GƯƠNG MẶT
Cơn bất tỉnh của tôi kéo dài nhiều giờ. Khi tỉnh lại, tôi cảm nhận được cơ thể mình đang bị ai đó lắc dữ dội. Tôi nằm trong xe, nghe tiếng nói và nhìn thấy một gương mặt quen thuộc. Đó là ông cảnh sát trưởng.
“Ông tỉnh rồi à?” Ông ta hỏi. “Ông cứ nằm yên, chúng ta sắp tới nơi rồi.”
“Mấy giờ rồi?” Tôi hỏi.
“7 giờ,” ông ta trả lời.
“7 giờ sáng ư?”
Ông ta cười to.
“Đúng thế.”
Các sự kiện trong đêm khuya giờ chỉ là hư ảo trong tâm trí tôi. Nhưng tôi không dám hỏi vì không biết là mình đã nằm mơ hay đã bị ốm.
“Asbjönr Krag đâu rồi?”
Ông cảnh sát trưởng hất đầu.
“Ở đằng kia, trên cánh đồng hoang.”
Tức là tôi đã thực sự trải qua những việc đó. Tôi ngồi dậy trong xe. Chúng tôi đã tới gần cảng nơi người dân đang đến và chuẩn bị tàu thuyền, tức là chẳng bao lâu nữa tôi sẽ ở trong ngôi nhà nhỏ của mình. Bị cơn mệt mỏi đáng sợ đè nặng, tôi khao khát được ngủ một giấc sâu trên chiếc giường của mình.
Nhưng tôi không muốn mình yếu ớt tới vậy, nên tôi đã cố gắng tự trèo xuống xe một cách mệt nhọc. Khi đến ngôi nhà nhỏ, tôi nhìn thấy cây đèn trên bàn vẫn đang cháy. Tôi tắt nó đi và lao lên giường ngay lập tức. Khi tôi thức giấc vào 4 giờ chiều, Asbjörn Krag đã đang ngồi trong phòng.
Tôi cảm thấy mình như đã hoàn toàn khỏe lại và muốn ngồi dậy.
“Ông hãy nằm thêm chút nữa,” Asbjörn Krag nói. “Nghỉ ngơi sẽ tốt cho ông.”
“Tôi đã trải qua một đêm kỳ lạ,” tôi trả lời, “và không biết cái gì là mộng, cái gì là thực.”
Vị thám tử mỉm cười.
“Dù sao đi nữa thì chúng ta cũng không nhìn thấy chiếc xe sắt,” ông ta nói, “và đó mới là mục đích của chúng ta.”
“Không, điều này thì tôi nhớ. Chúng ta cũng không tìm thấy dấu vết nào của nó.”
“Nó không để lại dấu vết nào cả.”
“Có phải ông đang xúi cho tôi tin vào chiếc xe ma đó không, ông Krag thân mến?”
“Hoàn toàn không phải thế. Nhưng chiếc xe sắt này không để lại dấu vết.”
“Ông đã phát hiện ra bí mật gì à?”
“Đúng thế.”
“Và tìm thấy chiếc xe?”
“Chưa, nhưng không lâu nữa tôi sẽ tìm thấy nó. Nếu ông đã hoàn toàn khỏe lại, chúng ta có thể cùng nhau đi làm việc, và rồi chúng ta sẽ tìm thấy chiếc xe sắt.”
“Một nhiệm vụ mới…?” Tôi lầm bầm, nghi ngại dò xét thái độ của vị thám tử.
Ông ta lại mỉm cười.
“Tôi đoán được ý nghĩ của ông đấy,” ông ta nói, “chỉ là ông ngại không muốn hỏi thôi.”
Điều này thì đúng. Tôi vốn e dè mấy chuyện hỏi han. Tôi vẫn nhớ rõ hình ảnh của người chết trên cánh đồng hoang ấy, ông già Gjaemaes, người được cho là đã chết đuối bốn năm về trước. Tôi hẳn đã nằm mơ, nhưng lại rõ ràng và sinh động đến phát sợ. Toàn cảnh bình minh kỳ quái lại trở về trong tâm trí của tôi, tôi có thể nhớ rõ mọi chi tiết, những bãi cỏ trên cánh đồng hoang, những thân cây sáng lên như dát vàng trong ánh sáng đầu tiên của ngày mới, bộ com-lê của người chết được may bằng vải sọc - nhưng tất cả những điều đó phải chăng là một giấc mơ?
“Tôi phải rời khỏi đây,” tôi nói, “tôi bắt đầu sợ những cơn kích động này rồi.”
“Vâng, ông không dạn dĩ như tôi nghĩ lúc ban đầu,” vị thám tử trả lời. “Sự việc vừa rồi đã ảnh hưởng không tốt đến sức khỏe của ông. Nếu như lúc đó tôi không kịp đỡ thì ông ngã xuống đất rồi.”
Tôi ngồi dậy trên giường. Bây giờ thì tôi mới nhận ra rằng trí óc mình vẫn chưa hoàn toàn tỉnh táo.
“Ông hãy thành thật với tôi,” tôi yêu cầu ông ta, “hãy kể cho tôi biết đêm qua chúng ta đã trải qua những gì?”
“Ông cũng nhớ được mọi điều như tôi kia mà!”
Tôi không muốn đi thẳng vào sự việc nên mới hỏi. “Ông đã nói chuyện với Gjaernaes trẻ chưa?”
“Rồi,” viên thám tử nói, “ông ấy vừa mới về nhà.”
“Một mình hay có người ở cùng?”
“Không có ai ở cùng cả.” Vị thám tử đứng dậy, bắt đầu đi lại trong phòng, vẻ trầm tư suy nghĩ.
“Ông Krag thân mến,” tôi tiếp tục, “ông khẳng định rằng chúng ta quả thật đã trải qua tất cả những gì mà tôi nghĩ rằng mình đã trải qua ư?”
Vị thám tử đúng lại trước mặt tôi, im lặng nhìn tôi rất lâu.
“Đúng thế,” ông ta nói, “chúng ta đã trải qua những sự việc thật kỳ lạ trong đêm qua.”
“Tôi nhớ là chúng ta đã phát hiện ra một người chết.”
“Đúng thế!”
“Một ông già. Và chúng ta đã tìm thấy ông ta đúng ở nơi mà trước đây ba tuần đã tìm thấy viên kiểm lâm.”
Asbjörn Krag gật đầu xác nhận.
“Đúng ở nơi mà chúng ta nghĩ rằng chiếc xe sắt đã lăn xuống biển.”
Ông ta lại gật đầu.
“Nhưng ông già ấy,” tôi lắp bắp, “ông già ấy… nhưng không thể nào, ông Krag thân mến ạ… không thể như thế được…”
“Ông già đó”, viên thám tử nói tiếp, “là cha của Gjaemaes trẻ.”
“Nhưng ông ta chết đuối cách đây bốn năm rồi mà!”
“Không, chính điều đó mới là không thể.”
“Không thể?”
“Rõ ràng rồi còn gì,” viên thám tử trả lời, “vì ông ta chắc chắn vẫn còn sống vào 2 giờ sáng đêm qua!”
“Chiếc thuyền của ông ta bị lật và trôi dạt ở ngoài kia, giữa những bãi đá ngầm,” tôi lẩm bẩm.
