên, hành vi này không giấu được ánh mắt của anh.

“Em đang làm gì thế?”

“Em nhặt một viên đá.”

“Đừng có ngu ngốc như thế!”

Nhưng khi ấy tôi không còn sợ anh nữa. Tôi đã suy nghĩ về điều này khá lâu rồi.

“Em hỏi anh một câu có được không?” tôi nhẹ nhàng hỏi anh từ sau lưng. “Việc em nhặt đá trong lúc anh đang bắt cá thì có gì sai nào?”

“Đừng có vô lễ như thế,” anh quát lên.

Tôi lạnh lùng mỉm cười, nhìn thẳng vào mắt anh và nói, “Hãy cho em biết điều em vừa nói có gì sai nào.”

“Anh sẽ đánh em đấy,” anh nói và giơ tay lên.

Tôi lẳng lặng treo giỏ đựng cá vào một cành cây thấp rồi trèo lên bờ và về nhà. Nhưng khi trông thấy anh ngồi xổm trong bóng râm của một cái cây như thể đang thu mình lại, đột nhiên tôi cảm thấy thương cảm cho anh. Tôi nghĩ, anh hay nói những lời như vậy nhưng hẳn là anh cô độc lắm, vì thế tôi đứng trên bờ sông và lấy hết sức gọi xuống.

“Em ở lại với anh nhé?”

Anh tôi phớt lờ như không nghe thấy, chỉ chăm chú xếp lưới.

“Tạm biệt,” tôi lịch sự giơ mũ lên chào và đi về nhà một mình. Sau lần ấy, chúng tôi không bao giờ ra ngoài cùng nhau nữa.

[1] Mizuhiki hay mizubiki: Loại giấy đặc biệt được cắt thành những dải dài để làm dây trang trí bọc phong bì và hộp quà. Giấy này thường được nhuộm hai màu đỏ và trắng. Ở đây người ta phơi giấy đã nhuộm trên những tấm ván gỗ khô.

[2] Một loài cá giống cá trê.

8

Bởi vì quanh nhà chúng tôi có mấy cây dâu nên có lần chúng tôi mua trứng tằm của người trong vùng về để nuôi, theo ý tưởng của bố tôi thì hoạt động này vừa mang tính giải trí lại vừa là sự giáo dục thiết thực cho trẻ con. Mẹ và bác tôi ra sức phản đối, họ cho rằng việc này quá rắc rối, dù rằng bản thân họ lại rất thích tham gia và vui vẻ không thôi mỗi khi ngồi thái lá dâu. Thực ra, họ còn có phần tự hào khi nhớ lại thời kỳ khó khăn trước đây mà họ tin tưởng rằng sẽ không bao giờ quay trở lại nữa.

Ban đầu, lũ tằm chỉ giấu mình dưới lớp lá, nhưng nhờ ăn lá mà mỗi ngày chúng lại lớn hơn một chút và ngọ nguậy cái đầu trọc bóng như sư. Tôi cũng được giao cho vài con, đặt trong một cái hộp yökan[1] nhỏ. Và bởi vì bác tôi bảo rằng trước đây tằm là công chúa, nên tôi đặt ra nguyên tắc chào chúng trước khi đi ngủ và vào lúc ngủ dậy, và trước khi đi học còn khẩn khoản yêu cầu người nhà chăm sóc chu đáo cho chúng. Khi đi học về, chị tôi sẽ quấn khăn lên đầu, nhét hai đầu tạp dề vào thắt lưng, rồi cùng tôi mang giỏ chạy đi hái lá dâu. Mặc cho nhựa cây dây bẩn hết ra tay, chúng tôi vẫn hăm hở thi nhau giơ tay kiểng chân để hái những chiếc lá trông ngon lành nhất mà mình có thể với tới được.

Những con tằm này được con người nuôi từ rất lâu rồi để lấy những sợi tơ sáng bóng mà chúng nhả ra khỏi miệng, vì thế chúng không tự mình đi kiếm thức ăn mà chỉ đặt đầu nằm trên những tấm chiếu rơm và ngoan ngoãn chờ con người tới rắc lá dâu lên người chúng.

“Người ta bảo kiếp trước chúng là công chúa đấy, trông chúng cư xử mới ngoan ngoãn làm sao chứ,” bác tôi nói như thể tất cả những điều đó đều là sự thật vậy.

