← Quay lại trang sách

Chương ba

Rex là một trong những cửa hiệu bán xa xỉ phẩm Âu Tây vừa lâu năm vừa nổi tiếng nhất miền Motomachi thuộc Yokohama. Từ khi ông chồng qua đời, Fusako vẫn trông nom công việc buôn bán. Lối kiến trúc Tây Ban Nha của căn nhà nhỏ hai tầng trông thực nổi bật; cửa sổ hoa đầu theo lối Âu Tây nằm ẩn sâu vào bức tường dày quét vôi trắng phía trước cửa hiệu luôn luôn được trang hoàng đẹp mắt, thú vị. Bên trong một căn gác lửng lộ thiên quay mặt ra một trung đình lát gạch nhập cảng từ Tây Ban Nha. Ở chính giữa trung đình có một vòi nước nhỏ đang phun nước phì phì. Pho tượng tửu thần Hy Lạp Bacchus bằng đồng, trên tay móc lủng lẳng vài cái cà vạt hiệu Vivax, là một trong những món hàng giá trị hiếm có mà người chồng Fusako đã thu thập trong lúc sinh thời – những thứ này không phải để bán nên đề giá rất cao để làm nản lòng những ai muốn mua.

Dưới quyền Fusako có một ông quản lí lớn tuổi và bốn cô gái bán hàng. Khách hàng là những ngoại nhân giàu có sống ở Yokohama, một số lớn những tay ăn chơi, những người làm nghề điện ảnh từ Tokyo tới, và cả một số người từ những cửa hiệu bán lẻ trong vùng Ginza xuống mua hàng dự trữ. Hiệu Rex đã nổi tiếng và được tin tưởng là khéo kén chọn hàng hoá phẩm chất tuyệt hảo, nhất là quần áo và những món hàng nhập cảng dành cho đàn ông. Cả Fusako lẫn viên quản lí tên là Shibuya – người có cùng những thú vị với chồng bà ngày trước – đều là những người mua hàng rất kĩ tính.

Bất kì lúc nào có một chiếc tàu mới cập bến Yokohama thì cũng có một nhân viên quan thuế, bạn cũ của gia đình, nhờ những chỗ quen biết, vẫn đưa chồng nàng hoặc người đại diện vào thẳng kho chứa hàng hoá mới được rỡ xuống tàu và còn chất trong kho. Thường thường Fusako có thể mua được hàng ngay trước khi các khách mua khác biết là hàng đã tới. Cửa hiệu của nàng vẫn có cái lối nhấn mạnh vào nhãn hiệu nêu rõ phẩm chất của món hàng trong khi đưa ra nhiều giá cả khác nhau. Chẳng hạn như hiệu Rex đặt mua áo len đàn ông hiệu JAEGER rồi chia ra đồng đều, một nửa là những thứ hạng tốt nhất, một nửa là thứ thông dụng nhất. Với những món hàng da nhập cảng từ Ý Đại Lợi cũng vậy: hiệu Rex chọn loại da thuộc của một trường dạy làm đồ da có kết ước đặc biệt với hãng Chisea Santa Croce ở Florence đồng thời cũng chọn cả những loại găng tay, ví da đắt tiền nhất của hang Via Condotti nữa.

Vì còn phải trông nom Noboru, Fusako không thể đích thân đi ra nước ngoài nhưng năm ngoái, nàng đã phái ông Shibuya thay mình đi vòng châu Âu một chuyến để đặt mua hàng, kết quả là ông này đã bắt liên lạc thương mại với khắp mọi nước ở Âu châu. Ông Shibuya đã đem cả cuộc đời mà hiến trọn cho sự thanh lịch của y phục. Hiệu Rex lại còn bán hàng lô hài tráo kiểu Anh, thứ hàng không ai có thể tìm thấy ở cửa hiệu nào khác trong vùng Ginza cả.