“Và chiếc mũ của ông ta trôi nổi trên mặt nước,” viên thám tử nói tiếp trong lúc bước tới cửa sổ, kéo màn sang một bên. “Mọi tính toán đều hợp lý.”
Tôi suy nghĩ và lờ mờ hiểu ra ý tứ của vị thám tử.
“Tức là ông tin rằng,” tôi hỏi, “ông già Gjaemaes đã dựng lên màn kịch chết đuối à?”
“Đúng thế.”
“Rồi ông ta chạy trốn, biến mất… và cố tình để cho người ta nghĩ rằng ông ta đã chết đuối.”
“Phải.”
“Nhưng tại sao… tại sao?”
“Tôi sẽ giải thích cho ông,” ông ta nói. “Ông già Gjaernaes là một tên lừa đảo, cái chết đã giúp ông ta thoát khỏi tội lừa đảo bảo hiểm.”
“Làm sao ông biết được điều này?”
“Tôi đã nghi ngờ việc này từ lâu rồi, nhưng giờ mới có được bằng chứng cụ thể, một phần do tôi đã tận mắt nhìn thấy ông già, một phần do Gjaemaes trẻ kể lại. Ông bạn thân mến, ông nghĩ rằng tôi đến đây để du lịch - rằng tôi giết thời gian chủ yếu bằng cách đi dạo, đọc sách, ăn uống và tắm rửa ư? Thật ra tôi đã điều tra câu chuyện đáng sợ này suốt thời gian ấy, cả ngày lẫn đêm không ngừng nghỉ, chỉ trừ lúc ngủ ra. Vâng, đúng là tôi đã đi dạo xa, nhưng tôi vẫn luôn làm điều đó để phục vụ cho việc phá án — hoặc là cần tìm cái gì đó hoặc tìm ai đó có thể thẩm vấn. Trong lúc dùng bữa, tôi hăng hái tham gia vào câu chuyện chung và thường sẽ lái nó đến một điểm tôi muốn. Và khi tôi có vẻ như đang đọc sách thì chính là lúc tôi suy nghĩ hết giờ này qua giờ khác, hoặc so sánh hay đánh giá các bản báo cáo nhận được từ người của tôi ở các nơi gửi về.”
“Từ người của ông?” Tôi hỏi. “Nhưng thời gian vừa rồi ông đã làm việc một mình cơ mà.”
“Phải, tôi ở đây một mình,” vị thám tử trả lời. “Ở nơi trung tâm của vụ án này thì tôi chỉ có một mình, nhưng còn có đồng nghiệp ở Christiania và các nơi khác. Một thám tử cần nhiều thông tin, và tôi cũng đã nhận được nhiều thông tin, cả về Gjaernaes cũng như về viên kiểm lâm bị sát hại.”
“Nhưng ông có thể lấy được thông tin tốt hơn ở đây phải không?” Tôi hỏi lại.
“Hoàn toàn không phải thế,” vị thám tử nói. “Tôi không chỉ muốn thông tin về cuộc đời của viên kiểm lâm trước khi chết, mà tôi còn muốn biết anh ta đã làm gì hằng ngày. Anh ta đến từ Christiania.”
“Chính tôi đã từng gặp anh ta ở Christiania.”
“Tôi biết,” vị thám tử trả lời. “Tôi đã nhận được thông tin về việc anh ta thường qua lại với ai. Ông không phải một trong số người quen thân của anh ta, nhưng hai người có gặp nhau trong những dịp tụ họp hội hè mà Hilde Gjaernaes cũng được mời tới tham dự.”
“Tôi không nhớ rõ điều đó, có thể là như vậy. Hilde Gjaemaes và tôi giao lưu trong cùng một cộng đồng khi cô ấy sống ở Christiania, và viên kiểm lâm thì yêu cô Hilde. Tất nhiên là anh ta cố đến được nơi mà cô ấy có mặt.”
“Ông suy luận rất hợp lý,” vị thám tử trả lời, và nụ cười mỉa mai đặc trưng như vừa thoảng qua trên mặt ông ta. “Tốt, nhưng bây giờ chúng ta không muốn nói nhiều về viên kiểm lâm nữa, mà là về ông già Gjaemaes.”
“Vâng, tất nhiên rồi. Thế ông đã biết được những gì về ông ấy?”
“Điều đầu tiên tôi tìm ra là ông ta đã ký kết một hợp đồng bảo hiểm nhân thọ trị giá ba mươi ngàn krone. Chính ông cũng biết rằng hoàn cảnh của ông ta hết sức khó khăn khi ông ta biến mất cách đây bốn năm, hay chết đuối như người ta vẫn nói. Sau đó, con trai của ông ta đã ổn định được tình thế, chủ yếu nhờ vào số tiền ba mươi ngàn krone mà công ty bảo hiểm đã trả. Gjaemaes con đã kể cho tôi biết rằng thật đáng tiếc, cha của anh ta để lại hai tờ giấy hẹn trả tiền khống. Chính những tờ giấy hẹn trả tiền khống này lơ lửng đe dọa trên đầu ông già bốn năm trước, và rồi nỗi lo sợ về một thảm họa đã đẩy ông già đến việc diễn màn hài kịch táo tợn và đáng sợ ấy. Ông già Gjaemaes là một người say mê câu cá, vì vậy không có gì đáng ngạc nhiên khi ông ấy đi thuyền câu cá vào lúc 3 giờ sáng ngày 24 tháng 8. Trong ngày hôm ấy, người ta tìm thấy con thuyền bị lật úp và chiếc mũ trôi dạt vào bờ. Tôi tin là có thể ông ta đã ranh mãnh chuẩn bị trước cho chuyến đi trốn đó. Ông ta đã mang theo tất cả tiền mặt - độ chừng hàng ngàn đồng krone. Trước đấy nhiều ngày, tôi đã nghiên cứu lịch trình đi lại của tàu thủy vào thời điểm đó và phát hiện ra rằng chính vào ngày 24 tháng 8, vào lúc 7 giờ sáng, có một chuyến tàu hơi nước xuất phát từ đây đến Christiania. Có lẽ Gjaemaes đã cải trang và rồi từ Christiania ra nước ngoài. Thế là ông ta đọc được tin tức về cái chết của chính mình trên báo.”
“Một chuyện mạo hiểm kỳ lạ,” tôi kinh sợ lẩm bẩm. “Có thể như thế thật ư?”
“Đúng thế,” vị thám tử nói, “và nếu ông nghĩ rằng đây là một trường hợp cá biệt thì ông sai rồi. Đã có nhiều vụ lừa đảo bảo hiểm, đặc biệt trong lĩnh vực tội phạm quốc tế. Trong thư viện luật của tôi có một vụ rất hay về một người ở Anh đã chết tới mười bốn lần trước khi bị bắt quả tang là đang còn sống.”
“Tôi có cảm giác”, tôi nói, “rằng ông đã nghi ngờ về việc này trong suốt thời gian ở đây.”
