Chương 5
Một
Việc đọc sách đôi khi có thể trở nên nhàm chán, nhưng thỉnh thoảng tôi lại tìm ra điều gì đó mà tôi thích tìm hiểu. Tôi đang ngồi trên một chiếc ghế bành bên cửa sổ trong lúc viết ra những dòng này, với một tấm bảng kê trên đùi để viết lên, và một lúc lâu trước khi bắt đầu, tôi chỉ ngồi đó nhìn chằm chằm những bông tuyết đang rơi. Những bông tuyết to, nặng, dính chùm, rơi thẳng từ trên trời xuống. Bob đã dặn tôi làm gì cũng phải từ tốn để không bị đau lưng khi vác theo cái bụng chình ình này. Thế nên tôi đã ngắm tuyết một lúc lâu. Và tôi bắt đầu nhớ lại những gì mình đã đọc cách đây vài ngày về vòng tuần hoàn của nước, về cách hoạt động của cả một quá trình phức tạp từ bay hơi đến ngưng tụ, cũng như gió máy và các luồng không khí. Tôi quan sát tuyết rơi và nghĩ về cách mà những cụm bông trắng, trước đó hãy còn là lớp nước bề mặt của Đại Tây Dương, được hóa hơi dưới sức nóng của mặt trời. Tôi có thể hình dung những đám mây di chuyển cùng nhau ở tít phía trên cao, rồi hơi nước trong đó kết tụ thành những bông tuyết, rơi xuống, dính chùm lại, và tiếp tục rơi, cho đến khi tôi có thể nhìn thấy chúng bên ngoài ô cửa sổ tại New York này.
Có điều gì đó khiến tôi cảm thấy rất tuyệt chỉ với việc biết được những thứ như vậy.
Hồi tôi còn bé, bố Simon đã nói chuyện với tôi về những thứ như vòng tuần hoàn của nước và tuế sai của điểm phân. Bố có một tấm bảng đen cũ và phấn trắng. Tôi còn nhớ ông đã vẽ cho tôi xem sao Thổ cùng các vành đai của nó. Khi tôi hỏi làm thế nào bố biết về những thứ đó, ông nói với tôi là đã học được từ người cha của mình. Ông nội của ông khi còn bé đã từng quan sát bầu trời đêm qua một cái kính viễn vọng, vào thời điểm không lâu sau “cái chết của trí tò mò”, như cách bố Simon gọi.
Mặc dù không biết đọc, không biết viết và chưa từng đi học, nhưng bố Simon cũng có một hiểu biết nhất định về quá khứ. Không chỉ về nhà chứa Chicago, mà cả Đế chế La Mã, Trung Quốc, Hi Lạp và Ba Tư. Tôi vẫn còn nhớ hình ảnh bố ở trong cái lán nhỏ bằng gỗ của chúng tôi, điếu cần sa vắt vẻo trên cái miệng móm trong khi ông đứng bên bếp củi đảo món thịt thỏ hầm hoặc súp đậu, và bảo:
- Đã từng có những con người vĩ đại trên thế giới, những người có đầu óc, tài năng và trí tưởng tượng. Nào là St Paul, Einstein và Shakespeare... (Ông có nhiều danh sách các tên tuổi trong quá khứ để trịnh trọng liệt kê vào những lúc như vậy, và luôn mang đến cho tôi cảm giác ngưỡng mộ khi nghe). Nào là Julius Caesar, Tolstoy và Immanuel Kant. Nhưng giờ thì toàn là robot. Robot và nguyên tắc khoái cảm. Đầu óc mọi người giờ chỉ là một bộ phim rẻ tiền.
Chúa ơi. Tôi nhớ bố Simon cũng nhiều gần bằng Paul. Tôi ước gì anh ở New York cùng với tôi, trong những buổi sáng khi Bob đi làm ở trường đại học. Trong khi tôi đang viết phần đầu tiên của cuốn nhật kí này, phần nhớ lại cuộc đời tôi, lúc tôi và Paul sống cùng nhau, tôi rất muốn bố Simon có thể trả lời các thắc mắc của tôi về thời điểm tôi xuất hiện tại nơi ông sống, trong sa mạc. Về việc tôi trông như thế nào khi còn là một bé gái, liệu tôi có xinh đẹp và thông minh hay không, liệu tôi có thực sự học mọi thứ nhanh như ông nói hay không. Bây giờ tôi ước gì có ông bên cạnh vì khiếu hài hước và sự cuồng nhiệt của ông. Bố là một ông già, rất già, nhưng ông nồng nhiệt và vui tính hơn nhiều so với hai người đàn ông mà tôi sống cùng sau đó.
Paul nghiêm túc một cách đáng thương. Tôi vẫn buồn cười khi nhớ lại biểu cảm trên khuôn mặt anh khi tôi ném hòn đá đó vào chuồng trăn, hay sự nghiêm nghị của anh khi bắt đầu dạy tôi đọc. Cả cách anh đọc vài trang đầu tiên của cuốn nhật kí này, khi chúng tôi sống trong thư viện, vừa mím môi vừa cau mày, ngay cả những đoạn tôi thấy buồn cười.
Bob hầu như không khá hơn. Thật nực cười khi mong đợi một robot có khiếu hài hước, nhưng cũng vẫn khó mà chịu đựng sự nghiêm trang và độ nhạy cảm của ông. Nhất là khi ông kể cho tôi nghe về giấc mơ luôn ám ảnh mình. Lúc đầu tôi còn thấy nó thú vị, nhưng càng về sau nó càng làm tôi ngán ngẩm.