Fusako đến cửa hiệu theo giờ giấc nhất định và sáng nào cũng được ông quản lí cùng các cô bán hàng chào đón niềm nở. Nàng hỏi một vài câu về công việc làm ăn rồi đi thẳng lên phòng mình trên gác lửng lộ thiên rồi giở các thư từ giao dịch ra mà đọc. Chiếc máy điều hoà không khí đặt tại cửa sổ kêu rù rù một cách nghiêm trang, trịnh trọng.

Ngồi ở bàn giấy vào những giờ quen thuộc là một thú vị lớn lao cho Fusako. Phải thế mới được chứ. Hôm nay cũng như những hôm khác, nàng không sao tưởng tượng được là nếu mình phải nằm nhà không ra cửa hiệu thì sự thể sẽ ra làm sao.

Nàng lấy trong cái xách tay ra một điếu thuốc lá dành cho đàn bà rồi vừa bật lửa, vừa đưa mắt nhìn cuốn sổ ghi các công việc dự định trong ngày: Kasuga Yoriko, một nữ tài tử điện ảnh cư trú tại Yokohama, hẹn sẽ tới cửa hiệu vào giờ nghỉ trưa để mua một số hàng thực lớn; cô ả vừa đi dự đại hội điện ảnh ở châu Âu về và đã tiêu hết sạch số tiền được tặng để mua lung tung bao nhiêu thứ và hi vọng gỡ lại bằng một số quà tặng ở hiệu Rex. Cô ả đã gọi điện thoại cho Fusako. «Chị cho em một ít hàng tốt nhất của Pháp cho khoảng chừng hai mươi người đàn ông. Chị chọn thứ nào chị ưng ý là được». Lúc xế chiều, cô bí thư của ông Giám đốc Thương khố Yokohama đã đến lấy một số áo sơ mi Ý Đại Lợi mà ông sếp cô ta vẫn thích diện trên sân côn cầu. Là những khách hàng quen thuộc lâu ngày, những người con gái này thực tế rất dễ chiều ý.

Dưới những cánh cửa quay người ta nhìn thấy những bậc thềm trong cái trung đình vắng vẻ lặng lẽ. Những búp lá trên cây cao su trồng trong một xó trông lấp lánh một cách buồn tẻ. Rõ ràng là chưa có khách nào tới cả.

Fusako băn khoăn e ngại là ông Shibuya có thể nhận thấy quanh mắt mình có một cái gì giống như luống cuống, xúc động làm mình đỏ mặt đỏ mày. Ông già chăm chăm nhìn thẳng mặt thiếu phụ y như đang xem một tấm vải mặc dù thiếu phụ là chủ nhân của ông ta.

Thực ra mãi cho đến sáng hôm ấy, nàng chưa bao giờ đếm ngày đếm tháng cả. Chồng nàng qua đời, tính đến nay đã được năm năm trời. Thời gian ấy, trong bấy lâu, dường như chẳng có vẻ lâu dài gì cho lắm. Ấy thế mà giống như một tấm thắt lưng trắng không sao có thể quấn lại được, năm năm trời ấy, nàng chợt thấy sao mà dài dặc ghê người!

Fusako giụi mẩu thuốc lá vào cái gạt tàn rồi giập tắt đi. Người đàn ông vẫn còn ẩn trong từng góc cạnh trên thân hình nàng. Nàng cảm thấy thịt da mình đang rạo rực dưới lớp quần áo, đùi vế và khung ngực đang hoà nhịp chiếu ứng với nhau; đây là một cảm giác hoàn toàn mới mẻ. Và nàng vẫn còn ngửi thấy mùi mồ hôi người đàn ông. Nàng uốn cong những ngón chân đi bít tất dài lên như là để thử xem sao.

Fusako mới gặp Ryuji lần đầu tiên cách đây hai ngày. Noboru vốn say mê tàu biển, đã vòi vĩnh thúc giục giục nàng hỏi xin một ông bạn trong ban điều hành công ty hải thuyền một lá thư giới thiệu và rồi hai mẹ con nàng đã dắt nhau đi thăm chiếc Rakuyomaru, một chiếc tàu chở hàng trọng tải 10.000 tấn đang hạ neo tại bến tàu Takashima.