Ban đầu, thứ mùi lá cây phảng phất quanh chúng, và thân mình lạnh lẽo của chúng khiến tôi sởn da gà. Nhưng sau khi xác định rằng chúng từng là những nàng công chúa, tôi không còn bận tâm đến những chi tiết ấy nữa, và tôi thậm chí còn cho rằng những dấu vết hình lưỡi liềm trên lưng chúng là những đôi mắt đáng yêu.

Sau khi ra khỏi trạng thái thiền định tầng thứ tư, những nàng công chúa này trở nên sạch sẽ và trong trẻo đến mức cơ thể chúng gần như trong suốt, và chúng thậm chí còn không ăn lá dâu nữa mà ngó nghiêng tìm chỗ nhập niết bàn. Khi đó, bạn chỉ cần nhẹ nhàng chuyển chúng sang các giá đựng kén để chúng tự do chọn một vị trí phù hợp rồi lặng lẽ ngọ nguậy cái đầu và bắt đầu dệt những tấm rèm trắng mà giấu mình vào trong. Ban đầu, có vẻ như chúng chỉ đung đưa đầu, nhưng chúng sẽ ngừng cử động lúc nào không hay. Thứ duy nhất bạn trông thấy là những cuộn rèm trông giống như những chiếc túi hình ống treo lủng lắng từ giá đựng kén mà chúng vừa dệt bằng sức mạnh thiêng liêng, thậm chí dệt mà không cần đến con thoi nào cả. Cảm thấy bị bỏ lại đằng sau, tôi nằng nặc đòi giữ chúng mãi, nhưng mẹ và bác tôi nhanh chóng nhặt chúng lên rồi đem luộc trong nồi. Và khi đem những sợi tơ ướt màu vàng óng ả quấn xung quanh một cái khung, những tấm rèm kia từ từ được gỡ ra một cách không thương tiếc, cuối cùng thả ra những xác chết trông giống hình những con nhộng. Anh tôi đặt chúng vào trong hộp đựng mồi câu rồi vọt chạy ra ao cá. Thế là tôi tỉnh mộng từ giấc mơ về những nàng công chúa, còn những sợi tơ được gửi đến cho thợ dệt để dệt thành những tấm vải kẻ sọc trông kỳ quặc.

Một vài cái kén được tạo thành trong chiếc hộp yökan được để lại làm “trứng” Nhưng có lẽ bởi vì con tim tôi đã chạm tới những góc sâu thẳm trong những tấm rèm của chúng, hoặc có lẽ bởi vì những nàng công chúa này không nỡ rời bỏ thế giới của mùa hè rực rỡ, nên không lâu sau chúng biến thành những hình dáng đáng yêu hao hao giống hình dáng trong quá khứ - với cặp lông mày xinh đẹp bên trên cặp mắt đen, đôi cánh rung rung một nỗi vui sướng mới mẻ. Sau đó, chúng hết bò sang trái lại sang phải như thể đang vẽ vòng tròn, và tìm bạn tình để giao phối. Tôi xem chúng với sự hứng thú hẳn còn hơn cả sự hứng thú mà tôi dành cho nàng tiên được sinh ra trong ống tre[2]. Tằm già đi trở thành kén, kén phá vỏ và biến thành bướm, và khi tôi trông thấy những con bướm đẻ trứng, kiến thức của tôi trở nên hoàn chỉnh. Đó là một vòng tròn đầy bí ẩn của những điều khó hiểu.

Tôi muốn mình giữ mãi sự thắc mắc trẻ thơ ấy mà nhìn nhận vạn vật xung quanh. Với rất nhiều thứ, người ta không còn thực sự cảm nhận được vẻ đẹp của chúng chỉ bởi vì họ đã quá quen thuộc với việc nhìn thấy chúng. Tuy nhiên, nếu suy nghĩ kỹ càng, bạn sẽ thấy rằng những chồi măng nhú ra mỗi mùa xuân đều khiến chúng ta sửng sốt. Nếu bạn nói bạn không biết điều này, thì đó là bởi vì bạn thậm chí còn không biết cả những điều nhỏ nhặt như thứ được bọc trong vỏ kén tằm tí hon kia.

