ÔNG QUẢN GIA
Trong nhiều ngày, không có việc gì quan trọng xảy ra. Điều bí ẩn đáng sợ trên cánh đồng hoang phủ bóng đen đáng sợ lên vùng quê nhỏ bé này, tới mức nhiều khách du lịch đã rời khách sạn.
Thật ra thì tôi cũng phải rời đi, nhưng Asbjörn Krag cương quyết yêu cầu tôi ở lại, một mực nói rằng tôi có thể giúp ông ta. Chàng sinh viên y khoa, con người đam mê thầm kín nghệ thuật điều tra của cảnh sát, chút nữa thì xanh mặt vì ghen tị vì Asbjörn Krag không hề đếm xỉa gì tới anh ta. Nhưng bản thân tôi có giúp ích được gì cho ông ta hay không thì tôi thật sự không biết được. Vì dù sao thì cho tới bây giờ tôi vẫn chưa giúp được gì cho ông ta cả. Ngược lại, tôi đâu đó còn mỉa mai về cách làm việc của ông ta, vì cung cách ấy đối với tôi thật xa lạ, cũng không mấy phù hợp với một thám tử năng động. Ông ta tương đối lề mề, ngủ dậy muộn, ăn nhiều, tắm rửa và đi dạo. Tóm lại, ông ta cư xử giống hệt như một người đang nghỉ phép.
Khi có ai đó cố hỏi thì ông ta đánh trống lảng hoặc im lặng, rồi nhíu mắt nhìn người hỏi một cách mỉa mai. Ông ta ra vẻ hoàn toàn dửng dưng trước những lời bóng gió về nguyên nhân dẫn đến việc phạm tội, dù người đó là khách du lịch hay dân địa phương, thậm chí cả cảnh sát. Ông ta bình thản lắng nghe, nhưng rồi ngay khi người nói đi đến kết luận: “Tôi tin là như thế này hay thế kia,” thì Asbjörn Krag trả lời với giọng hết sức dửng dưng:
“À há…”
Hoặc ông ta sẽ nói:
“Vâng, vâng, hừm, đúng thế.”
Nhưng khi có ai đó hỏi:
“Bây giờ ý của ông thật ra là như thế nào?”
Thì ông ta trả lời, ra vẻ hết sức ngạc nhiên về câu hỏi:
“Tôi? - À, tôi vẫn còn chưa có thời gian suy nghĩ.”
Chỉ có Chúa mới biết ông ta thực ra đang làm gì! Như tôi có thể thấy, ông ta giờ còn chẳng thèm làm những công việc điều tra cơ bản nhất. Khi tình cờ gặp Gjaemaes, ông chủ của trang trại cổ kia, trong những lúc đi dạo, ông ta chỉ nói với anh ta về triển vọng mùa màng.
Vào một ngày nào đó, những bóng áo đen xuất hiện bên cạnh nhóm khách du lịch tươi vui. Gia đình của nạn nhân đã đến để sắp xếp việc mang thi thể về. Nhưng những chiếc mạng đen che mặt và những chiếc khăn tay trắng phủ bên ngoài đôi găng tay đen lại biến mất không lâu sau đó. Krag còn không buồn chào hỏi gia đình này, và tất cả vẫn như cũ.
Lúc này, ông cảnh sát trưởng và cảnh sát thị trấn làm việc độc lập với vị thám tử tư. Ông cảnh sát trưởng đạp xe đạp đi đây đó ra vẻ gấp rút, nhưng cũng không tiến đến gần lời giải đáp cho sự việc bí ẩn này thêm chút nào. Giả thuyết rằng đây là một vụ giết người cướp của không thể được bỏ qua nữa, vì người ta phát hiện ra rằng người kiểm lâm đó sở hữu một khối tài sản kha khá khi anh bị giết — một khoản phải đến hàng trăm kroner. Ngoài ra, anh ta có một chiếc ví xanh bằng da cá sấu, và không ai tìm được cái ví hay khoản tiền đó trên thi thể nạn nhân. Tất nhiên, việc chiếc đồng hồ vàng và những chiếc nhẫn vẫn còn trên người nạn nhân cũng khiến giả thuyết cướp của giết người lung lay đôi chút. Ít ra thì cảnh sát cũng ra thông báo tìm kiếm những người Di-gan có thể đã ở gần nơi đó, vào đúng thời gian đó.
Nhưng sự lề mề và dửng dưng của Asbjörn Krag lại đang trấn an tinh thần người dân. Sự hồi hộp và lo âu giảm dần, và cuộc sống mùa hè đã quay trở lại. Tiếng xì xào sau lưng, tiếng thì thầm nho nhỏ, bí mật đã nhường chỗ cho tiếng trò chuyện cười vui trên mọi con đường, và biển cả lại vang lên tiếng chèo thuyền đưa những du khách mới tới.
Bạn đọc hẳn nhớ rằng vào buổi sáng hôm đó, khi Asbjörn Krag xuất hiện, tôi đã yêu cầu đổi sang phòng khác. Chỉ nhờ ngẫu nhiên mà lúc đó tôi phát hiện ra rằng các bức tường khách sạn đưa âm thanh đi tốt chẳng kém đường dây điện thoại; tôi luôn thấy bực mình khi không thể nói chuyện trong phòng mà không bị cả phòng bên trái lẫn bên phải nghe được. Nhưng vì lúc đó khách sạn có ít phòng trống, nên bà chủ đã tìm cho tôi một chỗ chỉ cách khách sạn vài phút đi bộ, nằm trên một mũi đất nhỏ, được gọi là mũi đất Hải Cẩu. Tôi sống ở đó một mình trong một căn nhà rất nhỏ nhưng vẫn dùng bữa tại khách sạn.
Một ngày sau khi tôi chuyển chỗ ở, vị thám tử hỏi tôi:
“Sống một mình như thế ông không sợ à?”
“Không,” tôi đáp, “tại sao tôi lại phải sợ cơ chứ?”
“Ban đêm bây giờ vẫn còn sáng,” Asbjörn Krag nói và ngước nhìn lên trời, “nhưng rồi những đêm đen sẽ tới ngay.”
“Tôi không hiểu.”
“Sự việc đáng sợ ấy không khiến ông căng thẳng à?”
“Không.”
“Thế thì tốt. Ông chính là người có thể giúp được tôi. Tôi hy vọng ông sẽ cho tôi thêm vài ngày nữa.”
“Tôi sẽ rất vui nếu được ở lại thêm vài ngày nữa,” tôi ngắt lời ông ấy, “và tin rằng tôi sẽ không có khó khăn gì khi giúp ông.”
“Thế à?”
“Vì tôi không thấy bản thân ông làm bất cứ điều gì hết.”
Asbjörn Krag mỉm cười và nói một câu khiến tôi hết sức ngạc nhiên vào lúc đó cũng như sau này nhớ lại. Ông ta nói rằng:
“Nhưng ông cũng phải thừa nhận rằng thời gian đang trôi qua.”
“Thật ra thì ông làm những gì trong ngày?” Tôi hỏi.
“Tôi viết thư,” ông ta trả lời. “Tôi đã làm cho một vài người ở Christiania tương đối bận rộn để tìm thông tin cho tôi, và bây giờ thì tôi chờ - một sự việc sẽ xảy ra.”
“Sẽ xảy ra?”
“Đúng thế.”
Lúc bắt đầu trao đổi, tôi đang định đi về ngôi nhà nhỏ trên mũi đất; Asbjörn Krag đi theo tôi, vì ông ta tỏ vẻ rất quan tâm đến chỗ đó. Ngoài những điều khác, ông ta nói rằng nó khiến cho ông ta liên tưởng đến một ngôi nhà của người canh gác hải đăng, vì nó nằm cheo leo trên một mũi đất như thế.
Khi chúng tôi tiến gần đến ngôi nhà, ông ta chỉ vào nó và nói:
“Ông có thấy ông sống cô đơn như thế nào không?”
“Có, tất nhiên là tôi sống lẻ loi rồi.”
“Đây là ngôi nhà cuối cùng, và từ đây đến nhà của ông, còn phải đi thêm vài phút nữa.”