Hai mẹ con ngừng chân giây lát tại một đầu bến tàu, ngắm một con tàu màu kem nhạt, óng ánh đằng xa. Fusako cầm cái ô có cán bọc da rắn màu trắng, giơ lên che nắng. Noboru nói với giọng thành thạo:

“Má có nhìn thấy những chiếc tàu ở ngoài khơi đằng kia đấy không? Chúng đang chờ đến lượt vào ngạn bích mà thả neo đấy.”

“Đó là lý do khiến hàng của mình gửi bằng tàu luôn luôn tới chậm cho đến thế”. Fusako chậm rãi nói, chỉ nhìn lên con tàu là nàng đã thấy nóng bức cả người.

Bầu trời lốm đốm những ánh sáng mây mùa hạ bị những sợi dây neo thuyền mắc dọc mắc ngang chia ra thành từng mảng nhỏ. Trên mũi tàu Rakuyo vểnh cao như một cái cằm gầy guộc, lá cờ màu xanh của công ty hải thuyền bay phất phới trên đỉnh cột cao vút, chiếc neo móc ở lỗ buông neo trông giống như một con cua sắt to lớn đen ngòm.

Noboru tỏ vẻ thích thú ra mặt một cách rất hồn nhiên:

“Hẳn là thú ghê gớm lắm đây. Con chắc là mình sẽ được đi xem con tàu suốt từ đầu đến đuôi, chẳng còn bỏ sót một xó xỉnh nào hết”.

“Con ơi đừng có trông đợi nhiều quá chừng nào mình còn chưa biết lá thư giới thiệu này có theo đúng hết những ước nguyện của mình hay không.”

Về sau nghĩ lại, Fusako nhận thấy là lòng mình cũng xốn xang, xao xuyến ngay lúc hai mẹ con cùng đứng ngước nhìn lên con tàu “Thật buồn cười mình cũng thấy rộn rã tấm lòng y hệt như Noboru vậy”.

Tình cảm này bao trùm lấy nàng lúc nàng cảm thấy uể oải thẫn thờ đến tột độ. Đột nhiên chẳng hiểu vì lý do gì, chỉ ngẩng đầu lên nhìn là nàng đã thấy nóng bức và mệt mỏi rồi.

“Đây là một chiếc tàu có sàn bằng phẳng, má ạ - đẹp quá đi thôi!” Chẳng làm sao kìm giữ được những sự hiểu biết chất chứa trong đầu, Noboru thích thú nêu từng chi tiết cho người mẹ chẳng mấy hứng thú gì nghe. Khi hai mẹ con lại gần hơn, chiếc Rakuyo đứng sừng sững trước mặt họ y như một bản nhạc vĩ đại vậy. Noboru nhảy vọt lên phía trước, cắm đầu chạy tới cái cầu thang gỗ bắt từ bờ lên con tàu lóng lánh màu trắng bạc.

Nhưng Fusako lại phải đi vòng xuống hành lang phía trước khu phòng việc của các sĩ quan tay khư khư nắm chặt lá thư giới thiệu gửi cho vị thuyền trưởng. Boong tàu đang ồn ào náo nhiệt bận rộn rỡ hàng nhưng cái hành lang ngột ngạt trên tàu lại im lìm một cách khó chịu.

Đúng vào lúc đó, cánh cửa một căn phòng trên có đề chữ “Nhị đẳng phó quan” bỗng mở ra và Tsukazaki mặc áo sơ mi trắng ngắn tay, đầu đội mũ sĩ quan hàng hải, xuất hiện.

“Xin ông làm ơn chỉ giùm phòng việc của Thuyền trưởng.”

“Ông ấy đi vắng. Bà có việc gì không ạ?”

Fusako đưa cho chàng lá thư. Noboru mắt sáng hẳn lên, ngước nhìn chằm chằm vào người sĩ quan hàng hải.

“Vâng tôi hiểu – đi xem tàu để học hỏi đây mà. Tôi nghĩ là có thể đưa bà và cậu em đây đi một vòng xem khắp con tàu.” Anh chàng có dáng vẻ sỗ sàng, vừa nói vừa dán chặt đôi mắt vào khuôn mặt người thiếu phụ.