“Tôi có nghi ngờ phần nào rằng một điều tương tự đã xảy ra ở đây,” vị thám tử sửa lại lời nhận xét của tôi, “nhưng tôi thật sự không nghĩ rằng vụ việc này lại là lừa đảo rành rành như vậy. Ngay khi đến đây, tôi đã có nhiều thông tin - nhiều hơn là ông nghĩ. Tôi đã biết câu chuyện về cái chết bất hạnh của ông già Gjaernaes, tôi đã biết về những tờ giấy hẹn trả tiền khống của ông ta và về số tiền bảo hiểm mà không lâu sau đã được chi trả cho con trai ông ta, nhờ đó mà hoàn cảnh gia đình được ổn định trở lại. Ông phải thừa nhận rằng ngay từ lúc đó, tôi đã có nguồn thông tin tốt. Nói theo lối của thám tử thì tức là tôi đã có sẵn trong tay nhiều thông tin đáng ngờ. Thêm vào đó, tôi nhận thấy rằng ông già Gjaernaes đã biến mất khỏi hiện trường vào đúng thời điểm hết sức thuận lợi, và vì vụ việc này khiến cho tôi nhớ lại một sự việc giống y như vậy đã xảy ra gần đây ở Hà Lan, nên tôi bắt đầu nghi ngờ. Tuy nhiên, quả thật là tôi không thể tìm được mối liên quan nào giữa cái chết của viên kiểm lâm và ông già Gjaemaes.”
Vị thám tử tiếp tục tuờng thuật trong khi tôi càng lúc càng hồi hộp lắng nghe. Asbjörn Krag nói chậm và chính xác, giống nhu suy nghĩ cẩn trọng từng câu trước khi nói ra. Cách diễn giải của ông ta khiến tôi liên tuởng tới bài giảng luật pháp từ một chuyên gia.
“Thế rồi tôi đến đây,” ông ta nói tiếp. “Khi biết ông đã trải qua những gì trong đêm viên kiểm lâm bị đánh chết, tôi đã bước tiếp được một bước. Nguời ta không cho ông vào nhà, lại còn bằng một cách hết sức thô lỗ. Tôi lập tức hiểu rằng có điều gì đó ở trong trang trại mà ông không được phép nhìn thấy.”
“Nhưng viên kiểm lâm?” Tôi hỏi.
“Phải, viên kiểm lâm,” Asbjörn Krag trả lời, “anh ta có một vị trí đặc biệt. Viên kiểm lâm sắp sửa trở thành thành viên gia đình, tức là cần phải nói cho anh ta biết bí mật đáng sợ ấy. Tôi kết luận đuọc rằng vào buổi tối hôm ấy đã xảy ra một điều gì đó - một điều hết sức nghiêm trọng. Trong cùng đêm đó, viên kiểm lâm bị đánh chết trên cánh đồng hoang.”
“Ông muốn liên kết hai sự việc với nhau nhu thế nào?” Tôi hỏi. “Con người đáng thuơng ấy bị đánh chết vì lý do gì?”
“Vậy ông muốn giải thích sự việc ấy như thế nào?”
“Có thể là ông Gjaemaes trẻ đã hối hận vì phải tiết lộ. Có lẽ viên kiểm lâm đã lui bước và dọa sẽ báo cho cảnh sát biết bí mật ấy. Thế rồi Gjaemaes đã đi theo anh ta… và…”
“Ông tin là như thế à?” Vị thám tử hỏi.
Trong lúc đó, tôi có cảm tưởng như Asbjörn Krag lại mỉm cười một chế giễu, như một kẻ xấu tính đang thử thách tôi. Rồi bỗng nhiên, gần như ngay lập tức, ông ta trở lại nghiêm trang và nói:
“Ngay từ đầu, tôi đã biết rõ rằng chẳng có gì liên quan cả. Cho đến hôm nay tôi cũng không tin rằng anh Gjaernaes trẻ là kẻ giết người.”
“Thế thì là ai?”
Thay vì trả lời, viên thám tử lại hỏi.
“Tôi có cần nói tiếp không?”
“Vâng, ông cứ nói tiếp đi,” tôi nói và nằm xuống giường, chắp hai tay ra sau đầu. Tôi chăm chú lắng nghe và vị thám tử kể tiếp.
“Cuộc điều tra trong vùng này càng chứng tỏ nghi ngờ của tôi rằng có gì đó rất kỳ lạ đã xảy ra trong trang trại đêm hôm ấy, một điều gì đó đặc biệt quan trọng và rất nghiêm trọng. Từ trước khi đến trang trại, tôi đã biết được về những hành vi đáng ngờ của chủ trang trại. Và ngay sau khi tôi được gặp ông quản gia nói chuyện với người chủ trẻ tuổi, tôi tin chắc có một bí mật đang được che giấu. Cho dù tôi chưa bao giờ tính đến câu chuyện về việc cha cậu ta chết đuối trong dòng suy nghĩ của mình, nó lại cứ xuất hiện trong tâm trí tôi.
“Tôi không sao làm cho nó phù hợp với tình huống dù có cố gắng đến đâu. Trong ván cờ mà tôi đang chơi thì cái chết của người cha là nước đi quan trọng - hay nói đúng hơn - là một con cờ quan trọng, tôi chỉ không biết phải đặt nó ở đâu để quyết định toàn bộ ván cờ chỉ trong một nước đi. Ông chắc vẫn còn nhớ rằng tôi đã quan tâm đến bức ảnh cũ trên tường trong phòng làm việc của Gjaemaes? Chắc chắn rồi. Nhưng ông có nhớ đến cánh cửa không?”
“Cửa ư?” Tôi hỏi. “Ông muốn nói gì vậy?”
“Ông bạn thân mến,” Asbjörn Krag nói tiếp, “Việc cánh cửa đó đóng tuồng như nhỏ nhặt nhưng lại là một trong những điều quan trọng nhất mà chúng ta đã tìm thấy trong chuyến đến thăm Gjaernaes ngày hôm ấy. Chẳng lẽ ông không để ý tới những gì đã và đã không xảy ra sao? Khi tôi chú ý xem xét những sự kiện quanh tôi thì tôi biết rằng điều này hoặc điều kia sẽ xảy ra ngay bây giờ nếu tất cả đều đi đúng lối của chúng. Nếu mọi việc diễn ra không như mong đợi, tôi nghĩ hẳn phải có lý do và tôi sẽ thử khám phá. Cách thức này đã từng giúp tôi tìm được trung tâm của rất nhiều bí mật. Ông không nhận thấy rằng cô Hilde đã vắng mặt khi chúng ta đến thăm à?”
“Điều đó hẳn là có lý do,” tôi trả lời. “Cô ấy ốm và bị các sự việc gây xúc động quá nhiều. Người anh nói rõ rằng cô ấy đã đi nghỉ rồi mà.”
“Rất đúng. Vì vậy nên tôi đã xin phép ông ta cho đi tham quan một vòng bên trong trang trại.”
“Vậy thì làm sao nữa?”
“Vâng, vì tôi suy luận rằng nếu như cô Hilde đã đi nghỉ thì chúng ta sẽ không được phép nhìn vào gian phòng của cô ấy. Nhưng chính điều ấy đã xảy ra. Chúng ta được phép đi xem gian phòng ngủ màu xanh nhạt của cô ấy mà không có chủ nhân ở trong đó.”
“Thì cô ấy đang ở nơi khác,” tôi đáp trả, “trong gian phòng cạnh thư viện chẳng hạn.”