“Tôi thừa nhận đúng vậy.”
Vị thám tử trầm tư lắc đầu và đi tiếp.
Khi chúng tôi đến tận cửa nhà, ông ta mới quay về. Trước khi ông ta rời đi, tôi hỏi:
“Ông nghĩ thế nào về giả định những người Di-gan đã làm chuyện đó?”
“Ông phải hiểu rằng,” ông ta trả lời, “tôi đã không nghĩ dến việc anh Blinde có lẽ đã chào hỏi Di-gan nào đó mà mình gặp trong đêm ấy.”
Tôi chưng hửng nhìn ông ta.
“Chào hỏi ư?”
“Vâng, tất nhiên rồi,” ông ta nói tiếp và giờ thì đầy vẻ hăng hái. “Anh kiểm lâm Blinde đã nhận cú đánh chí mạng ấy trong khi đang chào hỏi một người nào đó.”
“Làm sao mà ông có thể quả quyết như vậy?”
“Nhiều bằng chứng cho thấy điều đó. Ông có nhớ chiếc mũ không? Nó nằm cách xác chết vài bước chân và hoàn toàn không bị hỏng, mặc dù Blinde lãnh cú đánh của hung thủ từ phía sau đầu. Nếu như anh ta vẫn còn đội mũ trong khoảnh khắc ấy thì nó cũng phải có dấu vết nào đó từ cú đánh đáng sợ ấy chứ! Nhưng anh ta đã cầm chiếc mũ trong tay, anh ta vừa mới chào hỏi xong.”
“Anh ta đã chào ai?”
“Kẻ giết người,” Asbjörn Krag trả lời, “và trong khoảnh khắc ấy, hắn đã ra tay.”
“Điều ông vừa nói làm cho tôi ngạc nhiên đấy,” tôi trả lời sau một lúc lâu suy nghĩ, “nhưng rất có thể ông nói đúng.”
“Tôi nói đúng mà. Hay nói cách khác, kẻ giết người là người quen của anh kiểm lâm; đó là một trong những kẻ thù mà Blinde dã nói đến trước khi rời khỏi nhà Gjaernaes trong đêm đó.”
Lần đầu tiên, tôi có thể nhận ra từ những lời nói của Asbjörn Krag rằng ông ta rõ ràng có quan tâm đến tấn thảm kịch ấy và cũng rút ra kết luận. Tôi hăng hái hỏi dò tiếp, tận dụng thời cơ ông ta bất ngờ biến thành một người biết nói chuyện. Vì thế, tôi hỏi ông ta có tìm ra được dấu vết nào nữa không, có nghĩ ra ai là thủ phạm không, hay ít nhất hắn ta thuộc tầng lớp nào.
Nhưng vị thám tử không muốn đào sâu vào vấn đề; ông ta đánh lạc hướng bằng cách nhắc đến vị trí trơ trọi của ngôi nhà nhỏ tôi đang ở.
“Xin tạm biệt,” tôi nói.
“Tạm biệt,” ông ta trả lời, “tôi sẽ trở về phòng mình để chờ.”
“Ông chờ gì vậy?”
Thay vì trả lời, ông ta nhìn tôi với ánh mắt kỳ lạ và hỏi:
“Ông có tin vào sức mạnh nằm trong đôi mắt không?”
“Ý ông muốn nói đến thôi miên ư?”
“Ông cũng có thể gọi đó là thôi miên, nếu muốn. Với đôi mắt này, tôi đã ép buộc được một người đến với tôi, và tôi đang chờ người đó.”
Ông ta không muốn giải thích nhiều hơn, chậm rãi rời đi. Tôi vẫn đứng đó, nhìn theo và ngạc nhiên về thái độ kỳ lạ của ông ta. Bất thình lình, ông ta ngồi xổm xuống và lấy cái máy ảnh ra. Ông ta muốn chụp cái gì nhỉ? Ở đây làm gì có gì ngoài mặt biển sáng như gương đâu? Mặt trời hun hầm hập trên những tảng đá trắng, có lẽ ông ta vẫn có được một ý tưởng nào đó. Đây đó cỏ mọc tụm lại vơi nhau, rong biển nhấp nhô trên mặt nước, nước chảy trên một vài mỏm đá khiến chúng lóng lánh dưới ánh nắng mặt trời. Rồi một làn sóng nhỏ chồm tới và nuốt chửng mọi thứ… Krag bấm máy, đứng dậy và tiếp tục đi. Một con người kỳ lạ.
⚝ ⚝ ⚝
Vào khoảng 8 giờ, tôi đi đến khách sạn dể dùng bữa. Trên đường đi, tôi gặp Asbjörn Krag.
“Tôi có chuyện muốn kể cho ông nghe,” ông ta nói ngay sau khi thấy tôi, “người đó đến rồi.”
“Tôi không biết ông muốn nói về ai.”
Asbjörn Krag nắm lấy cánh tay tôi và thong thả kể:
“Ông không nhớ là tôi mới vừa nói về sức mạnh của đôi mắt à? Tốt thôi. Với ánh mắt của mình, tôi đã ra lệnh cho một người đến gặp tôi, và tôi đã chờ người này suốt mấy hôm nay rồi. Ông cũng biết người này đấy, ông ta đang ngồi trong phòng tôi.”
Bây giờ tôi mới nhớ lại, rằng vị thám tử đã nói điều gì lúc từ giã ông chủ trang trại Gjaemaes nhưng lại nhìn ông quản gia, “Chúng ta sẽ gặp nhau, tôi sống trong khách sạn.”
“Thế thì người đến gặp ông chắc chắn là ông quản gia của gia đình Gjaemaes,” tôi trả lời.
“Suy luận đúng đấy,” vị thám tử trả lời. “Tôi muốn ông làm nhân chứng cho cuộc nói chuyện của chúng tôi, vì vậy tôi đã đi tìm ông.”
Lời nói của ông ta khiến tôi xúc động mạnh.
“Tức là có một mối liên hệ giữa Gjaernaes và vụ án mạng,” tôi lẩm bẩm. “Chúa ơi! Tôi phải nghĩ đến những gì ông vừa kể về chiếc mũ của người bị đánh chết.”
“Anh ta nhấc chiếc mũ ra chào trong lúc nhận cú đánh chí mạng ấy.”
“Đúng thế! Và ông hẳn cũng nhớ chính Gjaemaes đã nói rằng anh ta phản đối cuộc hôn nhân giữa Blinde và em gái mình. Có thể Gjaernaes đã căm ghét Blinde. Chính anh ta nói rằng Blinde tạo một ấn tượng không thiện cảm và ích kỷ.”
“Đắc thắng một cách tự cao tự đại,” vị thám tử nói.
“Đúng rồi, nhưng điều quan trọng là kẻ giết người dường như quen biết Blinde. Tôi rất tò mò muốn nghe ông quản gia kể cho chúng ta nghe những gì.”
Asbjörn Krag lắc đầu, nheo mắt nhìn tôi một cách mỉa mai.
“Bây giờ thì ông sốt sắng quá rồi đấy,” ông ta chậm rãi nói, điều này làm giảm bót sự hăng hái của tôi. “Ông quá vội vã rồi, ông bạn thân mến.”
“Tôi chỉ cân nhắc các tình huống khác nhau thôi,” tôi nói.
“Vậy thì hãy cho tôi biết ông đã đi đến kết luận gì?”
“Gjaemaes phản đối cuộc hôn nhân.”
“Đúng, nhưng vẫn chấp thuận vì cô em gái muốn như thế.”
“Nhưng dẫu sao thì anh ta cũng rất phản đối cuộc hôn nhân và không ưa Blinde. Một khi đã thổ lộ mạnh mẽ như thế với chúng ta thì anh ta hẳn phải căm ghét viên kiểm lâm lắm.”
“Trước khi ông tiếp tục, tôi muốn hỏi thẳng,” Krag ngắt lời, “rằng ông có tin chính Gjaemaes là kẻ giết người hay không?”
Câu hỏi bất ngờ và thẳng thắn này khiến tôi run rẩy.