Tôi đoán giấc mơ đó có liên quan mật thiết với việc tôi sống cùng Bob trong căn hộ ba phòng này. Đây rất có thể là khởi đầu của mong muốn được sống và cư xử như một con người bình thường trước kia, mong muốn được sống một cuộc sống tương tự như của người mơ giấc mơ đó ban đầu.
Thế nên tôi trở thành người vợ, hoặc người tình mà ông muốn có. Và chúng tôi chơi trò gia đình, bởi vì Bob muốn nó như vậy.
Tôi nghĩ ông ta điên.
Mà làm sao Bob biết bộ não của mình không phải được sao chép từ một người đàn ông độc thân? Hoặc một phụ nữ?
Bob bỏ ngoài tai những lời phản bác của tôi. Tất cả những gì ông nói là “Em có phiền thật không, Mary?” Và tôi nghĩ là không. Tôi nhớ Paul. Tôi nghĩ mình có yêu Paul một chút. Nhưng khi cân nhắc mọi lẽ, tôi không thực sự phiền lòng với cuộc sống hiện tại, với việc làm bạn đời của một robot da màu.
Có cái quái gì đâu, tôi từng sống ở vườn thú. Tôi sẽ thu xếp được.
Tuyết vẫn đang rơi ngoài cửa sổ. Tôi sẽ viết nốt đoạn này vào nhật kí, rồi ngồi cả tiếng đồng hồ uống bia ngắm tuyết, chờ Bob về nhà.
Tất nhiên, có lại Paul cũng tốt. Nhưng như bố Simon đã nói, người ta không thể có được mọi thứ. Tôi sẽ thu xếp được.
Hai
Bob lại kể cho tôi nghe về giấc mơ của mình, như thường lệ tôi chẳng làm được gì hơn ngoài mỉm cười lịch sự trong khi ông kể và cố gắng tỏ ra cảm thông. Ông mơ về một phụ nữ da trắng, nhưng cô ta chẳng giống tôi một chút nào. Tôi có tóc đen và khỏe khoắn với hông đùi chắc lẳn. Cô ta thì tóc vàng, cao và gầy. “Duyên dáng,” Bob đã nói thế. Nhưng tôi đâu có như vậy. Người phụ nữ trong giấc mơ của Bob luôn đứng bên cạnh một đầm nước đen, và cô ta khoác một chiếc áo choàng tắm. Tôi không nghĩ mình từng bao giờ khoác áo choàng tắm trong đời, và cũng không thấy hứng thú với việc đứng lâu bên cạnh các thể loại ao hồ.
Tôi tin rằng điều mà tôi đang muốn nói ở đây là Bob yêu cô ta, chứ không phải tôi. Và như thế càng tốt.
Chắc chắn tôi không yêu Bob. Thật ra, tôi còn ghét ông ta, khi ông ta tước mất Paul từ tay tôi và tống anh ấy vào tù. Tôi đã khóc lóc và đánh ông ta nhiều lần sau cú sốc ban đầu. Một trong những điều khó chấp nhận nhất đối với tôi, đó là ông ta thực sự là một Tầm soát viên, rằng hóa ra trên đời này có Tầm soát viên thật. Tôi không bực vì ông ta là một robot hay có làn da đen, mà chủ yếu vì vỡ lẽ rằng mình có thể bị phát hiện . Chuyện đó đã lấy đi thứ từng cho tôi rất nhiều sự tự tin trong đời: Cảm giác rằng tôi không bị lừa bởi cái xã hội ngu ngốc mình đang sống. Nó làm sứt mẻ sự tự tin mà bố Simon đã cho tôi - bố Simon, người duy nhất mà tôi từng yêu quí từ trước đến giờ, hay có lẽ cả sau này nữa.
Ừ thì Paul là một người đàn ông tử tế, ngọt ngào, và tôi lo lắng cho anh ấy. Tôi đã cố gắng làm cho Bob thả Paul ra khỏi cái nhà tù hay trại cải tạo gì đó mà anh bị tống vào, nhưng ông ta thậm chí không buồn thảo luận chuyện đó với tôi. Ông ta chỉ buông một câu “Chẳng ai làm hại anh ta đâu” và không nói gì thêm. Ban đầu, có những lúc tôi muốn khóc cho Paul, tôi nhớ sự ân cần và ngây thơ của anh, cũng như sự trẻ con trong cái cách anh mua các thứ cho tôi. Nhưng tôi chưa bao giờ thực sự rơi lệ vì anh.
Bob thì ngược lại, là một kẻ có tầm quan trọng lớn. Ông ta, tôi biết, đã rất già - già hơn cả bố Simon nếu bố còn sống, nhưng điều đó dường như chẳng quan trọng gì, ngoài việc cho ông ta một vẻ chán đời mà tôi thấy khá thu hút. Việc ông ta là robot chẳng có ý nghĩa gì với tôi, ngoại trừ tính giản đơn trong mối quan hệ của chúng tôi, bởi vì chúng tôi không thể làm tình. Thật thất vọng khi tôi lần đầu khám phá ra điều đó, nhưng dần dà tôi cũng quen.