Đó là cuộc gặp gỡ đầu tiên giữa hai người. Nàng sẽ không bao giờ quên được đôi mắt chàng khi hai người chạm trán trên con tàu. Ẩn sâu trong khuôn mặt xạm nắng đăm đăm, đôi mắt ấy tìm kiếm nàng như thể nàng là một điểm nhỏ xíu trên mặt nước phẳng lì, như là hình ảnh đầu tiên của một con tàu còn ở ngoài xa xa tít. Ít nhất là nàng cảm thấy như thế. Đôi mắt nhìn khuôn mặt ngay trước mắt thì việc gì mà phải xoáy vào sâu thẳm như thế, thu vén góp nhặt dữ dội cho đến thế. Giữa đôi mắt và đối tượng, chẳng có một hải lí nào cách ngăn, thực là khác thường quá đi. Nàng tự hỏi không biết có phải tất cả những cặp mắt quanh năm suốt tháng soi mói nhìn chân trời đều như thế cả hay không? Một cái chấm đen, hình ảnh con tàu lúc mới nhìn thấy từ đằng xa, nỗi xốn xang, vui mừng, sự để ý, đợi chờ… Con tàu được nhìn thấy từ một cự li thực lớn trên mặc bể chỉ vừa đủ để đè nén sự giận dữ của con tàu trước cái nhìn phá phách này. Cái lối nhìn của người sĩ quan hàng hải làm Fusako khẽ rùng mình.

Thoạt tiên Tsukazaki dẫn hai mẹ con nàng tới cầu tàu. Chiếc thang đưa họ lên boong chính tràn ngập ánh nắng chiều hè chiếu hắt nghiêng nghiêng từng hàng trên các bậc thang. Chỉ tay về phía những chiếc tàu chở hàng hạ neo tít ngoài khơi, Noboru nhắc lại những hiểu biết của nó:

“Những chiếc tàu kia đang chờ có chỗ trống để vào hạ neo trong ngạn bích phải không?”

“Đúng thế. Có những chiếc phải chờ tới bốn năm ngày liền đó, cháu ạ.”

“Thế khi có chỗ trống người ta có dùng vô tuyến điện báo tin cho các tàu đó biết hay không?”

“Có chứ. Hãng tàu sẽ đánh điện cho mình biết. Mỗi ngày công ty có một tiểu ban họp bàn để quyết định cho tàu nào vào bến trước.”

Mồ hôi chảy ròng ròng trên lưng áo sơ mi trắng của Tsukazaki, loang ra từng mảng, càng làm lộ rõ thịt da trên tấm lưng vạm vỡ của chàng; Fusako cảm thấy hơi bối rối. Nàng cảm thấy phải cảm tạ người đàn ông đã chịu khó chiều chuộng Noboru; tuy nhiên anh chàng đã làm cho nàng lúng túng khi quay nhìn nàng và hỏi liền mấy câu:

“Chú bé này hiểu rõ những lời mình nói. Chẳng hay chú ấy có ý định trở nên một thuỷ thủ hay không?”

Đôi mắt anh chàng, một lần nữa, lại nhìn nàng như là dò xét.

Trông anh chàng có vẻ là một người phác lậu nhưng chung quanh, vẫn có một vẻ thản nhiên nên Fusako không thể nói chắc là liệu anh chàng có cảm thấy kiêu hãnh chút nào về chức nghiệp của mình hay không. Đến lúc giương ô ra che nắng và nheo mắt ngó nhìn thẳng mặt anh chàng, vừa cố gắng quyết định, nàng vừa tin là mình đã khám phá ra một cái gì không mong chờ mà bắt gặp dưới bóng đôi lông mày dày rậm của anh chàng. Một cái gì nàng chưa hề nhìn thấy dưới ánh nắng chói chang giữa ban ngày ban mặt.