“Tôi không muốn nói ra một lời buộc tội đáng sợ như vậy,” tôi trả lời. “Ông yêu cầu tôi đưa ra kết luận, nhưng tôi cảm thấy thật ngớ ngẩn khi ông phủ nhận rằng một loạt sự việc đang ám chỉ trực tiếp đến Gjaemaes. Ngoài ra, tôi đoán rằng ông cũng có nhận định của riêng mình. Tôi không tin Gjaemaes phạm tội, nhưng khi chúng ta kết hợp mọi điều với nhau, những gì chống lại anh ta, thì có thể chúng ta sẽ dễ dàng xóa bỏ nghi ngờ đáng sợ này. Gjaemaes là bạn tôi.”
Vị thám tử vẫn nắm cánh tay tôi. Ông ta bước chậm lại để không đến khách sạn quá nhanh. Bất chợt, tôi có ấn tượng rằng ông ta muốn nghe ý kiến của tôi và rõ ràng ông ta lại cáo buộc Gjaemaes như một kẻ tội đồ.
“Chúng ta không được phép chỉ bám vào các bằng chứng,” ông ta nói, “cuối cùng thì chúng ta cũng phải xem xét sự việc từ phía con người. Ông có nghĩ là Gjaernaes có khả năng làm một việc như thế không?”
Sau khi suy nghĩ một lúc, tôi trả lời:
“Khó lắm.”
“Ông hãy đặt mình vào vị trí của ông ta,” vị thám tử tiếp tục. “Ông có một cô em gái mà ông rất tự hào.”
“Và rất yêu quý cô ấy.”
“Tốt. Cô ấy tuyên bố cô muốn kết hôn với một người đàn ông mà ông căm ghét.”
“Và tất nhiên là tôi ghét anh ta vì tôi biết đó là một người xấu.”
“Tất nhiên rồi. Ông cố thuyết phục em gái mình hãy rời xa gã, nhưng gã đó quá đẹp và em gái ông đã mù quáng vì tình yêu. Ông biết rằng cuộc hôn nhân sẽ không có kết thúc tốt đẹp và em gái của ông sẽ vô cùng bất hạnh, nhưng đồng thời cũng nhận thấy rằng thuyết phục cô ấy từ bỏ chẳng khác gì nước đổ lá khoai. Cô ấy tuyên bố sẽ kết hôn với con người đáng ghét ấy và rồi, trong khoảnh khắc ấy, gã ta tự bộc lộ mình theo kiểu đắc thắng tự cao tự đại. Tôi cho rằng cái tít mà Gjaemaes vô tình nói ra này rất chính xác. Tôi đồ rằng Blinde biết anh trai cô sẽ phản đối, và rằng anh ta cố tình bộc lộ rõ sự dương dương tự đắc ra sau khi nhận được sự đồng ý của cô. Bây giờ ông hãy đặt mình vào vị trí của Gjaernaes. Ông không nghĩ rằng trong khoảnh khắc bị kích động ấy, khi ông nhìn thấy nụ cười đắc thắng, mỉa mai của gã và biết rằng cô em gái yêu quý của mình đang dính phải bùa mê của con người xấu xa này, ông sẽ mất tự chủ và sát hại gã sao?”
Những lời nói đanh thép của Asbjörn Krag khiến tôi hoàn toàn bị động.
“Tôi nghĩ có thể là như thế,” tôi trả lời không chắc chắn lắm. “Tôi tin là như thế, nhưng tất nhiên tôi làm gì cũng phải cân nhắc.”
“Vâng tất nhiên. Ông hành động bộc phát trong lúc nhạy cảm, bị cơn thịnh nộ dữ dội hay nỗi thất vọng đắng cay kiểm soát. Hãy để cho tôi giả định thêm rằng ông gặp con người đó trên một con đường vắng vẻ, rằng gã ta chào ông và mỉm cười đắc thắng mỉa mai như muốn nói: Giờ thì nhìn xem, anh bạn của tôi ơi, cô em gái yêu quý của anh đã ăn phải bùa mê thuốc lú của tôi rồi; cô ta là của tôi. Giờ thì ông sẽ có thể làm được những gì, khi bị mờ mắt bởi nỗi căm ghét đó? Lúc đó thì tôi tin rằng ông chắc chắn sẽ tấn công gã ta, có lẽ ông không muốn giết gã, chỉ bị thôi thúc bởi ý muốn đánh cho gã một trận… Nhưng mà ông đang nghĩ gì đấy? Ông không thích thú với câu chuyện của chúng ta à?”
Tôi lau mồ hôi trên trán, có cảm giác như đôi môi mình bắt đầu tái nhợt.
“Tôi nghĩ đến nạn nhân,” tôi lắp bắp nói. “Ông có nhớ nét mặt của anh ta không? Nó đúng là đắc thắng giễu cợt như ông đã nói. Thêm nữa, tôi nghĩ đến sự bối rối của anh bạn Gjaemaes. Mặt anh ta trắng bệch và run rẩy, trông giống như đã không ngủ nhiều ngày. Rồi còn ông quản gia nữa chứ! Ông ta bây giờ đến gặp ông để kể chuyện gì vậy?”
“Chúng ta sẽ nghe được ngay ấy mà,” vị thám tử trả lời.
Chúng tôi đi lên phòng của vị thám tử. Khi chúng tôi bước vào, người quản gia đứng dậy và ngượng nghịu chào. Có vẻ ông ta đã lựa bộ đồ đẹp nhất để mặc, nhưng ngoài điều đó ra tôi không nhận thấy sự thay đổi nào: sự muộn phiền vẫn thường trực trên khuôn mặt, ánh mắt vẫn đảo qua đảo lại không yên.
“Ông đã gặp người bạn của tôi rồi,” thám tử hỏi. “Ông ấy giúp tôi điều tra và cũng muốn nghe xem ông có điều gì để tường thuật lại.”
“Vâng…” Ông quản gia nói mà nghe rất nặng nề. Ông không biết phải bắt đầu từ đâu; chỉ im lặng và thất thần.
“Tôi có một chuyện muốn kể lại,” ông ta bắt đầu nói sau khi im lặng khá lâu. “Nhưng nói ra thì thật là khó. Ông hỏi tôi trước đi?”
“Có thể ông muốn nói về vụ giết người.”
“Không. Về vụ giết người thì tôi không biết gì cả,” ông ta vừa nói vừa e dè nhìn sang một bên. “Tôi không biết gì về chuyện đó, tôi chỉ muốn kể lại những gì chính mình nhìn thấy thôi.”
“Chúng tôi cũng không muốn biết điều gì khác,” vị thám tử trả lời.
Người quản gia gật đầu về phía tôi.
“Ông có nhớ cái đêm mà tôi không muốn cho ông vào nhà không?”
“Có,” tôi trả lời. “Tôi có cảm giác ông hơi thô lỗ trong đêm đó.”
“Hẳn là thô lỗ rồi, nhưng tôi bị ép buộc phải làm điều đó, vì nó bắt đầu vào đêm hôm đó.”
“Điều gì bắt đầu?”
“Tất cả những điều kỳ bí trong trang trại. Thật buồn khi đã lại xảy ra những điều như vậy, sau khi chúng tôi sống trong yên bình qua từng ấy năm. Tôi muốn khẳng định với các ông rằng tôi rất kính trọng Gjaemaes, cậu ấy rất giỏi giang, ngăn nắp và cũng mềm mỏng hơn cha cậu.”
Asbjörn Krag lập tức ngắt lời ông ta.
“Ông muốn nói đến người cha đã khuất của Gjaemaes?”
“Đúng thế.”
Vị thám tử nhân cơ hội đó để quay trở lại với vụ chết người đã bị lãng quên từ lâu.
“Người ta có chắc chắn là ông ấy bị chết đuối không?” Ông ta hỏi.
“Có,” người quản gia trả lời, “ông ấy chết đuối. Chiếc thuyền bị lật úp, trôi dạt từ những đảo đá vào bờ… Vâng, như đã nói, nó bắt đầu vào đêm hôm đó,” ông ta tiếp tục. “Có một người đàn ông mang một lá thư đến cho gia đình Gjaemaes; khi đọc xong lá thư, cậu chủ chạy băng qua các gian phòng như lên cơn điên và gọi to tìm cô chủ.”