“Đúng thế, cô ấy ở đằng sau cánh cửa. Tôi thật sự tin rằng cô ấy có nhà hôm đó. Nhưng bây giờ xin ông hãy nhớ lại một sự việc. Khi chúng ta đang đứng trong thư viện, tôi đã thử bước qua cửa đó, nhưng Gjaemaes đã cản tôi ngay lập tức. Chỉ riêng ý nghĩ là tôi có thể bước vào trong đó thôi dường như cũng đủ khiến cho ông ta hoảng sợ rồi. Trong khoảnh khắc đó, tôi tin chắc rằng ông ta che giấu điều gì đó. Có lẽ ông cũng đoán được rằng ai đang ở trong gian phòng bên cạnh thư viện?”
“Cô Hilde,” tôi trả lời.
“Rất có thể, nhưng đồng thời là với một người khác nữa. Và người dó chính là cha của Gjaemaes, người đàn ông mà chúng ta phát hiện khi đã chết trên cánh đồng hoang vào tối qua.”
Tôi nằm trên giường với thần kinh căng thẳng tột độ, hai tai cố gắng lắng nghe câu chuyện của vị thám tử. Tôi đã hiểu từ lâu về hướng mà ông ta muốn hướng đến.
Dần dần, tôi tin chắc rằng tất cả những gì tôi nhớ lại đều là những sự việc có thật trong đêm hôm đó chứ không phải một giấc mơ. Tôi muốn hối thúc chính miệng ông ta nói ra điều đó… nhưng ngay sau đó đã lại giật thót khi nghe ông ta nói với giọng nói khô khan: … người đàn ông mà chúng ta phát hiện khi đã chết trên cánh đồng hoang vào tối qua.
Vị thám tử mỉm cười và nói thêm:
“Ông bạn thân mến, tức là ông không nằm mơ đâu.”
“Ông đã đoán được ý nghĩ của tôi,” tôi lẩm bẩm.
Asbjörn Krag ngồi im lặng trong gần một phút. Sự im lặng ấy đè nặng lên tâm trí tôi. Càng lúc tôi càng bồn chồn và muốn ông ta đi thật xa, rồi tôi ngồi dậy, đi ra ngoài hít thở bầu không khí tự do, trong lành đang thổi quanh ngôi nhà này.
Tôi quan sát Asbjörn Krag. Ông ta ngồi giữa cửa sổ và giường; khuôn mặt sắc nét, cái đầu hói láng bóng và cái cằm rộng nổi bật trong chiều ngược sáng. Tại sao ông ta không nói gì, ông ta rốt cuộc đang suy nghĩ gì? Bất chợt, ông ta quay mặt về phía tôi, với đôi mắt sáng loáng mở to rất thiếu tự nhiên sau cặp kính không gọng.
“Phải,” ông ta nói, “tôi có thể đọc được ý nghĩ của ông, như đang đọc sách vậy.”
“Ai đã đánh chết ông ta?” Tôi thì thào thật nhanh.
“Người nào trong hai người đó?”
“Ông già - người cha, người mà chúng ta tìm thấy đêm qua.”
“Tôi có cần nói tiếp không?” Krag hỏi.
“Vâng,” tôi trả lời trong khi mắt hướng đến một nơi khác trong phòng, “ông nói tiếp đi.”
Thế là vị thám tử lại bắt đầu:
“Khi rời trang trại của Gjaemaes, tôi đã nghe thấy cuộc đối thoại giữa người chủ trại và ông quản gia, những vờ như không biết gì vì tôi sớm biết rằng ông quản gia sẽ tìm đến tôi. Trước sau gì thì con người này cũng sẽ đến tìm tôi, và kể cho tôi nghe những gì ông ta biết. Ông ta biết điều gì đó, điều này thì tôi biết rõ ngay lập tức. Những thứ ông ta biết đang đè nặng lên người ông ta. Tôi có thể nhìn thấy lương tâm đang cắn rứt của ông ta lóe lên trong ánh mắt. Tôi chỉ cần nói Tôi sống trong khách sạn, và thế là đã đủ. Vài ngày sau đó, ông ta sẽ đến và thuật lại mọi việc. Tôi cũng đã nhận được thông tin mới cùng lúc. Sau khi nghe câu chuyện của ông quản gia, tôi tin chắc rằng Gjaemaes giấu cha mình trong trang trại. Tình huống đó giải thích sự bồn chồn và cách xử sự kỳ lạ của ông ta. Về phía ông quản gia, ông ấy vẫn mang ý nghĩ sai lầm ngớ ngẩn rằng Gjaemaes trẻ có liên quan gì đó tới vụ giết kiểm lâm Blinde. Việc ông ta nhận được lá thư của cha mình đúng vào cái đêm tội ác xảy ra chỉ là một sự trùng hợp kỳ lạ. Sau khi Blinde rời khỏi trang trại, Gjaemaes đi xe qua đảo để gặp cha, ông này bí mật lên đảo bằng một chiếc tàu chở thư. Vì vậy mà ông ta phải đi thật lặng lẽ và phải đi một mình, nhưng ông ấy hành động không được khôn ngoan cho lắm. Nếu như ông ấy đã hoàn toàn tin tưởng người quản gia thì có lẽ chúng ta sẽ không bao giờ giải đáp được tấn bi kịch đáng sợ này.”
Vị thám tử lại im lặng, rồi chậm rãi, khác hẳn lẽ bình thường, lấy một hộp xì gà ra khỏi áo. Ông ta chọn một điếu, châm lửa, phả vào không khí cuộn khói đặc màu trắng và ngồi đó với cái hộp trong tay.
“Cái này chỉ là da thường thôi,” ông ta nói, “như được trang trí bằng bạc. Cái hộp xì gà không tìm thấy được của Blinde là bằng da cá sấu xanh, phải không?”
“Không phải hộp xì gà đâu, đó là một cuốn sổ ghi chép.”
Asbjörn Krag thổi những vòng khói thật to và bắt đầu cười lón.
“Tất nhiên rồi,” ông ta trả lời, “nhưng nó không được trang trí bằng vàng à?”
“Tôi không biết… tôi không hay biết gì về điều này cả.”
Vị thám tử quay lại nhìn tôi, và ông ta vẫn cười to.
“Tôi muốn ra khỏi giường,” tôi nói, “tôi cảm thấy hơi mệt và muốn đi ra ngoài hít thở không khí trong lành.”
Nhưng Asbjörn Krag lại giơ tay lên ra vẻ ngăn tôi lại.
“Chưa được,” ông ta nghiêm nghị nói, “tôi còn phải kể xong câu chuyện đã, tôi không thích bị gián đoạn lâu. Nhưng tôi có thể mở cửa sổ ra.”
“Vâng, thế thì ông hãy mở cửa sổ ra, tất cả các cửa sổ.”
“Ông bạn thân mến,” ông ta nói, “các cửa sổ đã được mở ra rồi, chúng đã được mở toang sẵn rồi. Ha ha!”
Ông ta cười. Tôi không nói gì và cũng không muốn nhìn ông ta, vì tôi e rằng có thể sẽ bộc phát một cơn thịnh nộ vô cùng đáng sợ. Rồi tôi nghe tiếng ông ta đóng hộp xì gà lại, nhét vào túi.