Ba
Đã nửa năm trôi qua kể từ khi Paul và tôi bị chia cắt, tôi dần trở nên thoải mái hơn với việc sống cùng Bob, nếu không muốn nói là khá hạnh phúc. Thật nực cười nếu chê trách một robot vì thiếu nhân tính, thế nhưng điều đó, xét cho cùng, chính là vấn đề. Ý tôi không phải là Bob thiếu cảm xúc - hoàn toàn không phải vậy. Tôi luôn phải nhắc mình mời ông ngồi xuống bên cạnh trong lúc tôi ăn, nếu không Bob sẽ cảm thấy tổn thương. Khi tôi nổi giận với ông, có vẻ như Bob bối rối thật sự. Một lần, trong lúc buồn chán, tôi đã chế nhạo Bob bằng cái tên “Robot”, và ông ta nổi cơn thịnh nộ, hét vào mặt tôi rằng ông ta không được chọn thân xác của mình. Không. Bob giống Paul ở chỗ tôi phải luôn cảnh giác với sự nhạy cảm của ông ta. Tôi là một người luôn phải giữ bình tĩnh trong mối quan hệ với người khác.
Nhưng Bob không phải là con người, và tôi không thể quên điều đó. Tôi đã quên nó một vài lần trong những tháng đầu tiên chúng tôi bên nhau. Đó là vào tháng thứ hai, sau khi cơn giận dữ của tôi với việc ông ta bắt Paul lắng xuống. Tôi đã cố gắng quyến rũ ông ta. Chúng tôi đang ngồi im lặng bên bàn bếp, trong khi tôi đang dùng nốt đĩa trứng bác và ly bia thứ ba, Bob ngồi cạnh tôi, mái đầu đẹp đẽ hơi nghiêng về phía tôi và quan sát tôi ăn. Ông có vẻ ngượng ngùng một cách dễ thương. Trước đó tôi đã quen với việc Bob không ăn, và hoàn toàn quên mất những ý nghĩa của điều đơn giản đó. Có thể là do bia, nhưng đó là lần đầu tiên tôi bắt gặp mình nghĩ sao mà ông có thể đẹp đến thế: Làn da nâu mềm mại, trẻ trung, mái tóc ngắn xoăn tít và đen nhánh, đôi mắt nâu. Khuôn mặt của ông mạnh mẽ và biểu cảm biết bao! Khi đó trong tôi chợt trỗi dậy một cảm xúc, thuộc về tình mẫu tử nhiều hơn là tình dục, và tôi vươn tay ra đặt tay lên cánh tay ông, ngay ở phía trên cổ tay. Nó thật ấm áp, giống như cánh tay của bất kì người nào.
Bob cụp mắt xuống bàn, không nói gì. Dù sao thì lúc đó chúng tôi cũng không nói chuyện nhiều. Ông mặc một chiếc áo sơ mi Synlon ngắn tay màu be để lộ cánh tay nâu đồng, một màu nâu rất đẹp, vừa mịn màng, ấm áp khi chạm vào, lại vừa nhẵn nhụi. Ông đang mặc quần kaki. Tôi đặt ly bia xuống và, thật chậm rãi - như trong một cơn mơ - tôi vươn tay về phía đùi Bob. Trong tích tắc ngắn ngủi của hành động đặt cái ly xuống, thoáng do dự rồi đưa tay tới trong khi bàn tay còn lại vẫn đang nắm tay Bob, mọi thứ bỗng trở nên đặc biệt gợi tình, tôi cảm thấy phấn khích và quay cuồng đầu óc. Tôi chạm tay vào mặt trong đùi của ông.
Chúng tôi ngồi đó trong một khoảng thời gian tưởng như dài dằng dặc. Tôi thật sự không biết phải làm gì tiếp theo. Tâm trí tôi hoàn toàn không có một chút toan tính lợi dụng hoàn cảnh nào, từ “robot” cũng không hề xuất hiện trong đầu tôi. Nhưng tôi đã không đi xa hơn, không như với những... người đàn ông khác.
Thế rồi Bob ngẩng đầu lên nhìn tôi. Vẻ mặt của ông thật khác lạ. Dường như không có chút biểu cảm nào trên đó.
- Cô đang định làm gì vậy? - Ông hỏi tôi.
Tôi chỉ thần người ra nhìn Bob.
Ông nghiêng đầu về phía tôi:
- Cô đang định làm cái quái gì vậy?
Tôi không đáp.
Bob dùng bàn tay còn tự do gỡ tay tôi khỏi lớp vải quần của mình. Tôi cũng buông tay ra khỏi cánh tay của ông. Bob đứng dậy, và bắt đầu cởi quần. Tôi trố mắt nhìn ông, trong đầu không có nổi một suy nghĩ nào.
Tôi đã không chờ đợi điều ông đang làm. Và khi nhìn thấy tận mắt, tôi thực sự bị sốc. Chẳng có gì giữa hai chân Bob. Chỉ có một cái rãnh nhỏ nơi làn da nâu nhẵn nhụi.
Bob không rời mắt khỏi tôi trong suốt quá trình đó. Khi trông thấy phần dưới phẳng lì của mình đã gây ấn tượng thế nào cho tôi, ông nói:
- Tôi được chế tạo tại Cleveland, Ohio. Tôi không được sinh ra. Tôi không phải là một con người.
Tôi quay mặt đi chỗ khác. Giây lát sau tôi nghe thấy tiếng ông ta mặc lại quần.
Tôi bèn gọi một chiếc xe buýt giao cảm và đi tới sở thú. Vài ngày sau sự việc đó, tôi phát hiện ra mình đã có mang.
Bốn
Đêm qua thay vì kể về giấc mơ của mình, Bob bắt đầu trò chuyện về trí tuệ nhân tạo.