“Ông có biết lá thư ấy từ đâu đến không?”
“Không, tôi không biết điều đó, nhưng tôi đang đứng trong phòng làm việc của Gjaernaes khi nó được gửi tới. Đó là một phong bì lớn, màu vàng.”
“Ông có nhìn thấy nét chữ viết không?”
“Không, trong khi cậu Gjaemaes đọc những hàng chữ trên phong bì thì cậu chủ bắt đầu cư xử kỳ lạ.”
“Ông ấy có nói gì không?”
“Có, cậu ấy nói: Chúa ơi, tôi chưa bao giờ gặp điều gì như thế này… rồi xé phong bì ra và đọc lá thư. Vừa mới đọc xong những hàng đầu tiên thì cậu ấy như muốn ngã ra bất tỉnh. Mặt cậu trắng bệch một cách đáng sợ, vâng, như một xác chết ngồi trên ghế. Tôi chưa bao giờ nhìn thấy điều kỳ lạ như thế.”
“Ông nói rằng, ông ta chạy băng qua các gian phòng?”
“Vâng, đấy là sau khi cậu chủ tỉnh lại. Nhưng trước đó, cậu ấy đuổi tôi đi: Ông không được phép ở đây lâu hơn nữa. Trời đất quỷ thần ơi, ông không được phép ở lại đây lâu hơn nữa. Cậu ấy không chờ cho tới khi tôi đi khỏi mà vội chạy như ma đuổi qua các gian phòng và gọi tìm cô chủ.”
“Cô ấy có ở nhà không?”
“Có, cô ấy có ở nhà.”
“Ông ấy nói gì với cô ấy?”
“Tôi không biết, vì tôi đã đi ra ngoài. Nhưng sau đó, tôi nghe các cô hầu bảo rằng cô chủ đã la lớn lên, nhưng rồi cố gắng trấn an Gjaemaes. Hai người nói chuyện rất lâu trong thư viện, đóng kín các cánh cửa. Sau đó tôi được gọi vào. Ông nghe này, ông quản gia, Gjaernaes nói, mới đây tôi nhận được một lá thư rất bất ngờ. Một mặt thì đó là một tin rất khủng khiếp, nhưng mặt khác thì cũng rất vui. Dù sao thì tôi cũng đã bị kích động mạnh trong lúc đọc, và tôi xin ông hãy quên việc đó đi và không nói với bất cứ ai về điều này. Đó là một việc hết sức riêng tư và không có gì phải bàn tán về nó cả. Nhưng tôi không tin ông ấy, vì mặt Gjaernaes vẫn tái nhợt.”
“Chuyện đó xảy ra lúc nào?”
“Khoảng 9 giờ tối.”
“Tức là trước khi viên kiểm lâm đến?”
“Vâng, nửa giờ trước đó. Khi anh ta đến, Gjaemaes lúc đầu không muốn cho anh ta vào nhà, nhưng cô chủ đã cho anh ta vào. Ba người nói chuyện một lúc lâu, và khi đã sắp trao đổi xong thì ông đến.”
Nói đến đây, ông quản gia gật đầu về hướng tôi.
“Cô chủ nhìn thấy ông qua cửa sổ,” ông ta nói tiếp. “Cô ấy chạy ra tìm tôi và yêu cầu tôi không cho ông vào nhà. Cả Gjaemaes cũng bước ra và bắt đầu hét lên như người điên: Tôi không muốn bị ai quấy rầy, cậu ấy nói rất to, ông không thấy tôi đang ốm à? Vì vậy, tôi buộc phải đối xử thô lỗ với ông, đó là lý do duy nhất.”
“Ông không nghe được họ nói gì à?” Vị thám tử hỏi.
“Không, không nghe được gì cả. Nhưng có một lần tôi nghe cô chủ trách móc Gjaemaes rất nhiều. Đúng ra anh phải vui mừng, cô ấy nói, nhưng thay vì vậy thì anh lại tuyệt vọng. ”
“Rồi ông ta trả lời ra sao?”
“Cậu chủ nói: Ừ thì tất nhiên là anh vui chứ, Hilde, nhưng chuyện này cũng thật đáng sợ. Chúng ta làm sao che giấu được? Tôi cũng nghe ông ấy nói một điều gì khác nữa.”
Vị thám tử không hỏi thêm; tôi hiểu là chúng tôi đã đi đến mấu chốt vấn đề trong câu chuyện kỳ lạ của ông quản gia.
“Ông ấy còn nói một điều gì đó khác nữa”, ông quản gia nhắc lại, giọng nói nhỏ như đang thì thầm. “Tôi nghe được vì đúng lúc đó tôi đi qua phòng của họ. Gjaernaes nói: Nhưng anh ta sắp lìa đời rồi.”
Vị thám tử lắng nghe, nét mặt không biểu lộ điều gì.
“Ông ấy nói câu đó với ai?”
“Với cô chủ.”
“Tại sao không nói với kiểm lâm Blinde có mặt ở đó?”
““Lúc đó Blinde không có mặt; anh ta đang chờ trong phòng của cô chủ. Cô chủ và Gjaernaes ở trong phòng làm việc.”
“Ông có đoán được Gjaernaes muốn nói đến ai hay không?”
“Làm sao tôi biết được?”
Ông quản gia nhút nhát nhìn sang bên cạnh. “Nhưng có lẽ ông đã có suy nghĩ riêng của mình,” ông ta nói, “trong đêm đó, việc đáng sợ ấy đã xảy ra trên cánh đồng hoang. Viên kiểm lâm rời trang trại vào lúc 11 giờ.”
Asbjörn Krag ngồi im lặng một lúc lâu, rồi hỏi thẳng vào vấn đề.
“Làm sao Gjaemaes lại có thể liên quan đến vụ giết người này? Gjaernaes ở lại trang trại kia mà.”
Ông quản gia không trả lời, chỉ cúi đầu ngồi đó và ngượng ngùng xoay xoay chiếc mũ giữa những ngón tay. Sau một lúc lưỡng lự, ông ta lẩm bẩm:
“Tôi không có ý định đi gặp các ông nhưng rồi lại nghe được một chuyện khác. Tôi nghe người ta nói rằng ông đi khắp nơi và hỏi về một con ngựa… hay một chiếc xe.”
“Phải, tôi muốn biết rõ xem có ai trong vùng này đi lại bằng một chiếc xe trong đêm đó hay không.”
Ông quản gia ngẩng đầu lên.
“Hẳn là không có ai đúng không?”
“Không có ai… cả ông cảnh sát trưởng lẫn ngài mục sư đều không.”
“Hay là Gjaemaes?”
“Gjaemaes cũng không.”
Không ai nói gì một lúc lâu.
Vị thám tử lại hỏi. “Gjaemaes có nói gì với ông khi chúng tôi rời trang trại hôm đó không?”
“Ông có thể tự đoán ra được mà,” ông quản gia trả lời. “Cậu ấy yêu cầu tôi giữ kín mọi chuyện, điều mà bây giờ ngày nào cậu chủ cũng nói, kể từ khi nhận được lá thư đó.”
“Ông phải giữ kín chuyện gì?”
Sau khi ngần ngừ một lúc lâu, ông quản gia bắt đầu lắp bắp thật chậm, “Gjaemaes… đúng là có đi ra ngoài bằng xe của ông ấy.”
Tôi đã nghĩ Asbjörn Krag hẳn phải đứng bật dậy sau thông tin mang tính quyết định này, nhưng ông ta vẫn ngồi hết sức bình thản, tựa như không có gì xảy ra. Sự bình thản ấy khiến tôi bực mình, cảm giác khó chịu lấn cấn trong lòng. Tôi rất muốn đi ra ngoài để làn gió mùa hè làm dịu bớt gương mặt đang nóng rực của mình. Tuy vậy tôi vẫn ngồi yên như đã bị tê liệt, với những sợi dây thần kinh căng như dây đàn. Tôi muốn nói hay hỏi một điều gì đó, nhưng không dám mở miệng vì sợ chính giọng nói của mình; cổ họng tôi nặng nề đau đớn đến mức tôi không thể nói được gì. Còn người đàn ông kia thì cứ ngồi đó - mỉm cười, với đôi mắt khép hờ, tỉnh bơ! Trong khoảnh khắc này, tôi càng thấy ông ta thật đáng ghét. Ông ta xứng đáng bị như vậy, vì tôi biết rằng tôi không thể đoán dược suy nghĩ của ông ta, dù chỉ một điều. Ông ta đang nghĩ gì? Ông ta tin điều gì, ngay lúc này? Đúng lúc đó, ông ta lên tiếng, chậm rãi đến bực mình, bằng một giọng lãnh đạm:
“Tức là Gjaemaes cũng đánh xe đi ra ngoài trong đêm đó, à há?”