“Nếu khôn hồn thì chú bé nên quên hết những chuyện ấy đi là hơn. Đó là một công cuộc làn ăn khốn nạn trên đời.” Rồi chẳng buồn đợi câu trả lời, Tsukazaki nói tiếp:

“Đằng này là một cái máy thiên trắc.” Chàng gõ tay vào một dụng cụ hàng hải trông giống như một cái nấm trắng dựng trên một cây gậy dài ngoằng.

Khi họ đi vào phòng lái của đà thủ, Noboru muốn đưa tay sờ mó đủ mọi thứ: máy truyền lệnh tới phòng máy, máy toàn chuyển nghi, màn ra đa, máy vặn tằng số điện tử, máy hàng lộ tự hoạch, máy truyền lệnh “Ngừng – Đợi – Tiến” cùng vô số máy trắc lượng và la bàn hình như để gợi ra tất cả những nguy nan trên mặt biển mênh mông. Trong phòng bản đồ kế bên, Noboru cứ dán mắt vào những cái giá chất đầy nào hàng hải biểu, nào thiên trắc lịch, thiên trắc kế toán biểu, bảng ghi các hải cảng và các vùng bể của Nhật Bản, các ngọn hải đăng, nào triều tịch biểu nào các tạp chí về thuỷ lộ; nó hết sức tìm hiểu cả những tấm bản đồ đang dùng vẽ bằng phấn dễ xoá. Trên bản đồ có những đường vẽ chằng chịt, đổi thay như đan lấy mặt biển; những đường vẽ ấy lúc ẩn lúc hiện theo những nét kỉ hà kì cục nào đó. Quyến rũ nhất là tấm bảng hàng hải nhật chí; những hình bán nguyệt nho nhỏ chỉ lúc mặt trời mọc và mặt trời lặn, hai hình lưỡi liềm vàng óng ghi tuần trăng mọc trăng lặn và những đường gợn sóng nho nhỏ ghi những lúc nước triều lên cao xuống thấp.

Trong khi Noboru đang vẩn vơ trong mộng thì Tsukazaki đứng sát ngay bên Fusako, hơi nóng từ thân mình anh chàng xông lên trong căn phòng chứa bản đồ nóng hừng hực bắt đầu làm cho Fusako thấy ngột ngạt: lúc cái ô có cán bọc da rắn để dựa bên bàn giấy bỗng dưng rơi cạch một cái xuống sàn, nàng cảm thấy như thể chính mình đã thất thần mà ngã lăn chiêng ra đó.

Nàng khẽ kêu một tiếng. Cái ô lóng lánh lăn dưới bàn chân. Nhanh như chớp, người sĩ quan hàng hải cúi nhặt cái ô lên. Fusako thấy như anh chàng đang cử động thực là chậm chạp y hệt một người thợ lặn ở dưới nước. Anh chàng dựng cái ô đứng thẳng rồi từ đáy biển thời gian ngột ngạt này, chiếc mũ trắng trên đầu anh chàng từ từ ngoi lên trên bề mặt…

Ông quản lí Shibuya đẩy cánh cửa khải phiến che ngang tầm mắt, bước vào nói:

“Thưa Bà, cô Kasuga Yoriko vừa mới tới”.

“Được rồi, tôi sẽ xuống ngay.”

Ông già đã đến gọi nàng một cách quá đường đột, nàng thấy tiếc là đã quá mau mắn đáp lời.

Nàng dừng lại một phút, ngắm kĩ nét mặt mình trong tấm gương treo trên tường, mơ hồ tưởng như còn đang đứng trong căn phòng chứa bản đồ trên tàu.

Yoriko đã cùng cô hầu gái đi vào tới trung đình. Cô nàng đội chiếc mũ rộng vành màu hoa hướng dương.

“Em muốn Má chọn hết mọi thứ giùm cho. Em chẳng biết lựa chọn gì đâu.”

Fusako chúa ghét việc bị gọi là “Má” nghe như thể nàng là chủ nhân một cái quán rượu. Nàng chậm rãi bước xuống cầu thang đến chỗ Yoriko đang đứng chuyện trò cùng mấy người khác.