Khi những “quả trứng” đó nở ra, nhiều cây dâu đã bị chặt và chúng tôi không có đủ người để nuôi nhiều tằm như vậy. Vì thế, với ý nghĩ ngớ ngẩn rằng lũ chim sẻ sẽ sớm ăn sạch chúng, người nhà tôi đã lén đổ một nửa số trứng kia ra sân sau trong lúc tôi, người đã trở thành anh trai của những nàng công chúa kén, không có ở nhà. Khi tôi ra hái lá dâu và giật mình trông thấy chúng nằm dưới đất như vậy, tôi vội vã chạy vào hỏi lý do. Nhưng ai cũng né tránh câu hỏi của tôi. Cuối cùng tự tôi linh cảm được lý do và gần như quỳ gối xuống trước họ mà van nài họ hãy nhặt chúng lên và cho chúng ăn. Nhưng không ai nghe tôi cả. Tuy vậy, khi thấy rằng những lời lẽ ngụy biện xảo quyệt của họ không thể ngăn được lòng trắc ẩn của một đứa trẻ ngây thơ, rốt cuộc họ tìm cách dọa sợ tôi bằng biện pháp quen thuộc của mình là lên giọng với tôi. Tôi trừng mắt nhìn lại họ, trong lòng tràn đầy sự thất vọng và niềm căm ghét, rồi chửi rủa họ điên cuồng và lại lao ra ngoài mà khóc. Nếu khi ấy tôi có đủ sức mạnh để tóm lấy những con người đó, có lẽ tôi sẽ xích họ lại với nhau rồi đem họ cho lũ chim sẻ ăn. Sau lần đó, ngày nào tôi cũng viện cớ đau đầu để xin thầy giáo cho về nhà sớm rồi chạy đi hái lá dâu cho những cô em gái lúc này đang lúc lắc cái đầu ra chiều rất đói bụng. Nhưng đó là những con yếu, không thể chịu được cái lạnh của ban đêm hay cái nóng của ban ngày, và ngày nào cũng có vài con chết đi.

Một buổi chiều, trời bắt đầu đổ mưa. Người nhà gọi tôi vào nhiều lần nhưng tôi vẫn đứng ở ngoài. Thấy thế, bác tôi chạy ra xem và thấy tôi đang cầm ô che cho những con tằm bị vứt bỏ. Khi vừa trông thấy bác, tôi bật khóc và bám vào tạp dề của bác. Vốn là một người có tấm lòng nhân từ như Phật, bác tôi cũng muốn làm điều gì đó, nhưng bác cũng chẳng thể làm được gì. Cuối cùng, sau khi cầu nguyện mấy lần, bác tôi cũng đưa được tôi vào trong nhà bằng cách dụ dỗ và chọc cười tôi. Về sau, gia đình tôi trông thấy một tấm biển nhỏ bằng đá cát kết dựng ở chỗ đó, trên mặt đá là dòng chữ viết tay của tôi, rằng, “Trung thần Kusunoki chi mộ[3]”.

[1] Tương đậu ngọt, thường được đựng trong một chiếc hộp hình chữ nhật.

[2] Nhân vật chính trong truyện cổ tích Ông lão đốn tre. Ban đầu, nàng có hình dáng như một con búp bê ở trong một thân tre, sau đó lớn lên thành một cô gái xinh đẹp. Sau khi đặt ra những nhiệm vụ vô cùng khó khăn cho năm người tới cầu hôn, nàng bay về Cung Trăng, thế giới ban đầu của nàng.

[3] Aa Chüshin Nanshi no haka: Đây là văn tự mà Tướng Tokugawa Mitsukuni (1628-1700) viết trên ngôi mộ do ông dựng cho Kusunoki Masashige (1294-1336) bên bờ sông Minato nơi Masashige tử nạn. Trước khi Nhật Bản thua cuộc trong Thế chiến II, Masashige là vị anh hùng nổi danh khắp nước bởi vì ông sẵn sàng lao vào một cuộc chiến vô vọng vì lòng trung thành với nhà vua của mình. Từ nhỏ Naka đã biết đến những lời này cùng câu chuyện đằng sau đó. Ở đây cậu dùng lại những lời ấy để thể hiện lòng thương tiếc lũ tằm.