“Vâng,” ông quản gia trả lời, “và không ai ở trang trại biết điều đó, ngoài tôi. Ngay sau khi viên kiểm lâm đi khỏi, Gjaemaes yêu cầu tôi âm thầm thắng ngựa vì muốn đi ra ngoài. Điều này thật là kỳ lạ, ông ấy còn muốn đi đâu trong đêm khuya như vậy? Và tại sao không ai được phép biết điều này? Tôi lặng lẽ dẫn ngựa ra phía sau sân trong, nơi chúng tôi để một chiếc xe ngựa ở đó, và thắng chúng vào chiếc xe này.”
“Tại sao ông lại dùng đúng chiếc xe đó?”
“Tôi không thể đi vào nhà để xe, vì nếu làm thế tôi sẽ đánh thức mọi người dậy hết. Như thế thì làm sao giữ bí mật được việc cậu chủ muốn đi ra ngoài?”
“Ông ta đi một mình à?”
“Chỉ một mình. Tôi đề nghị cho tôi đi cùng, nhưng vừa mới nghe vậy cậu chủ đã giật mình thấy rõ và quát. Ông điên rồi à? Tôi phải hứa là sẽ đi ngủ ngay và không cần phải chờ cho đến khi cậu chủ về. Gjaemaes chạy xe ra cánh đồng hoang. Tôi đứng nhìn theo cho tới khi chiếc xe biến mất trong màn đêm, rồi tôi đi ngủ.”
“Ông ngủ ngay sau đó chứ?”
“Không, tôi không ngủ được. Tôi nằm thức trắng đêm, và nghĩ về những gì tôi đã nhìn thấy và nghe được. Trong lúc đó, tôi có cảm giác nhất định đã xảy ra chuyện gì đó thật kỳ lạ. Cậu chủ trông thật đáng sợ khi rời đi, giống như đang say rượu; nhưng tôi chắc chắn rằng cậu ấy chưa uống giọt nào cả.”
“Ông có nghe thấy tiếng ông ta trở về không?”
“Có, tôi nghe thấy tiếng ngựa và tiếng ồn từ chuồng ngựa khi cậu ấy trở về.”
“Ông ta dùng chiếc xe trông như thế nào để ra ngoài?”
“Một chiếc xe cũ, cọc cạch.”
“Bằng sắt à?” Vị thám tử hỏi.
Ông quản gia mỉm cười.
“Tôi biết ông có ý gì,” ông ta trả lời. “Tôi cũng đã nghe được câu chuyện xưa cũ đó, nhưng tôi không tin chuyện ma quỷ. Chiếc xe cũ ấy hẳn là gây khá nhiều tiếng ồn, nhưng dù thế nào đi nữa thì rất khó mà phân biệt được nó với những chiếc xe khác khi nó đã đi khá xa.”
“Nếu thế thì nó không phải là chiếc xe mà tôi nghe được phải không?” Tôi sốt sắng nói xen vào.
“Chính nó đấy,” ông quản gia mỉm cười trả lời, “ông nghe đúng tiếng chiếc xe này đấy.”
Tôi im lặng.
Vị thám tử hỏi, “Nhưng sau đêm đó thì ông không nhìn hoặc nghe được điều gì kỳ lạ ở trang trại nữa chứ?”
“Ngược lại. Trang trại bây giờ có điều bí mật; tôi có cảm giác như nhiều điều kỳ lạ xảy ra mọi lúc mọi nơi. Bản thân cậu Gjaernaes và cô chủ cũng hoàn toàn khác trước đây.”
“Ông nghĩ gì khi nghe tin về vụ giết người?”
“Tôi không nghĩ gì cả,” ông quản gia lầm bầm, “nhưng khi tôi biết rằng ông đi khắp nơi để hỏi về một chiếc xe thì lương tâm tôi không cho phép tôi cứ lặng im về những gì tôi biết.”
“Tôi biết là ông sẽ tới gặp tôi,” vị thám tử nói cộc lốc.
“Ông nhìn tôi một cách rất kỳ lạ khi từ giã Gjaernaes lúc ra về,” ông quản gia trả lời. “Tôi không được phép chần chừ lâu hơn nữa.”
Ông ta đứng dậy.
“Tôi cũng không nghĩ rằng mình đã làm điều gì không đúng,” ông ta nói tiếp. “Tôi đã nói với cậu chủ rằng tôi muốn tới gặp ông.”
“Ông ta có muốn ngăn cản ông không?”
“Tất nhiên rồi, những khi nhận ra là không thể nào ngăn cản được tôi thì cậu ấy đã nhấn mạnh rằng tất cả những gì xảy ra chỉ liên quan đến bản thân cậu thôi.”
Asbjörn Krag ngồi đó rất lâu, trầm ngâm suy nghĩ.
“Bây giờ thì ông có thể trở về trang trại,” cuối cùng Asbjörn Krag nói.
“Thưa, vâng.”
“Thế thì cho tôi gửi lời hỏi thăm Gjaernaes và nhờ ông hỏi ông chủ giúp tôi rằng, khi nào thì ông ta cảm thấy thích hợp để tiếp tôi?”
“Thích hợp ư?” Tôi ngạc nhiên nói to.
Asbjörn Krag xua xua tay về phía tôi và tiếp tục nói với ông quản gia:
“Thêm nữa, ông có thể nói với ông ta rằng tôi không muốn đi sâu vào những chuyện bí mật của ông ta.”
Ông quản gia rời đi không lâu sau đó, và tôi ở lại với Asbjörn Krag.
“Ông đang nghĩ gì?”
“Tôi cảm thấy Gjaemaes tiêu tùng rồi,” tôi trả lời. “Đó thật là một điều bất hạnh - một người bạn đáng thương!”
Nhưng những ý nghĩ của Asbjörn Krags hẳn phải đi xa lắm rồi, vì ông ta nói mơ hồ:
“Tiêu tùng rồi, vâng, vâng. Ông có ý thế à?” Ông ta càng lúc càng ít nói, và tôi cho rằng ông ta muốn yên tĩnh suy nghĩ nên đã rời khỏi đó.
Tôi đến phòng ăn để ăn bữa tối khá muộn, mãi 11 giờ mới ăn xong. Khi tôi đi ngang qua cửa sổ phòng ông ta, tôi nghe thấy tiếng bước chân qua lại. Nhưng vì không muốn quấy rầy ông ta nên tôi lại trở về căn nhà nhỏ của tôi. Một cơn mưa dông đang kéo đến. Cho đến lúc đó thì trời quang mây tạnh, nhưng đột nhiên mưa ầm ào kéo đến từ phía chân trời. Gió thổi rất mạnh, mang theo không khí ẩm ướt và không gian bắt đầu mịt mùng. Cơn dông bão kéo đến bất chợt, tựa như một làn hơi nước nhanh chóng đọng lại trên tấm kim loại khi người ta hà hơi vào. Biển xô những đợt sóng xanh xám vào cảng. Vài tiếng trước vẫn còn lặng sóng, nhưng bây giờ mặt biển phía chân trời đang đổ xuống, tạo thành một rãnh sâu màu đen ở ngoài khơi; mưa bão bắt đầu tiến đến gần.
Tôi đi nhanh dọc theo bãi biển để có thể mau chóng về đến ngôi nhà nhỏ. Bất giác, tôi cũng nhận thấy nó cô đơn thế nào khi nằm ở ngoài này. Tôi chưa từng có cảm giác ấy trước đây, và tôi hối hận rằng đã không cố gắng tìm một nơi ở khác. Khi tôi đóng cánh cửa sau lưng lại thì nước mưa cũng đã chảy dài trên các tấm kính cửa sổ.