Bob bảo bộ não của ông không hề giống với hệ thống ngoại cảm của những chiếc xe buýt giao cảm. Chúng nhận được chỉ dẫn và tự lái với thứ được ông gọi là “bộ phận tiếp nhận tư tưởng và tìm đường”. Ông cũng nói rằng cả ông lẫn khoảng sáu, bảy Tầm soát viên còn sót lại ở Bắc Mĩ đều không có khả năng ngoại cảm như thế. Nó quá nặng đối với bộ não nhân tạo mô phỏng não người của họ.
Bob là một robot Lớp Chín. Ông nói rằng Lớp Chín mà ông là đại diện duy nhất còn sót lại chính là một bản sao trí tuệ đặc biệt, và là thế hệ robot cuối cùng được chế tạo. Họ được thiết kế để trở thành các nhà quản lí và lãnh đạo cao cấp. Bản thân Bob đã điều hành một đế chế xe hơi cho đến khi xe cá nhân bị khai tử. Ông nói với tôi rằng chẳng những xe hơi cá nhân, mà máy bay cá nhân cũng đã từng có thời bay rợp trời, chở theo người trên đó. Nghe cứ như chuyện không tưởng.
Cách để tôi quen với việc sống cùng Bob sau khi bị ông khăng khăng yêu cầu, chính là đặt cho ông những câu hỏi về cách các thứ hoạt động. Hình như ông rất thích trả lời chúng.
Tôi đã hỏi Bob tại sao xe buýt giao cảm không được lái bởi robot.
- Ý đồ thực sự là chế tạo ra những phương tiện vận chuyển tối ưu. - Bob nói. - Cũng giống như điều đã dẫn tới thế hệ robot của tôi.
- Có gì là tối ưu trong một chiếc xe buýt giao cảm nhỉ? - Tôi thắc mắc.
Đối với tôi, chúng là những thứ rất tầm thường, luôn có sẵn, ghế ngồi thoải mái và không bao giờ chở nhiều hơn ba, bốn hành khách. Những chiếc xe bốn bánh chắc chắn màu xám đó là một trong những thứ máy móc luôn hoạt động và không yêu cầu người sử dụng phải có thẻ tín dụng.
Bob đang ngồi trên một chiếc ghế bành cũ kĩ bằng Plexiglas trong căn bếp của chúng tôi. Còn tôi thì đang luộc trứng tổng hợp trên cái bếp chạy năng lượng hạt nhân, sử dụng vùng nấu duy nhất còn hoạt động. Phía bên trên cái bếp, một mảng ốp tường đã bị vỡ nhiều năm về trước, hé lộ những cuốn sách bìa xanh được người chủ cũ nào đó đóng vào bên trong để cách nhiệt.
- Phải, chúng luôn luôn hoạt động. - Bob nói với giọng rầu rĩ. - Chúng không cần các bộ phận thay thế. Bộ não của một chiếc xe buýt giao cảm rất giỏi trong việc phát hiện những điểm hao mòn hay hư hỏng của cỗ máy và thực hiện các điều chỉnh quan trọng để tự sửa, đến nỗi chẳng cần sự can thiệp từ bên ngoài. - Ông đưa mắt nhìn những bông tuyết đang rơi ngoài cửa sổ. - Cơ thể của tôi cũng hoạt động theo cùng cách thức như vậy. Tôi không cần linh kiện thay thế. - Ông bỗng im lặng.
Dường như Bob đã nghĩ sang chuyện khác. Tôi từng nhận ra ông làm điều này trước đây và gọi khẽ để lôi kéo sự chú ý.
- Chỉ lão hóa thôi. - Ông nói. - Bộ não của robot cũng lão hóa giống như bất cứ ai.
Nhưng có vẻ như bộ não của xe buýt giao cảm không bị lão hóa.
Tôi nghĩ Bob bị ám ảnh quá mức bởi giấc mơ của mình, cũng như mong muốn “khôi phục” bản ngã đã mất - chính nó đã dẫn ông ta tới việc tống Paul vào tù và chiếm tôi làm vợ. Bob muốn tìm hiểu xem bộ não ông ta đang có là của ai, và khôi phục các kí ức của nó. Tôi nghĩ chuyện này là không thể. Và tôi đoán Bob cũng biết như vậy. Bộ não ông ta đang có chỉ là bản sao đã tẩy xóa của não một người rất thông minh. Tẩy xóa gần như sạch sẽ, ngoại trừ một vài giấc mơ xưa cũ.
Tôi bảo Bob quên chuyện đó đi. “Nếu nghi ngờ, hãy quên nó đi.” Paul từng nói như vậy. Nhưng Bob nói đó là thứ duy nhất giữ cho ông không hóa điên - thứ làm ông quan tâm. Trong mười lam đầu tiên, các robot Lớp Chín đã tự làm mình chập mạch bằng dòng điện sinh hoạt và các trạm biến thế, hoặc tự nghiền nát đầu mình bằng các cỗ máy lớn, hoặc chỉ đơn giản là hoảng loạn rồi chảy dãi như những gã ngớ ngẩn, hoặc trở thành những kẻ điên rồ vừa đi lang thang vừa la hét trước khi rơi xuống sông chết đuối, tự chôn sống mình trên những cánh đồng. Không có robot nào được sản xuất sau thế hệ đó nữa. Không bao giờ nữa.
Trong lúc suy nghĩ, Bob hay luồn mấy ngón tay vào trong mái tóc đen xoăn tít của mình, hết lần này tới lần khác. Đó là một động tác rất con người . Chắc chắn tôi chưa bao giờ trông thấy một robot nào khác làm như thế. Thỉnh thoảng ông còn huýt sáo.