“Tôi đã nhìn thấu thái độ của Gjaemaes lúc đó rồi,” ông ta lẩm bẩm, tựa như đang độc thoại. “Ông ta không sợ hãi vì vụ giết người. Khi nói về sự việc của viên kiểm lâm thì ông ta lơ đãng, gần như mặc kệ. Ông ta còn phải suy nghĩ về những sự việc khác nghiêm trọng hơn. Ông ta không hề nghĩ rằng người ta có thể nghi ngờ mình. Ngược lại, bí mật về người cha đè nặng lên ông ta; thảm họa ấy đến quá bất ngờ và cũng quá khủng khiếp, khiến ông ta hành động một cách vô nghĩa và dại dột. Ông ta, phải che giấu một người thứ ba đang bí mật sống trong trang trại bằng mọi giá. Ông ta hấp tấp, thiếu kế hoạch trong khi cố gắng che đậy cái bí mật ấy, đến mức không hề nhận ra rằng mình đã bộc lộ hết mọi thứ ra ngoài. Cuối cùng thì ai cũng có thể chỉ vào ông ta và nói rằng: Ông ta đã đánh chết viên kiểm lâm. Khác nào chưa đánh đã thưa mình là kẻ giết người. Nhưng chỉ có những kẻ ngu đần, không biết suy nghĩ, không biết xâu chuỗi các sự kiện thì mới đi đến kết luận hồ đồ như vậy. Chỉ thoáng qua thôi là tôi đã nhận thấy ngay rằng một người phạm tội như thế trên cánh đồng hoang thì không thể có lối xử sự như vậy được. Ngay cả người ngu ngốc nhất cũng không bước tới và tự giao mình ra từng bước như vậy. Không phải, người này hẳn phải che giấu một bí mật khổng lồ đến mức không có thời gian quan tâm đến vụ giết người. Thế rồi ngày hôm qua, ông quản gia đến gặp ông ta và nói rằng: Bây giờ tôi đi tìm ông thám tử và kể cho ông ấy nghe hết tất cả, tôi không thể cứ im lặng, mặc cho lương tâm cắn rứt. Trong lúc đó, ông quản gia vẫn tin rằng đó là về vụ giết người, nhưng Gjaemaes trẻ thì lại nghĩ rằng đó là bí mật về ông già đã chết đi sống lại. Và Gjaemaes còn có thể nói gì khác với ông quản gia ngoài câu: Ông thám tử thì liên quan gì đến việc này? Đây là chuyện riêng tư.
“Qua ông quản gia, tôi gửi lời chào tới ông chủ của ông ấy. Ông có thể lấy làm lạ. Tôi yêu cầu ông ta cho tôi biết thời điểm nào thì tôi có thể đến thăm ông ta, vì tôi không muốn đến một cách bất ngờ, tôi không muốn gây ra một tai họa mới; vì nghĩ rằng Gjaemaes có thể làm bất cứ điều gì trong tình trạng thần kinh bị kích động, nên tôi cố tình hành động như vậy. Bởi vì bằng cách đó, tôi đã buộc Gjaemaes phải đưa cha mình ra khỏi trang trại. Ông ta không thể để cha mình ở đó lâu hơn được nữa, một khi đã lên kế hoạch cho chuyến viếng thăm của tôi. Tôi đoán ông ta sẽ bảo người cha rời đi ngay trong đêm đó, và điều này cũng đã xảy ra. Nhưng mà, ông bạn thân mến, bằng cách này thì chính tôi đã có lỗi trong cái chết của người đàn ông đó dù không cố ý!”
“Ông…” Tôi kêu to. “Ông đã giết chết ông ấy ư?”
Vị thám tử lắc đầu.
“Tôi nói với ông rồi,” ông ta trả lời, “chiếc xe sắt đã cán chết ông ta - cái xe tai ương kỳ lạ đó, cứ chạy mãi mà không để lại dấu vết nào. Tôi biết rằng ông già ấy đã phải đi qua cánh đồng hoang, qua đúng chỗ đấy để lên tàu thủy, vậy là tôi canh chừng trên đường đi. Tôi định bước tới trước ông ta, đặt tay lên vai và nói: Ông bạn thân mến, chúng ta cần phải nói chuyện vối nhau một chút. Nhưng trong lúc tôi đi lại và chờ ông ta đến thì tôi nghe được tiếng chiếc xe sắt.”
Vị thám tử dừng lại một lúc, lát sau mới nói:
“Đó là toàn bộ câu chuyện, là tất cả những gì tôi có thể kể cho ông nghe. Phần còn lại thì ông đã biết rồi.”
“Tôi giờ vẫn chưa hiểu,” tôi trả lời, “hoàn toàn chưa hiểu gì so với lúc ông bắt đầu kể chuyện. Ông nói rằng chiếc xe sắt đã giết ông Gjaernaes già. Nhưng cái xe sắt này là gì cơ chứ - nó đến từ đâu và do ai lái?”
“Tôi cũng đã đặt câu hỏi đó cho chính mình,” vị thám tử trả lời, “và mãi đến tối qua mới tìm ra đáp án.”
“Nghĩa là ông biết được bí ẩn của chiếc xe sắt?”
“Đúng thế.” Asbjörn Krag nhìn đồng hồ. “Bây giờ đã 5 giờ rưỡi,” ông ta nói, “một giờ nữa là triều xuống, chúng ta có thể nhìn thấy chiếc xe sắt.”
“Triều xuống?” Tôi ngạc nhiên hỏi.
“Đúng thế,” Krag trả lời, “chiếc xe sắt không còn nữa, nó chìm nghỉm rồi.”
Vị thám tử trả lời một cách thành thực, hoàn toàn không chút bông đùa.
“Khi chúng ta tìm thấy chiếc xe sắt,” ông ta nói tiếp, “ông sẽ hiểu được nhiều điều mà lúc này ông vẫn cảm thấy bí ẩn và đen đặc. Tôi bắt đầu tin rằng sự việc này ngay từ đầu đã rất đơn giản, nhưng tình cờ làm sao nhiều chuyện kỳ lạ, hoàn toàn không liên quan gì đến sự việc chính, lại đan vào nhau tạo thành những tình huống khó hiểu. Trước đây, tôi đã từng gặp phải những tình cảnh tương tự trong khi làm việc. Ông không thể hiểu được hai sự kiện độc lập bị vướng vào nhau sẽ gây khó khăn cho việc điều tra đến thế nào đâu. Trong vụ này, đầu tiên chúng ta thấy hành vi gây nghi ngờ của Gjaernaes trẻ, trực tiếp liên kết anh ta với vụ giết viên kiểm lâm, rồi thì vụ giết người, và rồi xuất hiện chiếc xe sắt dường như có liên quan đến sự việc. Chừng nào tôi còn cho rằng ba sự việc này liên quan đến nhau trong quá trình suy luận, thì tôi chỉ càng thấy rối rắm; nhưng ngay khi tôi bắt đầu tách rời các sự việc riêng lẻ, bình tĩnh tháo gỡ mớ bòng bong, thì tôi đã có thể nhìn thấy toàn bộ sự việc một cách rõ ràng hơn. Ông bạn thân mến, chúng ta không chỉ có một sự việc, mà là ba sự việc khác nhau. Sự việc của Gjaemaes trẻ và già là sự việc riêng, chiếc xe sắt cũng là sự việc riêng.”