⚝ ⚝ ⚝
Bạn đọc sẽ hiểu rằng sau tất cả những gì đã trải qua và nghe thấy, tôi không tài nào ngủ được.
Tôi khóa cửa, kéo màn che các cửa sổ lại và bật đèn. Rồi tôi cố gắng đọc một cuốn sách nhưng nhiều câu tôi phải đọc đi đọc lại mà vẫn không hiểu gì. Tôi không thể tập trung tâm trí được. Cuối cùng, tôi đặt cuốn sách xuống, nhắm mắt và nhắc lại câu nói cuối cùng của Asbjörn Krag, “Xong rồi, vâng, vâng. Ông có ý thế à?…”
Dần dần, tôi bình tĩnh lại và ngủ thiếp đi; trong lúc nghe tiếng mưa nhỏ dần rồi tạnh hẳn. Có lẽ tôi đã ngủ được một hay hai phút nhưng rồi đột ngột choàng dậy vì tiếng đập cửa ồn ào.
Thật sự là có người đang gõ cửa.
Ý nghĩ đầu tiên của tôi là: Cửa khóa rồi, thật là tốt!
Nhưng ai đó vẫn tiếp tục gõ cửa.
“Ai đấy?” Tôi lên tiếng hỏi to.
Không có tiếng trả lời. Tôi có thể đếm được nhịp tim của mình, ngực trái rung lên thình thịch. Sợ hãi lúc này thật ngớ ngẩn nhưng cũng dễ hiểu, bởi tôi giật mình tỉnh dậy từ một giấc ngủ không sâu.
Lại có tiếng gõ cửa bằng những ngón tay xương xẩu, cứng rắn vang lên. Đó thực sự là một cảm giác khó tả, khi biết rằng có ai đó đứng ở ngoài kia trong bóng đêm. Là ai thế nhỉ?
Tôi hỏi, giọng to hết sức có thể. Cuối cùng cũng có tiếng trả lời, nhưng tôi không hiểu được nó; tiếng nói vừa trầm vừa lùng bùng.
“Ai đó?”
“Hãy mở cửa,” giọng nói ấy trả lời.
Đó là vị thám tử. Tôi xoay chìa khóa và mở tung cánh cửa. Ông ta đứng đó, trong ánh sáng lờ mờ. Ông ta chào tôi một cách châm biếm, hạ mũ xuống múc thấp nhất để lộ cái đầu hói loang loáng trong màn đêm.
“Ông đấy à?” Tôi ngạc nhiên hỏi. “Sao đến muộn thế?”
“Vâng,” ông ta trả lời. “Đã 1 giờ đêm rồi. Tôi làm ông giật mình à?”
“Không đâu.”
“Ôi, cứ thừa nhận đi! Ông ngủ chưa?”
“Chưa.”
“Sao ông còn chưa đi ngủ?”
Tôi tin rằng ông ta đang giễu cợt tôi và bắt đầu thấy bực mình, nhưng ông ta nhanh chóng nói tiếp mà không chờ câu trả lời của tôi:
“Tôi hy vọng ông thứ lỗi cho tôi, nhưng tôi đến đây với một yêu cầu quan trọng.”
“Tại sao ông không trả lời ngay khi tôi hỏi lần đầu?”
Asbjörn Krag cười khổ không thành tiếng. Đèn chỉ vừa đủ sáng để nhìn thấy ông ta, nhưng tiếng cười ấy như phát ra từ chốn tranh tối tranh sáng.
“Xin lỗi,” ông ta nói, “tôi thử nghiệm thôi. Tôi nghĩ là ông sợ và cảm thấy buồn cười khi nghe ông hỏi to thêm lần nữa. Tôi nghĩ chỉ một người đang sợ hãi mới hỏi như thế.”
“Thế thì ông lầm rồi,” tôi trả lời và đóng bớt cánh cửa lại. “Như ông thấy đấy, tôi đang chuẩn bị đi nghỉ. Tôi không muốn bị quấy rầy.”
Nhưng ông ta cứ đẩy chiếc gậy đi đường vào giữa cửa.
“Đi với tôi nào,” ông ta nói, “tại sao ông lại muốn bỏ lại tôi một mình vào đúng lúc này nhỉ?”
“Có chuyện gì thế? Có chuyện gì lạ thường xảy ra à?”
“Đúng thế.”
Tôi nhận thấy nét mặt Asbjörn Krag có vẻ rất nghiêm trọng và nhanh chóng quyết định sẽ đi cùng ông ta, dù thế nào đi chăng nữa. Vì vậy tôi đội mũ lên, sau đó hết sức nhẹ nhàng mở ngăn kéo cất súng ra.
“À,” tôi nghe tiếng vị thám tử lẩm bẩm, “ông mang theo súng.”
“Một thói quen từ những chuyến đi xa của tôi,” tôi trả lời. “Có nhiều điều kỳ lạ xảy ra ở ngoài kia. Tôi có cần mang theo áo mưa không?”
Asbjörn Krag ngẩng lên nhìn trời.
“Mây tan rồi,” ông ta nói, “chắc không mưa nữa đâu.”
Và chúng tôi lên đường.
Đi được khoảng trăm bước chân, Asbjörn Krag đứng lại nói:
“Ông quên tắt đèn rồi.”
Ông ta chỉ tay về phía ngôi nhà nhỏ của tôi, im lìm trong đêm hè tĩnh mịch, trông thật sự giống một ngôi nhà của người canh gác hải đăng.
“Vâng,” tôi nói, “nhưng không sao cả. Tôi sẽ không mất công đốt lại cây đèn khi trở về. Hy vọng là chuyến đi này không lâu lắm.”
Vị thám tử không trả lời, nhưng sau khi chúng tôi đi được nhiều lắm cũng chỉ trăm bước nữa, ông ta lại hỏi:
“Ông cố tình không tắt đèn à?”
“Tôi không hiểu ý của ông.”
Asbjörn Krag lại cười, nhưng ngắn và ngưng đột ngột.
“Nhà của ông ở nơi vắng vẻ,” ông ta nói, “rất vắng vẻ - và đúng là trong đêm nay thực sự rất tối tăm.”
Như để xoa dịu cơn giận dữ đang trỗi dậy trong tôi, ông ta nhẹ nhàng nắm lấy cánh tay tôi, liên tục đưa ra vài câu xin lỗi, rằng ông ta đã quấy rầy tôi.
“Vâng, tại sao ông lại đến gọi tôi?” Tôi hỏi, giọng mất kiên nhẫn.
“Tôi muốn giải thích với ông,” ông ta trả lời. “Có những lúc tôi không thể tin vào giác quan của mình. Tôi đã nghe được tiếng động nào đó trong đêm nay.”
“Tức là ông vẫn còn thức à?”
“Phải, và không chỉ đêm nay. Tôi ngủ rất ít, ông bạn thân mến ạ.”
“Ông đã nghe được gì?”
“Tôi nghe tiếng chiếc xe sắt,” vị thám tử trả lời.
Ông ta nói điều đó nhẹ bẫng như không, hoàn toàn không chút cảm xúc nào, giống như người ta nói về một bài hát hoặc tiếng chim hót. Chúng tôi cứ thế tiếp tục bước đi trong đêm tối. Sóng biển vỗ rì rầm lên bờ, chúng tôi không thể nghe được tiếng bước chân của mình.
“Có thể ông không tin tôi,” vị thám tử nói tiếp, “vì ông không trả lời gì cả.”
“Có, tôi tin ông, nhưng tôi phải nói gì đây?”
Chúng tôi mở một cái cổng và đi ngang qua vài ngôi nhà. Không có chút ánh sáng nào, tất cả các cửa sổ đều tối đen. Tôi có cảm giác như những căn nhà đó giờ đã bỏ hoang, không một bóng người, và tất cả mọi người đều đã đi xa, rất rất xa. Chúng tôi không thấy được gì nhiều, con đường, cây cối và nhà cửa, tất cả đều xuất hiện trong bóng tối khi chúng tôi bước tới. Xung quanh chúng tôi, những chỏm cây cao màu đen nhô lên như một bức tường tăm tối.