Có lần Bob kể với tôi rằng trong các kí ức bị tẩy xóa, ông còn nhớ một phần của câu thơ “... này tôi đã biết chủ nhân .” Nhưng Bob không thể nhớ ra được cái này là cái gì. Hình như là “dụng cụ”, hoặc “giấc mơ”. Đôi khi ông thử ghép vào câu thơ trên và đọc thành tiếng “ Giấc mơ này tôi đã biết chủ nhân. ” Nhưng ông không thấy hài lòng với nó.
Có lần tôi đã hỏi vì sao ông nghĩ mình khác những robot Lớp Chín còn lại, Bob bảo rằng theo ông được biết thì các robot kia không ai có những “kí ức” như vậy, rằng chỉ có mỗi ông là da đen. Có vậy thôi.
Trong lúc Bob suy nghĩ vẩn vơ vào cái buổi chiều tuyết rơi ấy, tôi đã đưa ông trở lại với thực tại bằng câu hỏi:
- Có phải việc tự sửa chữa chính là yếu tố “tối ưu” duy nhất của một chiếc xe buýt giao cảm?
- Không phải. - Bob đáp, và luồn tay vào trong tóc. - Không phải.
Nhưng thay vì giải thích tiếp luôn, ông lại hỏi tôi:
- Cô lấy cho tôi một điếu cần được không, Mary?
Bob luôn gọi tôi là Mary thay vì Mary Lou.
- Được thôi. Nhưng làm sao chất kích thích lại có thể tác động lên robot được?
- Cứ đi lấy đi. - Ông đáp.
Tôi lấy một điếu cần từ cái gói trong phòng ngủ. Đó là một thương hiệu khá nhẹ tên là cỏ Nevada, được giao cùng sữa Pro và trứng tổng hợp hai lần mỗi tuần cho những người sống trong khu chung cư của chúng tôi. Những người sử dụng thẻ tín dụng màu vàng, như hầu hết mọi người ở đây. Tôi dùng chữ “mọi người” vì Bob là robot duy nhất sống ở đây. Ông đi làm bằng xe buýt giao cảm và vắng nhà sáu tiếng một ngày. Phần lớn thời gian ấy tôi đọc sách, hoặc đọc tạp chí cổ bằng vi phim. Gần như ngày nào Bob cũng mang sách từ nơi làm việc về cho tôi. Ông lấy chúng từ một tòa nhà lưu trữ nào đó thậm chí còn lâu đời hơn tòa nhà nơi tôi đã sống cùng Paul. Ông cho tôi một chiếc máy chiếu vi phim sau một lần được tôi hỏi xin thứ gì khác để đọc ngoài sách. Bob có thể rất tử tế, mặc dù nghĩ lại, tôi tin rằng tất cả các robot ban đầu đều được lập trình để giúp đỡ mọi người.
Tôi cũng đang nghĩ lan man trong khi tiếp tục kế hoạch ghi nhớ cuộc đời mình. Có lẽ tôi đang già đi - giống như Bob.
Không, tôi chưa già. Tôi chỉ phấn khích khi lại được ghi nhớ cuộc đời mình. Trước khi bắt đầu việc này, tôi buồn chán kinh khủng - chán như lúc bố Simon qua đời ở New Mexico, vừa chán vừa sợ như khi tôi ở vườn thú Bronx trước lúc Paul xuất hiện lần đầu, với bộ dạng thật trẻ con và đơn giản, nhưng cũng thật hấp dẫn...
Tốt hơn là tôi nên ngừng nghĩ đến Paul.
Tôi đem điếu cần cho Bob. Ông châm điếu thuốc rồi rít một hơi sâu. Sau đó, cố tỏ ra thân thiện, ông hỏi:
- Cô không bao giờ hút hay dùng ma túy sao?
- Không. Chúng làm tôi muốn bệnh. Và tôi cũng không thích tác dụng của chúng. Tôi thích được tỉnh táo.
- Phải rồi. Tôi phát ghen với cô.
- Tại sao? - Tôi hỏi lại. - Tôi là con người và có thể ngã bệnh, hoặc già đi, gãy vài cái xương...
Bob phớt lờ.
- Tôi được lập trình để hoàn toàn tỉnh táo hai mươi ba tiếng đồng hồ mỗi ngày. Chỉ có điều trong vài năm qua, do tôi bắt đầu tự cho phép mình tập trung suy nghĩ về những giấc mơ, về nhân cách trước đây cũng như các kí ức và cảm xúc bị tẩy xóa, tôi mới học cách... thư giãn đầu óc và để nó đi rong chơi. - Ông rít thêm một hơi cần. - Tôi chưa bao giờ thích tỉnh táo hoàn toàn. Chắc chắn giờ đây tôi cũng không thích chuyện đó.
Tôi ngẫm nghĩ một chút rồi hỏi:
- Tôi không nghĩ cần sa có thể tác động tới một bộ não bằng kim loại. Sao ông không thử tự lập trình để mình được phê? Ông không thể thay đổi một dòng điện ở đâu đó và làm cho mình sảng khoái hay say xỉn được à?
- Tôi đã thử. Hồi còn ở Deadborn. Và sau đó, khi tôi lần đầu tiên được chính phủ chỉ định làm công việc trưởng khoa vớ vẩn này. Lần thứ hai tôi làm mạnh hơn lần đầu, vì tôi bực bội với lối học hành giả vờ mà trường đại học buộc phải theo - các sinh viên đến đấy để chẳng học gì khác ngoài cái món phát triển nội tâm vớ vẩn. Nhưng tôi không thể phê pha được. Tôi chỉ bị nhức đầu sau đó.