“Hôm nay bà chị có được mạnh khoẻ không ạ? Trời nóng quá chừng đi!” Người phụ nữ tài tử điện ảnh thở than mãi về hơi nóng ngột ngạt khủng khiếp và đám đông chen chúc ở cầu tàu nơi đang quay phim. Fusako tưởng tượng ra hình dáng Ryuji ở một nơi nào đó giữa đám đông và tự dưng bực bội.

“Sáng nay cắt cả thảy tới ba mươi lần bà chị có tưởng tượng nổi không? Đó là điều mà ông Honda gọi là ‘quay phim cho thực chóng’”.

“Liệu cuốn phim có khá hay không?”.

“Chẳng chắc tí nào. Dù sao đó cũng chẳng phải là loại chiếm được giải thưởng mà lo”.

Đối với Yoriko, việc chiếm được giải thưởng diễn xuất đã trở thành một sự ám ảnh kinh khủng. Thực ra những món quà nàng mua hôm nay đều ở trong công cuộc vận động quen thuộc không ai bắt chước nổi của nàng đối với những uỷ viên trong hội đồng chấm giải. Việc nàng cứ cố tình tin tưởng vào bất kì một chuyện tai tiếng nào – ngoại trừ những gì liên hệ đến chính nàng – đã cho thấy là cô ả này chẳng ngần ngại hiến thân cho bất kì một uỷ viên nào trong hội đồng chấm giải nếu nàng nghĩ là việc đó sẽ có hiệu quả như ý. Tuy phải vật lộn khó khăn lắm mới nuôi nổi gia đình có mười miệng ăn, song Yoriko là một người đẹp khêu gợi mà lại hết sức cô độc – theo như chỗ Fusako hiểu biết rất rõ. Tuy vậy, trừ việc cô nàng là một khách hàng tốt, Fusako thấy cô ta là một người hầu như không sao chịu nổi.

Tuy nhiên hôm nay, Fusako lại đắm chìm trong một sự êm đềm đến tê buốt cả người: nàng vẫn thấy rõ ràng những khuyết điểm cùng sự tầm thường của Yoriko, nhưng những cái ấy trông lại có vẻ mát lạnh, không làm cho người ta cáu giận y hệt như những con cá vàng bơi trong một bồn nước vậy.

“Mới đầu tôi nghĩ là áo len thì hay lắm nhưng đã gần tới mùa thu và tôi chắc là cô đã mua những thứ ấy từ trước đại hội điện ảnh trong dịp hè nên tội chọn mấy cái cà vạt hiệu Caldin, mấy cái áo mặc khi đánh polo và mấy loại bút máy hiệu Jiff. Đối với các bà vợ, tôi nghĩ tặng nước hoa là hay nhất. Mình lên trên gác một lát có được không? Dù sao tôi cũng mong được đưa cô xem đủ tất cả mọi thứ ở ngay trên phòng việc.”

“Em muốn lắm song tiếc là không được rảnh rang. Chỉ có một chút xíu thì giờ để ăn vội cho xong bữa trưa. Em giao hết mọi việc cho bà chị đây? Cần nhất là xin cho vào hộp và gói giấy đẹp đẽ kĩ càng. Làm như vậy là tăng hẳn phẩm chất món quà, bà chị có nghĩ thế không?”

“Chúng tôi sẽ cho gói tất cả các thứ sao cho thực đẹp”.

Cô bí thư của ông chủ tịch Thương khố Yokohama tới đúng lúc Yoriko vừa bước ra, cô ả là khách hàng quen thuộc cuối cùng trong ngày. Fusako có trước mặt mình một bữa ăn trưa với mấy món ăn nhẹ và một cốc hồng trà mà nàng đã bảo mua mỗi ngày ở hiệu bánh bên kia đường rồi mang lên tận phòng làm việc; nàng ngồi xuống trước khay đồ ăn ngồi ăn một mình. Xoay người ngồi cho thoải mái trên chiếc ghế, y như một người đang ngủ cựa quậy trở mình dưới lớp chăn để cố gắng níu lại giấc mộng dở dang, nàng nhắm mắt lại thả hồn trở lại chiếc cầu trên tàu Rakuyo chiều hôm trước thực là dễ dàng.