“Chúng ta đi đâu?” Tôi hỏi.
“Ra ngoài cánh đồng hoang,” Asbjörn Krag trả lời.
“Ông tin là có chiếc xe sắt à?”
“Tôi đã nghe được tiếng của nó. Tôi đứng ở cạnh cửa sổ mở và nghe tiếng nó ở rất xa, như tiếng loảng xoảng của dây xích sắt. Tiếng động ấy được gió mang đến chỗ tôi, và bây giờ thì tôi muốn đi ra cánh đồng hoang để xem nó là cái gì mà lại đang chạy lòng vòng trong đêm như vậy.”
Chúng tôi đi vào khu rừng; cây cối bao quanh chúng tôi khắp mọi phía một cách ngột ngạt. Bây giờ, chúng tôi không còn nghe được tiếng động nào nữa, tiếng rì rầm của biển cũng không vào được đến đây. Chúng tôi rảo bước nhanh hơn.
“Ông có nghĩ rằng không lâu nữa trời sẽ sáng không?”
“Nửa giờ nữa trời sẽ bắt đầu rạng sáng,” Krag trả lời.
Nhưng trời như đã bình minh khi chúng tôi bước ra khỏi khu rừng. Tôi có thể nhìn rõ từng thân cây gần nhất và nhìn xa ra cánh đồng hoang trước khi bị bóng tối che mắt.
Ở bên phải chúng tôi, những ngọn núi như đâm thủng bầu trời đêm tối tăm. Ngôi nhà của những người đào cát nằm cạnh chân núi với mái nhà rộng và nhô ra phía trước, dễ khiến người ta liên tưởng tới một bàn tay che nắng cho đôi mắt.
“Ông có nhìn thấy ngôi nhà màu xám đó không?” Vị thám tử hỏi. “Trông như một sinh vật sống, đang nhìn trừng trừng chúng ta.”
Tôi bất chợt nói thêm vào, hoàn toàn không có chủ ý gì:
“Vâng, nhưng xác chết đã được lấy đi rồi.”
Chúng tôi đứng đó và lắng nghe.
Tôi không nghe thấy gì.
“Cái đồng hồ khốn kiếp,” Asbjörn Krag thì thào, “tôi chỉ nghe thấy tiếng của nó!”
Khi được nhắc về cái tiếng ấy, tôi cũng nghe được tiếng tíc tắc vô tận…
Krag lôi nó ra khỏi túi và giữ không cho nó chạy nữa.
Tuy nhiên, những đêm như vậy luôn vang lên tiếng ù ù trầm trầm không ngứt. Nếu không nghe thấy gì thì bạn sẽ chỉ thấy xung quanh mình toàn tĩnh lặng và chết chóc, nhưng nếu lắng tai nghe thì kể cả tĩnh lặng cũng sẽ bắt đầu thì thầm. Có thể là tiếng gió thổi qua những ngọn cây, càng cố lắng nghe thì tiếng càng lớn. Mà cũng có thể là chẳng có tiếng gì thật; như thể chính sự tĩnh lặng ấy đang thì thầm trong tai ta, những tiếng vù vù đều đều lớn dần thành một cơn bão dữ dội ở đằng xa. Một gợi ý, một ấn tượng về thứ gì đó vĩ đại, đầy bí ẩn nằm ngoài những giác quan của con người.
“Chúng ta đi thôi!” Krag nói.
Tôi muốn hỏi ông ta rằng chúng tôi sẽ đi đâu, nhưng vừa mở miệng nói được mấy từ: “Tôi không hiểu chúng ta đang…,” thì Asbjörn Krag đã nắm chặt lấy cánh tay tôi.
Không cần phải vận hết mọi giác quan, vì bây giờ chúng tôi nghe thật rõ ràng tiếng ồn ào đặc trưng của kim loại đang vọng tới từ xa, nghe như tiếng những nô lệ kéo lê sợi xích trên mặt đất ở phía chân trời vậy. Đó chính là cỗ xe sắt.
Tiếng động ấy to lên và rồi lại giảm dần. Trong giây lát, tôi cảm giác âm thanh đó ồn ào đến nỗi tôi có thể nghe thấy cả tiếng trục bánh xe lăn ầm ầm nhưng rồi ngay sau đó lại nhỏ dần, văng vẳng, vang đến từ độ xa chừng một dặm và tắt ngúm, để rồi lại to dần lên, giội thẳng vào tai chúng tôi.
Chúng tôi đứng đó lắng tai nghe tiếng động của chiếc xe sắt chừng mười phút hoặc hơn thế.
“Tôi có cảm giác nó chạy lòng vòng,” Asbjörn Krag lẩm bẩm, “giống như nó chạy một vòng tròn rất lớn trên cánh đồng hoang.”
Ông ta cố nhìn qua màn đêm, nhưng tù mù và tuyệt không thể thấy gì. Thế là ông ta bực dọc chửi thề.
Tôi hỏi ông ta rằng chúng tôi có nên đi ra cánh đồng hoang với hy vọng nhìn thoáng qua được chiếc xe ngựa bí ẩn ấy không.
“Nhưng chúng ta phải đi theo hướng nào bây giờ?” Krag hỏi lại gần như tức khắc. “Không thể biết được tiếng động ấy đến từ đâu, nó cứ đi một vòng thật lớn, lúc ở hướng bắc, lúc ở hướng tây. Ông cứ nghe đi, giờ thì dường như nó đang đến gần!”
Và thật sự có vẻ như vậy, vì tiếng động leng keng rổn rảng của sắt càng lúc càng ồn ã và rõ ràng.
Ngay sau đó, Krag nói:
“Bây giờ nó không còn xa nữa đâu.”
“Tôi chỉ nghe được tiếng bánh xe lóc cóc,” tôi thì thầm, “và hoàn toàn không có tiếng vó ngựa. Đó phải là một chiếc xe kỳ lạ.”
Nhưng chúng tôi vẫn không nhìn thấy nó. Chiếc xe ấy chạy trong bóng tối. Chúng tôi bất giác nép sát vào những thân cây vì có cảm giác như nó sẽ xuất hiện từ trong bóng tối chỉ trong vòng vài phút nữa, và chạy ngang qua chỗ chúng tôi.
Đột nhiên, Asbjörn Krag nắm lấy tay tôi.
“Ông có nghe thấy không?” Ông ta thì thầm, gương mặt hết sức căng thẳng.
“Tôi không nghe được gì khác ngoài chiếc xe sắt.”
“Tôi có cảm giác,” ông ta lẩm bẩm, “như nghe được một tiếng hét… Nhưng có thể tôi nhầm.”
Cho tới lúc ấy, chiếc xe chạy ở phía ngay trước mặt chúng tôi; nhưng giờ thì dường như nó đã đổi hướng và biến mất sau cánh rừng. Bất thình lình, tiếng động loảng xoảng của sắt cũng không còn rõ nữa.
“Trời đất ơi,” tôi nói, “nó chạy ra hướng biển!”
“Không có con đường nào bên kia khu rừng à?”
“Không, hoàn toàn không có con đường nào hết - chỉ có đá tảng và hố cát thôi.”
Không nghi ngờ gì nữa, chiếc xe chạy thẳng ra biển, tiếng những bánh xe sắt đang lăn tắt dần khi nó chạy đi xa.
“Hẳn là nó sẽ vỡ thành trăm mảnh thôi,” tôi nói to, “thật điên rồ!”
“Nhưng tiếng động nghe vẫn đều đặn,” Asbjörn Krag nói và nhìn vào màn đêm đen tối trong khu rừng. “Chỉ là nghe nó tiếp tục đi xa dần thôi.”
“Bây giờ thì nó sắp ra đến bãi biển rồi,” tôi nói vì biết rõ vùng này. Krag gật đầu.
Rồi tiếng ồn đó bỗng nhiên tắt hẳn.
“Chiếc xe không chạy nữa rồi,” tôi nói.