Bob đứng lên khỏi ghế và tiến đến cửa sổ ngắm tuyết rơi một lúc. Tôi lấy trứng ra khỏi bếp rồi bắt đầu bóc vỏ. Sau đó Bob nói tiếp:
- Có lẽ kí ức chôn vùi của một nền tảng giáo dục cổ điển trong đầu tôi đã khiến tôi cảm thấy giận dữ như thế. Hoặc có thể là do tôi đã thực sự được đào tạo để làm công việc của mình. Tôi biết và hiểu công việc của một kĩ sư. Không ai trong các sinh viên của tôi biết về các định luật nhiệt động, giải tích vector, hình học không gian hay xác suất thống kê. Tôi biết tất cả những môn đó và hơn thế nữa. Dù chúng không phải là những kí ức được cài sẵn trong não tôi. Tôi học bằng cách xem đi xem lại những đoạn băng trong thư viện, cùng với các robot Lớp Chín khác, tại Cleveland. Và tôi học để trở thành một Tầm soát viên... - Bob lắc đầu rồi quay lại, đối diện với tôi. - Nhưng những cái đó chẳng có ý nghĩa gì nữa. Bố cô nói đúng. Chẳng còn bao nhiêu Tầm soát viên đang hoạt động nữa. Làm gì có nhu cầu. Khi bọn trẻ con ngừng được sinh ra thì...
- Bọn trẻ con á? - Tôi hỏi.
- Phải. - Bob ngồi lại xuống ghế. - Để tôi giải thích cho cô về những chiếc xe buýt giao cảm.
- Bọn trẻ con làm sao? - Tôi hỏi lại. - Có lần Paul từng nói với tôi...
Bob nhìn tôi với ánh mắt rất lạ.
- Mary. - Ông nói. - Tôi không biết vì sao trẻ con không được sinh ra nữa. Có gì đó liên quan với thiết bị kiểm soát dân số.
- Nếu chúng không được sinh ra, thì sẽ chẳng còn con người trên trái đất.
Bob im lặng trong giây lát, rồi nhìn tôi:
- Cô quan tâm chuyện đó ư? - Ông hỏi. - Cô thật lòng quan tâm ư?
Tôi nhìn ông ta, không biết phải nói gì. Tôi không biết liệu tôi có quan tâm hay không.
Năm
Chúng tôi dọn đến căn hộ này một tuần sau khi Paul bị bắt, và sau nhiều tháng tôi bắt đầu cảm thấy khá yêu thích nó. Bob đã cố gắng gọi robot bảo trì đến sửa những bức tường bong tróc và dán giấy dán tường mới, sửa các vùng nấu trên bếp và bọc lại chiếc trường kỉ, nhưng cho đến nay ông vẫn chưa gặp may. Ông có lẽ là quyền lực cao nhất ở New York, ít nhất thì tôi không biết bất kì sinh vật nào có nhiều quyền hạn hơn. Nhưng ngay chính ông cũng không thể làm được gì nhiều. Khi tôi còn bé, bố Simon thường nói với tôi rằng mọi thứ đều đang đổ vỡ và như thế càng tốt. Bố bảo: “Thời đại Công nghệ đã gỉ sét.” Đúng là mọi chuyện càng tồi tệ hơn sau bốn mươi hoàng kể từ lúc bố Simon qua đời. Tuy nhiên, nó không quá tệ ở đây. Tôi tự lau cửa sổ và sàn nhà, thức ăn thì rất sẵn.
Tôi trở nên thích uống bia khi mang thai, và Bob biết một nơi có nguồn cung cấp vô tận đến từ một nhà máy bia tự động. Cứ mỗi ba hoặc bốn lon ông mang về lại có một cái bị hỏng, nhưng chỉ việc đổ nó xuống bồn cầu là xong. Bồn rửa chén thì thoát nước quá chậm.
Hôm nọ, Bob lấy về cho tôi một bức tranh cổ vẽ tay từ kho lưu trữ để treo lên che một vết bẩn lớn trên tường phòng khách. Khung tranh có gắn một tấm bảng nhỏ bằng đồng, đề dòng chữ mà tôi có thể đọc: “Pieter Bruegel. Phong cảnh khi Icarus rơi xuống.” Nó rất đẹp. Tôi có thể nhìn thấy nó khi ngước lên từ tấm bảng nơi tôi đang viết nhật kí này. Có một vùng nước trong bức tranh - đại dương hoặc một cái hồ lớn - và một cái chân nhô lên khỏi mặt nước. Tôi không hiểu nó lắm, nhưng tôi thích sự tĩnh lặng của phần khung cảnh còn lại. Ngoại trừ cái chân đang làm nước bắn tung tóe. Một ngày nào đó tôi sẽ cố tìm một ít sơn màu xanh và xóa nó đi.
Bob có cái kiểu nói tiếp một chủ đề nhiều ngày khi tôi tưởng chúng tôi đã nói xong. Tôi đoán chuyện này liên quan với cách bộ não ông lưu trữ thông tin. Ông từng nói rằng mình không thể quên được bất kì điều gì. Nhưng nếu thế thật thì tại sao ông phải bỏ công sức học các thứ trong quá trình đào tạo ban đầu?