Tsukazaki dẫn hai mẹ con xuống cái bậc thang xuống dưới boong tàu để họ có thể đứng đó xem người ta rỡ hàng ở khoang số bốn. Miệng khoang là một khoảng trống to lớn, tối om khoét trên sàn thép nơi họ đang đứng. Một người đàn ông đội mũ sắt sơn vàng đang đứng trên một bực hẹp ngay dưới chân họ để đưa tay ra hiệu chỉ huy cây cần trục.

Thân mình trần đến thắt lưng của bọn phu khuân vác lấp lánh một cách tẻ nhạt dưới đáy khoang tối mù. Thoạt tiên, lúc mới được móc lên, các kiện hàng che lấp hết ánh mặt trời rồi lắc lư từ dưới đáy sàn lên trên miệng khoang. Tia nắng mong manh lướt qua những cái thùng gỗ đựng hàng hoá trong khi chúng được nhấc bổng di chuyển trên không trung với một tốc độ còn nhanh hơn cả làn ánh sáng rơi vãi trên con tàu và rập rờn trên các chiếc phà đang chờ trực.

Đứng dưới cái ô mỏng, Fusako theo dõi những sự chuẩn bị cẩn thận ghê người rồi, những kiện hàng đột nhiên bay bổng lên cao; những sợi dây cáp xoắn lại lấp lánh một cách nguy hiểm. Fusako cảm thấy trong con người mình cũng có hết kiện hàng nặng nề này đến kiện hàng nặng nề khác đang được nhấc bổng lên cao rồi chuyển đi như bay trên cánh tay khổng lồ của chiếc cần trục một cách thực là đột ngột sau bao nhiêu sự chuẩn bị lâu dài. Nang thấy ghê người trước những kiện hàng không ai nhấc lên nổi đang bềnh bồng trên không trung và cảm thấy mình có thể đứng ngắm nhìn mãi không bao giờ chán mắt. Đó có thể là vận mệnh đương nhiên của hàng hoá nhưng phép lạ này cũng lại là một điều sỉ nhục. Nàng nghĩ thầm: “Hàng mỗi lúc vơi dần. Sự tiến hành thực là mãnh liệt nhưng cũng có lúc do dự và buồn chán. Trời bức quá thể làm cho mình chán chường mỏi mệt; thời gian ngưng đọng, kéo dài lê thê.”

Hẳn là vào lúc đó nàng đã nói đại khái:

“Ông thực tử tế quá, chẳng quản mất thì giờ đã đưa tôi và thằng cháu đi xem một vòng khắp con tàu trong khi tôi biết là ông hết sức bận rộn. Không biết tối mai, có lúc nào ông rảnh rỗi để chúng tôi được mời ông xơi cơm tối hay không?”

Đó là lời mời có tính cách xã giao và chẳng thể ngờ là Fusako đã nói lời ấy với một giọng lặng lẽ lạnh lùng. Nhưng với đôi tai Tsukazaki thì chẳng khác gì những lời nói mê sảng của một người đàn bà đang mệt lả vì nóng bức. Anh chàng nhìn Fusako với con mắt ngay thẳng, ngỡ ngàng.

Đêm qua, họ đã cùng đi ăn tối ở NEW GRAND HOTEL. Lúc ấy mình chỉ định bụng cảm ơn chàng. Chàng ngồi ăn thật là đúng lễ, rõ ra một vị sĩ quan. Ăn xong hai đứa cùng nhau tản bộ, đi mãi tưởng không bao giờ ngừng. Sau cuộc tản bộ ấy, chàng bảo muốn đưa mình về nhà nhưng hai đứa lại đưa nhau vào một công viên mới dựng trên đời và chẳng muốn chia tay nhau chút nào hết, hai đứa lại cùng nhau ngồi trên một tấm ghế dài. Thế rồi hai đứa nói lan man đủ mọi thứ chuyện. Từ trước đến nay, kể từ khi chồng mình qua đời, chưa bao giờ mình lại chuyện trò lâu lắc với một người đàn ông cho đến thế.