“Và rồi những vụ giết người,” tôi nói xen vào.
“Vụ giết người,” vị thám tử chữa lại, “chỉ có một vụ giết người. Ông già Gjaernaes không bị giết, chỉ có viên kiểm lâm thôi.”
“Nhưng ông không đoán được ai đã đánh chết viên kiểm lâm à?” Tôi hỏi.
“Có, có chứ,” Asbjörn Krag trả lời, “tôi có thể đi đến và chỉ ra hắn ta ngay hôm nay.”
Vị thám tử nhanh chóng rời khỏi phòng và nói to với tôi:
“Tôi ngồi đây và chờ ông. Ông phải nhanh lên, vì triều xuống lúc 6 giờ.”
“Ông có đảm bảo là tôi sẽ nhìn thấy chiếc xe sắt không?” Tôi hiếu kỳ hỏi.
“Tôi sẽ cố gắng, trong điều kiện cho phép,” ông ta trả lời.
“Tôi tin là ông có thể làm được điều mà những người khác không làm được,” tôi nói to với ông ta. “Ông đúng là một nhà ảo thuật đấy.”
“Tôi chỉ là một con người,” Asbjörn Krag trả lời, “nhưng tôi hiếm khi sai. Ông hãy nhanh lên.”
Tôi thay vội quần áo. Cảm giác háo hức như đang chạy rần rần trong huyết quản đến từ câu chuyện kể của vị thám tử hay đó là phản ứng sau lần bất tỉnh? Có lẽ có sự góp phần của cả hai. Dẫu sao tôi vẫn thấy rõ rằng tôi rất vui mừng khi bước ra khỏi căn phòng đó. Câu chuyện dài lê thê của Asbjörn Krag về ông già đã chết, về vụ giết người, về chiếc xe sắt khiến tôi dần dần cảm thấy chán ngán. Mà hơn nữa, trong phòng tôi có mùi của long não, trong lúc biển ngoài kia chiếu ánh sáng màu xanh nhạt qua cửa sổ.
Cuối cùng tôi cũng xong. Asbjörn Krag ngồi trên một hòn đá bên đường và chờ tôi.
Nhưng rốt cuộc thì tôi cũng không nhìn thấy chiếc xe sắt, và bí ẩn quanh chiếc xe gây nhiều bất hạnh này vẫn chưa có lời giải đáp. Nhưng điều an ủi là Asbjörn Krag dường như cũng thất vọng như tôi.
Vị thám tử dẫn tôi qua cánh đồng hoang, đến nơi mà đêm qua chúng tôi đã nghe thấy tiếng chiếc xe sắt lăn xuống biển. Ở đó rất yên lặng. Trước bãi biển có vài chiếc thuyền nhỏ mà người ta đang kiểm tra đáy biển bằng những cây sào dài và dây dọi.
“Họ tìm chiếc xe sắt à?” Tôi hỏi.
Asbjörn Krag gật đầu. “Nó đã rơi xuống đây.”
Asbjörn Krag chỉ huy cuộc tìm kiếm độ chừng một tiếng đồng hồ. Ông ta dần trở nên chán nản vì không tìm thấy gì. Trong lúc đó, nước bắt đầu dâng lên, và vị thám tử buộc phải chấm dứt công việc của ngày hôm đó.
“Dụng cụ tồi quá,” ông ta bực dọc lầm bầm, “tôi phải đánh điện về Christiania.”
Ông ta viết một bức điện tín và nhờ một người mang thư đến bến đậu.
Rồi chúng tôi trở về khách sạn. Trời bắt đầu chạng vạng tối.
Asbjörn Krag, người nói rất nhiều trong suốt buổi chiều, giờ trở nên trầm lặng. Vào lúc đó, tôi mới biết là xác chết của ông già Gjaemaes đã đuợc mang về trang trại và người con trai dự định ngày mai sẽ lên đường tới thủ đô để dàn xếp mọi việc với hãng bảo hiểm.
Khi bước ra hàng hiên khách sạn đầy khách du lịch, tôi thì thào vào tai Asbjörn Krag:
“Ông không muốn chỉ cho tôi biết tên tội phạm à?”
Nhưng vị thám tử lắc đầu. “Chưa,” ông ta nói.
Thật là một con người kỳ lạ. Có lúc ông ta thật lắm chuyện nhưng rồi, bất chợt và dường như không vì một lý do đặc biệt nào cả, lại trở nên trầm lặng và khép kín. Tôi có ấn tượng rằng bản chất của ông ta là như vậy, im lặng, và ông ta chỉ lắm lời một cách có chủ đích nhưng tôi không thể hiểu được.
Tuy nhiên, dù ông ta đang thao thao bất tuyệt hay im lặng trầm mặc, thì vẻ giễu cợt lúc nào cũng hiện diện quanh miệng ông ta, và đôi mắt luôn luôn trong trạng thái soi mói, thanh trừng.
Đôi lúc, ông ta bất ngờ đưa ra những câu hỏi kỳ lạ, rõ ràng là vô nghĩa. Như trong tối nay chẳng hạn. Lúc đó đã 10 giờ rưỡi, tôi đang nói chuyện phiếm với một vài người bạn trong số những khách trọ chưa muốn đi ngủ. Ai đó đề nghị chơi bài và tôi muốn chơi cùng. Tôi đang trên đường đến một phòng khác để lấy bộ bài, vừa mở cửa ra thì bất ngờ bắt gặp Asbjörn Krag, người mà tôi đã không nhìn thấy trong suốt mấy giờ qua. Tôi có chút giật mình, vì rõ ràng người ta dễ cảm thấy chưng hửng khi nhìn thấy một người trong một gian phòng mà bản thân nghĩ đó là phòng trống.
“Tôi cứ nghĩ ông đã về nhà rồi.”
“Như ông thấy đấy,” tôi trả lời, “tôi vẫn chưa về. Tôi còn ngồi lại đây thêm chút nữa.”
Asbjörn Krag nhăn mặt lại thành một nụ cười, hàm răng trắng và to của ông ta sáng lên trong màn đêm.
“Có vẻ như ông không yêu gian nhà nhỏ cô độc của mình cho lắm,” ông ta nói.
Tôi không biết phải trả lời thế nào. Tôi chỉ thể hiện thái độ ngạc nhiên, vì đó không phải lần đầu tiên mà viên thám tử - gần như là đe dọa - khi nói về vị trí đơn độc của ngôi nhà nhỏ mà tôi đang ở.
Asbjörn Krag với tay nắm áo khoác của tôi và nói.
“Ông nghe này, tôi muốn hỏi ông một điều. Căn phòng đó chỉ có một cửa sổ duy nhất, phải không?”
“Đúng thế, nhưng nó tương đối lớn. Sao ông lại hỏi tôi về việc này?”
“Có một tấm màn cuốn ở cửa sổ, phải không?”
“Đúng thế!”
“Ông có thường thả cái màn cuốn này xuống không?”
Tôi cười to và nói:
“Tôi không hiểu câu chuyện tiếu lâm này.”
“Tôi không nói đùa.”