Sáng hôm nay trong lúc tôi đang ăn sáng với Bob ngồi cạnh, ông lại bắt đầu nói về những chiếc xe buýt giao cảm. Chắc ông đã nghĩ đến chúng trong lúc tôi ngủ. Thỉnh thoảng tôi lại bị hú hồn khi rời khỏi giường vào buổi sáng và bắt gặp ông đang ngồi trong phòng khách với hai bàn tay chống dưới cằm hoặc đi tới đi lui trong bếp. Có lần tôi đã đề nghị dạy Bob đọc để ông có việc gì đó làm trong đêm, nhưng ông chỉ đáp “Tôi biết quá nhiều rồi, Mary.” Tôi đành từ bỏ ý định đó.
Tôi đang ăn một bát protein tổng hợp và không thích mùi vị của chúng cho lắm thì Bob nói một cách bâng quơ:
- Bộ não của xe buýt giao cảm không phải lúc nào cũng tỉnh táo. Chỉ cần lúc nào nó cũng sẵn sàng tiếp nhận được. Có lẽ cũng không quá tệ nếu có một bộ não như thế. Chỉ cần khả năng tiếp nhận và một mục đích xác định.
- Tôi đã gặp những người như vậy. - Tôi nói trong lúc nhai những miếng protein dai nhách.
Tôi không nhìn Bob. Đôi mắt ngái ngủ của tôi còn đang tập trung vào hình ảnh nhận diện thương hiệu sáng sủa ở mặt trước hộp ngũ cốc. Nó thể hiện khuôn mặt của một người mà có lẽ mọi người đều tin tưởng - dù gần như không ai biết tên - một khuôn mặt đang mỉm cười trước một cái bát to đựng đầy thức ăn làm từ protein tổng hợp. Tất nhiên, hình ảnh ngũ cốc là cần thiết để cho mọi người biết trong hộp có gì, nhưng tôi vẫn thắc mắc về ý nghĩa của hình ảnh người đàn ông. Một điều tôi phải công nhận ở Paul là anh khiến bạn thắc mắc về những chuyện như thế này. Paul tò mò về ý nghĩa của mọi thứ cũng như cảm giác chúng khơi lên nhiều hơn bất kì người nào tôi từng biết. Chắc tôi đã cóp nhặt được một ít từ anh.
Khuôn mặt trên hộp, theo như Paul cho tôi biết, chính là của Jesus Christ. Nó đã được sử dụng để quảng cáo cho rất nhiều sản phẩm. Paul đã đọc ở đâu đó rằng phương pháp bán hàng này, vốn có thâm niên từ hàng trăm lam qua, được dựa trên cái mà người ta gọi là “dấu tích của tín ngưỡng trong quá khứ”.
- Những gì mà bộ não xe buýt giao cảm làm là đọc suy nghĩ của một hành khách về một điểm đến trong đầu, rồi tìm cách đưa anh ta tới đích mà không gặp sự cố nào, đồng thời khớp điểm đến đó với điểm đến của những hành khách khác. Đó có lẽ không phải là một cuộc sống quá tệ.
Tôi ngước lên nhìn ông ta:
- Nếu ông thích di chuyển bằng bánh xe.
- Các mẫu xe buýt giao cảm đầu tiên của Ford có thể giao tiếp hai chiều. Chúng sẽ truyền âm nhạc và những ý nghĩ vui vẻ vào trong đầu của hành khách. Một số chuyến xe đêm thậm chí còn truyền đi những khoái cảm tình dục.
- Tại sao chúng không làm điều đó nữa? Thiết bị phát sóng hỏng rồi à?
- Không phải. - Bob đáp. - Như tôi đã nói với cô, xe buýt giao cảm không giống như những thứ rác rưởi khác. Chúng không bị hỏng. Chỉ là không ai muốn xuống xe nữa.
Tôi gật gù, rồi nói:
- Có lẽ tôi sẽ xuống.
- Nhưng cô khác họ. Cô là người phụ nữ duy nhất ở Bắc Mĩ chưa được lập trình. Và có lẽ cũng là người phụ nữ mang thai duy nhất.
- Tại sao không ai có thai hết vậy? - Tôi hỏi.
- Bởi vì cô không dùng thuốc hay phê cần. Hầu hết số ma túy trong ba mươi năm qua đều chứa một tác nhân ức chế sinh sản. Tôi đã xem thử một số đoạn băng ở thư viện sau khi chủ đề này được chúng ta nhắc đến hôm nọ. Đã từng có một kế hoạch kiểm soát dân số trong vòng một năm. Một quyết định được máy tính đưa ra. Nhưng kế hoạch đó bị lỗi, và tỉ lệ sinh của con người không bao giờ tăng trở lại nữa.
Tiết lộ đó là một cú sốc đối với tôi. Tôi ngồi yên một lúc, ngẫm nghĩ về nó. Một sai sót hệ thống, hoặc một chiếc máy tính bị trục trặc, và không có trẻ em nào chào đời nữa. Hoàn toàn không.
- Ông có thể làm gì đó trong chuyện này không? Ý tôi là, khắc phục nó?
- Có thể. - Bob đáp. - Nhưng tôi không được lập trình để sửa chữa.
- Ồ coi nào, Bob. - Tôi bỗng nổi cáu. - Tôi dám cá ông có thể sơn lại những bức tường kia và sửa cái bồn rửa chén này nếu ông thực sự muốn làm.
Bob không đáp.
Tôi có một cảm giác lạ lùng khó tả. Điều gì đó trong chuyện thiếu trẻ con trên thế giới - mà tôi đã không để ý cho tới khi được Paul chỉ ra - khiến tôi không yên tâm.
Tôi nhìn Bob chăm chú với ánh mắt mà Paul gọi là “bí ẩn” và bảo rằng anh ấy yêu tôi vì nó.