“Hay là nát bét rồi!” Krag trả lời. “Đi thôi, chúng ta đến đó.”
Ông ta phăm phăm bước đi trước mà không chờ tôi. Tôi đi theo sau, nhưng ông ta đi rất nhanh và bỏ tôi một đoạn xa tới múc ông ta gần như biến mất vào màn đêm.
Chúng tôi đi đến phía bên kia cánh rừng và bắt đầu xuống dốc. Bóng đêm đã lui bước, đủ để chúng tôi nhận ra biển cả thấp thoáng phía dưới. Làn gió lạnh thổi tới chỗ chúng tôi; cái lạnh như xuyên thấu lồng ngực. Krag đứng lại, nhìn xuống con dốc lớn. Đâu đó, những cành thông đã bị gió biển thổi hướng vào trong đất liền không ngừng. Con dốc đầy những tảng đá, hố và những đụn cát do gió thổi dồn lại với nhau, cỏ mọc lưa thưa và thấp, dễ khiến người ta liên tưởng đến một gương mặt râu ria lởm chởm. Không có đường đi, gần như không thể đi bộ xuống dưới đó chứ không nói đến đến đi xe! Làm sao một chiếc xe có thể di chuyển ở đây được? Nó sẽ tan nát ra ngay lập tức. Nhưng mặc dù vậy, chúng tôi đã nghe được tiếng động của những bánh xe đang lăn đi, đều đặn và theo nhịp; cứ xa dần, cho tới khi tắt hẳn. Bây giờ nó đang ở đâu? Chúng tôi nhìn chăm chú xuống con dốc, đảo mắt nhìn khắp nơi nhưng chỉ thấy cỏ, đá, những đống cát mà không thấy chiếc xe nào.
Asbjörn Krag đi một đoạn dài xuống con dốc và nhìn xuống đất suốt trong thời gian đó.
Rồi quay lại nhìn tôi, ông ta nói, “Không có dấu bánh xe!”
“Không có dấu bánh xe,” tôi ngơ ngác nhắc lại. “Thế thì có thể chiếc xe ấy không chạy theo hướng này.”
“Nó không thể nào chạy xuyên qua khu rừng rậm được,” vị thám tử nói. “Đi thôi, chúng ta hãy trở về cánh đồng hoang.”
Khi chúng tôi quay lại, xa tới mức không còn nhìn thấy biển được nüa, Asbjörn Krag hỏi:
“Chiếc xe đổi hướng độ chừng ở đây, chúng ta có thể biết được điều ấy qua tiếng động.”
“Hay là xa hơn một chút nữa?” Tôi hỏi.
Asbjörn Krag suy nghĩ.
“Phải, có lẽ thế,” ông ta lẩm bẩm.
Chúng tôi đi tiếp vài bước, nhưng rồi tôi bất ngờ đứng lại.
“Ông có biết khu này không?” Tôi thì thầm.
Vị thám tử chớp mắt nhìn tôi, gần như giễu cợt.
“Có,” ông ta trả lời, “tôi biết rõ khu này. Tại sao mặt ông lại tái nhợt như vậy?”
“Tôi có tái nhợt đâu,” tôi trả lời, “nhưng những đêm không ngủ liên tục như thế này chắc đã làm cho thần kinh tôi không còn vững nữa.”
Rồi tôi chỉ về phía trước:
“Kia là nơi chúng tôi tìm thấy viên kiểm lâm, cạnh hòn đá màu xám. Nạn nhân nằm úp mặt xuống đất.”
Asbjörn nhăn trán.
“Ở bên cạnh hòn đá xám ư? Không thể được!” Ông ta lẩm bẩm, và nhìn quanh xem xét. “Tôi không hiểu hòn đá ấy ở đâu ra.”
Tôi cười to và trả lời:
“Nhưng có một hòn đá nằm ở đó, và chính xác là nơi chúng tôi tìm thấy người chết.”
Asbjörn Krag đi tới nơi. Tôi thấy ông ta cúi người nhìn xuống hòn đá xám, thế rồi tôi cũng chạy nhanh tới đó.
Đó không phải là một tảng đá xám, mà là một người đàn ông già nằm ở đó. Ông ấy có một vết thương đáng sợ ở sau đầu.
“Ông ấy chết rồi,” Asbjönr Krag nói và xoay người nạn nhân lại để có thể nhìn thấy gương mặt. “Ông ấy chết chưa được mười lăm phút!”
Giờ thì tôi không nhớ được tôi đã nghĩ gì hay có cảm giác nào chính trong khoảnh khắc đó. Có lẽ tôi đã không nghĩ thông suốt. Tôi nhìn xác nạn nhân mà không sao hiểu nổi, như thể mình đã tê liệt vì cảm nhận được một thực thể kỳ bí và vô thực. Tôi không sao nói nên lời. Tuy nhiên, tôi vẫn nhớ là mình đã hành động trong vô thức và bối rối. Tôi cúi xuống bới quần áo nạn nhân; bộ đồ kẻ sọc bằng vải dày. Asbjörn Krag đánh thức tôi.
“Chiếc xe sắt đã giết chết ông ấy.”
“Chiếc xe sắt… ” Tôi lẩm bẩm.
“Phải,” vị thám tử trả lời, “ông không nhận ra ông ta sao?”
Tôi nhìn vào gương mặt già nua xám xịt của người đàn ông. Tôi biết người này, tôi đã nhìn thấy ông ấy ở đâu nhỉ? Ý nghĩ của tôi trôi đi lan man, tôi cố lục lọi trong trí nhớ của mình.
“Ông không nhớ tấm hình ấy sao?” Vị thám tử hỏi một cách cộc cằn. “Tấm hình trong phòng của Gjaernaes, với bộ râu nhọn, mũi khoằm và đôi mắt nhỏ?”
Tôi kinh hoàng nhìn vị thám tử.
“Đúng rồi, đúng rồi, ông già Gjaernaes, người đang nằm đây là ông già Gjaernaes. Trời đất ơi, nhưng ông ấy chết đuối vào bốn năm trước rồi mà?”
“Nhưng mãi tới bây giờ, ông ấy mới chết thực sự,” Asbjörn Krag trả lời.
Vị thám tử cẩn trọng nắm lấy cánh tay tôi.
“Ông đứng không vững kìa,” ông ta nói, “rõ ràng là thần kinh ông kém quá.”
Bây giờ thì môi tôi sắp sửa tái xanh, và hơi ấm chạy rần rần dọc phía sau đầu và gáy, dấu hiệu báo trước cho tôi biết rằng một cơn bất tỉnh sắp đến. Phong cảnh bắt đầu méo mó qua đôi mắt vô hồn của tôi. Tôi nhìn thấy ban ngày đang vén rèm, một dãy sáng dài nhô lên trên cánh đồng hoang và rải những tia nắng xuống khu rừng. Những cây thông ở hàng đầu tiên óng ánh như được dát vàng. Tôi nhìn người chết, nhìn Asbjörn Krag, rồi lại hướng ánh mắt qua cánh đồng hoang. Tôi không thể hiểu gì hết và trong vài giây tôi đã bị choáng ngợp bởi cảm giác như đang trong mơ. Tuy thế, các giác quan của tôi vẫn hoạt động và thu thập thông tin. Một hình ảnh dị thường của bình minh, kéo dài chưa tới mười giây, đã in hằn vào tâm trí tôi. Bầu trời ở phía đông không còn là bầu trời nữa, mà là một vực thẳm đầy ánh sáng đang dẫn đến những thế giới xa xôi còn chưa được biết tới. Mây đùn thành từng ụ ở chân trời, tập hợp thành những hình dạng kỳ quái, như những con thú lạ thường với những cái bờm đang cháy bừng bừng, những tia lửa bắn ra từ những cái móng có cánh - một bầy thú hoang đang bị những dây cương làm từ muôn vàn tia sáng mặt trơi rực rỡ kìm hãm; đó là đội tiên phong của đoàn kỵ binh vàng trong ngày. Rồi mặt trời mọc ở chân trời, vang lên tiếng động ầm ì…
Tôi nghe thấy giọng nói của Asbjörn Krag từ phía xa, rất xa.