“Tốt. Nếu như ông quan tâm về việc này đến thế thì tôi sẽ trả lời cho ông biết, rằng tôi thường thả tấm màn xuống khi mặt trời chiếu vào cửa sổ.”
“Nhưng vào ban đêm?” Ông ta hỏi, “khi ông đốt đèn lên, thì sao?”
“Thì sao à? Tôi không có ai ở đối diện, chỉ có biển ở phía trước thôi. Vì vậy mà không phải lúc nào tôi cũng thả màn xuống khi đốt đèn lên.”
Asbjörn Krag lại cười, nhe những chiếc răng trắng ra.
“Nhưng khi ông không che cửa sổ,” ông ta nói, “thì cửa sổ rộng mở cho màn đêm, và rồi có thể có ai đó nhìn vào từ bên ngoài.”
Viên thám tử bỏ tay ra khỏi chiếc áo khoác của tôi. Tôi lui lại một bước.
“Ông đang cố làm bí hiểm vấn đề, phải không?” Tôi nói. “Ông nghĩ tôi là trẻ con à? Tôi không sợ bóng tối.”
“Xin lỗi ông,” ông ta nói một cách thân thiện, “tôi không có ý định xúc phạm ông, nhưng khi tôi đi dạo và suy nghĩ về một điều gì đó, đôi lúc sẽ vô tình đưa ra những câu hỏi kỳ lạ. Nhưng ông có thể giúp tôi một việc đấy.”
“Tối nay ư?” Tôi hỏi, vẻ không hài lòng cho lắm trong lúc giơ bộ bài lên cho ông ta thấy rằng tôi đang có ý định làm việc khác.
“Giờ tôi đang bận viết một bản báo cáo,” ông ta nói, “và đang viết đến đoạn mô tả xác chết.”
Tôi rùng mình. Tôi có cảm giác như một làn hơi kỳ lạ vừa thoảng qua gian phòng nửa tối nửa sáng, nơi chỉ có chúng tôi ở đó.
“Xác chết ư?” Tôi lắp bắp. “Ông viết về xác chết ư?”
“Tất nhiên rồi, tôi phải viết báo cáo mà. Xác chết ấy trông như thế nào? Ông nhớ lại đi.”
“Tóc sẫm màu,” tôi bất giác bắt đầu.
Asbjörn Krag vỗ nhẹ lên vai tôi.
“Ông bạn thân mến”, ông ta nói, “tại sao ông không hỏi tôi có ý nói tới xác chết nào? Đúng vậy, ông nói đúng, đó là của viên kiểm lâm, cái xác chết mà tôi đang viết. Ông làm ơn nghe xem tôi có sai lầm chỗ nào không: Mái tóc màu nâu sẫm cửa anh ta được chẻ ở bên trái, anh ta có đôi tai vểnh và to, trán cao và rất trắng so với phần dưới của gương mặt đã nâu sạm vì nắng mưa. Trán có màu trắng nổi bật là do anh ta luôn ấn mũ xuống dến tận mắt. Bộ râu của anh ta rất mềm và có sắc đỏ, được chăm sóc rất kỹ lưỡng và hơi cong. Môi anh ta không bị râu che khuất, chúng có hình dạng đẹp, màu đỏ hồng. Mắt anh ta gần như có màu xanh nhạt, nhưng con người rất nhỏ, nhãn cầu to, màu trắng nằm quanh con ngươi như một vòng tròn nên đôi mắt trông như bất động. Râu mọc dọc theo cái cổ ngắn và to. Khi anh ta được phát hiện ra, chiếc cổ áo đã bị gập lại ở nhiều nơi, chiếc cà-vạt màu xanh nằm vắt vẻo trên tai phải. Người bị hại trông như thế, có đúng không?”
“Đúng thế,” tôi trả lời, “theo những gì tôi nhớ được thì mô tả của ông hết sức chính xác.”
“Cảm ơn, đó là điều tôi muốn xác nhận,” Asbjörn Krag nói, mắt nhìn trừng trừng về phía trước một cách kỳ lạ. Có gì đó thật sắc nhọn, đáng sợ trong ánh mắt của ông ta. Tôi mở cửa ra, để cho ánh sáng chiếu vào người ông ta. Mặt ông ta trắng nhợt, nhưng ông ta mỉm cười và gật đầu với tôi với nụ cười đặc trưng muôn thuở! Tôi bước vội ra khỏi phòng khách. Bạn bè của tôi đang chờ. Khi đặt bộ bài xuống, tôi nói.
“Các anh phải tìm một chân khác thôi. Tôi không chơi cùng được.”
Tôi bất chợt không còn hứng thú chơi bài nữa, bắt đầu để tai lắng nghe tiếng bước chân của vị thám tử đang nhỏ dần sau các gian phòng… Tai vểnh, hơi to, trán cao trắng nhợt, môi đỏ tươi không bị bộ râu che khuất… Dù tôi có đưa mắt nhìn đi đâu, gương mặt của người chết… chiếc cổ áo bị gãy… cà-vạt xanh bị đẩy nằm vắt lên tai phải… vẫn ám ảnh tôi. Tôi cố để tâm nhiều hơn đến ván bài của mấy người kia, chỉ cho họ thấy sai lầm ở những nước bài hoàn toàn không có sai lầm, và ra vẻ tán dương về những thứ hoàn toàn không quan trọng để hướng sự chú ý cùa mình ra khỏi những hình ảnh đáng sợ ấy. Rốt cuộc, họ không hài lòng về những việc ấy, và ném cho tôi những cái nhìn giận dữ. Cuối cùng, tôi bỏ đi.
Khi tôi đi ngang qua cửa sổ phòng của Asbjörn Krag, ở bên trong sáng đèn, tấm rèm được kéo xuống, nhưng tôi không nhìn thấy bóng ông ta đâu. Có lẽ ông ta ngồi yên ở bàn làm việc và hoàn thiện cho tường trình về bộ dạng người chết.
Trời có mây và sương mù, gió lặng hoàn toàn, nhưng cơn mưa bão đêm trước đã đem theo cái lạnh về. Điểm kỳ lạ về giai đoạn cuối hè này là đồng quê đầy hoa quả, tất cả đều đã chín rục, những cái cuống trĩu nặng không giữ được phần quả lâu hơn nữa. Mặt đất tỏa mùi hương giàu có và ấm áp, nhưng những ngày lạnh vẫn có thể kéo đến mà không cần lý do, làm đông cứng những lá khoai tây; đó chính là gió thu. Tháng 10 vươn ngón tay lạnh lẽo khẽ chạm vào cảnh vật nhưng tất cả cũng chỉ kéo dài vài tiếng đồng hồ, và rồi sự ấm áp trở lại, chiếm thế thượng phong.
Hôm đó đúng là một đêm như thế, mùa thu thoảng qua trong không khí, đem làn hơi lạnh giá đậu trên hai bàn tay tôi. Bóng tối ra sức bao trùm bầu trời đầy mây, nhưng bất thành. Những cánh đồng lúa mì vàng ươm, những ngôi nhà màu đỏ và những con đường xám xịt, bụi bặm vẫn còn hiện ra mờ ảo. Nhưng bầu không khí mùa thu của đêm đó cũng không khiến tâm trạng tôi vui lên; một cảm giác chán ngán ập vào tôi cùng với mong muốn bỏ đi thật xa - rời đến những thành phố với những con đường nhỏ, chật chội và đông đúc. Tôi thầm nghĩ: Rồi thì vụ án mạng kinh hoàng này sẽ bám lấy mình, mình phải rời khỏi đây thôi…
Giờ tôi đang trên đường trở về ngôi nhà cô độc của mình. Khi ra đến biển, tôi nhìn đồng hồ. Đã hơn 12 giờ rồi. Tôi dừng lại gần cây cầu. Từ đây, tôi có thể nhìn thấy ngôi nhà ngoài kia, ở tận cùng của mũi đất, như một tấm bia mộ bằng đá trắng đứng trong màn đêm. Bỗng nhiên tôi không muốn về nhà ngay. Thật ra tôi không sợ điều gì, chỉ là cảm giác khi về nhà, ngay khi đốt đèn lên, tôi sẽ gặp phải những điều không mấy dễ chịu. Vậy nên tôi lên cầu đi dạo. Ở đây không có ai, cũng không có người nào sống ở gần đây cả: tất cả đều đã về nhà, và mọi ngôi nhà trông có vẻ hoang tàn và chết chóc; những căn nhà vào ban đêm bao giờ cũng vậy, khi không có ánh sáng ở cửa sổ hay con người đi lại trước chúng.
Biển tĩnh lặng đến nỗi rong biển cũng như bất động trong làn nước. Tôi có thể nghe được một tiếng rì rào nho nhỏ từ bãi biển. Thỉnh thoảng, sóng đập vào những chân cầu tối om nghe như tiếng đồ sứ vỡ choang. Những chiếc thuyền nhỏ nằm đó, được cột lại bằng những sợi thừng chùng xuống. Chúng nổi lềnh bềnh trên mặt nước như những nút bần trên một vũng nước; ngoài khơi có một con thuyền dài và hẹp, tất cả tuyền một màu đen thăm thẳm. Nhưng màn đêm chưa đủ mịt mùng để phủ tấm khăn đen lên mọi vật, dù cho bóng tối đã len lỏi vào từng ngóc ngách, dưới gầm cầu và cả trong rừng. Màn đêm cũng chưa thể chạm tới các tảng đá chất cao ngạo nghễ dưới bầu trời, hay những hòn đảo đá tròn trịa trơn láng ngoài kia trên eo biển, nơi biển lấp lánh như một dãy xám xanh.
Tôi đứng một lúc lâu, nhìn chằm chằm qua cây cầu trong lúc đếm những con sứa trôi bồng bềnh trong nước như những giọt máu, mong chờ nghe được một tiếng người nói. Nhưng lúc này, giống như mọi người đều đã chết, tôi không nghe được một tiếng chèo, cũng không một tiếng động. Tôi rời cây cầu và bước nhanh về nhà.
Con đường vắt ngang như một dải lụa giữa biển cả và núi đá dốc đứng. Không ai có thể đi ngang qua tôi mà tôi không biết; nhưng tôi cũng không nghĩ là sẽ gặp ai. Tôi sống một mình trong ngôi nhà nhỏ đó và chẳng ai nghĩ đến chuyện viếng thăm tôi vào lúc đã muộn như thế này! Trong lúc đi bộ về nhà, tôi nhìn thấy cửa ra vào ngay trước mặt tôi, cửa sổ nằm ở phía bên kia, nhìn ra biển.
Một ý nghĩ kỳ lạ bỗng nhiên chiếm lấy tôi. Đó chắc chắn là điềm báo trước cho những gì sắp xảy ra. Tôi nghĩ: Nếu như bây giờ có một người đang ngồi trong nhà chờ mình thì sao? Tôi có một cái ghế bập bênh đã cũ trong phòng và không thể nào dứt ra khỏi ý nghĩ rằng có người đang ngồi trên cái ghế ấy. Tôi còn nghĩ ngay ra diện mạo của người ấy như thế nào, với đường lông mày trắng như phấn… Khi tôi bước vào nhà, người ấy sẽ ngồi thoải mái trên cái ghế bập bênh, bộ lông mày trắng sáng bóng trong bóng tối và không nói một lời nào… Tôi đi mà như chạy, mỗi lúc một nhanh hơn, tiến về phía trước, để nỗi sợ hãi kỳ lạ ngày một lớn lên đó không chiếm lĩnh được tôi. Trước khi định thần lại, tôi đã đứng giữa gian phòng, cái ghế bập bênh trống trơn, rồi tôi đóng cửa ra vào ở phía sau lại.
Nhưng trong lúc sờ soạng tìm diêm để quẹt, tôi bỗng nghe rõ tiếng đồng hồ tíc tắc, nhưng lại không phải từ đồng hồ của tôi. Cơn sợ hãi lạnh buốt lại bao quanh trái tim tôi lần nữa, và xém chút nữa thì tôi bỏ chạy ra ngoài. Lúc đó, tôi sực nhớ tới đồng hồ tử thần, những con bọ nhỏ gây ra tiếng động ấy trong những ngôi nhà cũ. Tiếng động mà tôi nghe được chỉ là tiếng của con bọ mà thôi. Tôi tiếp tục tìm diêm quẹt, không ngừng để tâm lắng nghe tiếng tích tắc ấy, dường như nó đã thay đổi vị trí và đi theo tôi. Trong trí tưởng tượng bối rối của mình, tôi tin rằng có người đang bám theo tôi không một tiếng động, một người mà tôi không nhìn thấy được nhưng lại nghe được tiếng từ chiếc đồng hồ bỏ túi của người ấy. Cuối cùng tôi cũng tìm thấy diêm quẹt. Tôi nhấc cái thông phong lên khỏi cây đèn - nó còn ấm. Cái thông phong bằng thủy tinh hãy còn ấm.
Tôi đứng đó như trời trồng; một tay là cái thông phong, tay kia là que diêm đang cháy. Que diêm cháy cho tới khi lửa lan tới các ngón tay của tôi rồi tắt hẳn, và tất cả lại chìm vào bóng tối. Cảm giác duy nhất xâm chiếm tôi sau đó là khát khao muốn xé rách màn đêm, đưa ánh sáng về quanh tôi. Tôi không nhớ làm thế nào nhưng ngay khi đốt được đèn lên thì tôi lại vô tình nhìn ra cửa sổ. Đó là một cái cửa sổ to kiểu cũ với tám tấm kính. Bóng tối đang nằm ngoài kia, trước tám tấm kính ấy, và làm cho chiếc cửa sổ tối đen như gỗ mun… Tấm màn cuốn… Tôi đứng dậy để thả nó xuống. Cả người tôi run lên vì sợ…
Lúc đó, tôi nhìn thấy một gương mặt trong bóng tối ngoài kia đang nhìn chằm chằm vào tôi. Đó là gương mặt của người bị giết… cái trán cao… đôi môi đỏ như máu nằm giữa bộ râu và ria mép như một vết thương chưa lành. Gương mặt ấy hiện ra rõ ràng trong bóng tối đen như mực. Và bây giờ nó tiến đến gần, tôi có thể nhìn thấy cả cổ họng, cái cổ áo bị gập lại, chiếc cà-vạt nằm vắt vẻo trên tai phải. Người chết này đang định trèo vào phòng tôi!