- Robot có nói dối được không vậy? - Tôi hỏi ông ta.
Bob không trả lời.
Sáu
Hôm qua Bob từ trường về nhà sớm hơn thường lệ. Tôi mang thai đã được bảy tháng và giết thời gian bằng cách đi loanh quanh trong căn hộ ngắm tuyết rơi. Có lúc tôi đọc một chút, có lúc chỉ ngồi không. Hôm qua, khi Bob bước vào, vì đang chán và cuồng chân nên tôi bảo ông:
- Nếu có một cái áo khoác thích hợp, tôi sẽ đi dạo.
Bob nhìn tôi với ánh mắt khác lạ trong giây lát. Rồi ông nói:
- Tôi sẽ đi lấy cho cô một cái áo khoác.
Nói đoạn ông quay gót bước ra khỏi cửa.
Phải đến hai tiếng đồng hồ sau Bob mới quay lại. Lúc này tôi càng chán hơn, và rất sốt ruột vì ông mất nhiều thời gian như vậy.
Bob cầm một cái hộp trên tay. Ông đến trước mặt tôi và giữ cái hộp khoảng một phút, trước khi đưa cho tôi. Vẻ mặt ông có gì đó là lạ. Nom ông rất nghiêm trang và - nói thế nào nhỉ - có vẻ mong manh dễ tổn thương. Đúng vậy, với vóc người to lớn mạnh mẽ như thế, ông vẫn giống như một đứa trẻ lúc đưa cho tôi cái hộp.
Tôi mở nó ra. Bên trong hộp có một chiếc áo choàng đỏ với phần cổ bằng nhung màu đen. Tôi lấy chiếc áo ra và khoác thử lên người. Nó đúng là đỏ rực. Và tôi không thích phần cổ áo. Nhưng chắc chắn là nó ấm áp.
- Ông lấy cái này ở đâu vậy? - Tôi hỏi. - Và sao lại mất nhiều thời gian đến thế?
- Tôi phải tìm trong danh mục của năm kho hàng mới tìm thấy nó. - Bob đáp.
Tôi nhướn mày nhưng không nói gì. Chiếc áo khá vừa vặn, nếu tôi không cài khuy bụng.
- Ông thấy thế nào? - Tôi hỏi và xoay một vòng trước mặt Bob.
Ông không đáp mà trầm ngâm nhìn tôi một lúc, rồi nói:
- Ổn đấy. Sẽ đẹp hơn nếu tóc cô màu đen.
Thật kì lạ khi ông nói như vậy. Trước đây Bob dường như chưa bao giờ để ý tới vẻ ngoài của tôi.
- Tôi nên thay đổi màu tóc à? - Tôi hỏi lại.
Mái tóc của tôi có màu nâu. Một sắc nâu đơn giản, không có gì đặc biệt. Điểm đặc biệt nằm ở dáng tóc. Và đôi mắt. Tôi thích đôi mắt của tôi.
- Không, tôi không muốn cô nhuộm tóc.
Có điều gì đó buồn bã trong giọng điệu của Bob. Rồi ông nói một câu lạ lùng khác:
- Cô có muốn đi dạo cùng tôi không?
Tôi ngước lên nhìn Bob không chớp mắt trong vài giây. Sau đó tôi đáp:
- Chắc chắn rồi.
Khi chúng tôi bước ra phố, Bob nắm tay tôi. Tôi điếng người vì bất ngờ. Ông bắt đầu huýt sáo. Chúng tôi đi dạo như thế khoảng một giờ đồng hồ trên những con phố vắng tanh ngập đầy tuyết, rồi xuyên qua quảng trường Washington, nơi chỉ có vài bà già mệt mỏi đang ngồi im lặng hút cần. Bob cẩn thận bước đi chậm rãi để tôi có thể theo kịp, nhưng không hề nói gì với tôi trong suốt chuyến đi. Thỉnh thoảng ông ngừng huýt sáo và nhìn xuống tôi, như thể đang dò xét khuôn mặt của tôi, nhưng vẫn không nói nửa lời.
Chuyện đó rất kì lạ. Nhưng nó vẫn làm tôi dễ chịu. Tôi cảm thấy chiếc áo khoác đỏ có gì đó quan trọng đối với Bob, cũng như chuyến đi dạo và việc nắm tay tôi. Nhưng tôi không thấy cần thiết phải tìm hiểu xem đó chính xác là gì. Nếu Bob muốn tôi biết thì ông đã nói với tôi rồi. Tôi cảm thấy mình cần thiết đối với Bob, và trở nên quan trọng trong thoáng chốc. Đó là một cảm giác dễ chịu. Tôi ước gì ông vòng tay quanh người tôi.
Đôi khi viễn cảnh sắp làm mẹ khiến tôi sợ hãi và cảm thấy cô độc. Tôi chưa bao giờ tâm sự với Bob về điều đó, vì không biết phải nói thế nào. Dường như ông quá bận lòng với những suy nghĩ của mình.
Tôi đã đọc một cuốn sách về việc làm mẹ và cách chăm sóc đứa trẻ. Nhưng tôi không có chút khái niệm nào về chuyện đó. Tôi chưa từng chứng kiến chuyện đó.
Bảy
Tại New York này, tôi hay quan sát các khuôn mặt khi đi một mình trên tuyết. Không phải lúc nào những khuôn mặt cũng trơ lì, trống rỗng, ngu ngốc. Một số cũng nhăn nhó tập trung, như thể đang cố nói ra thành lời. Tôi thấy những con người trung niên với thân hình gầy gò, mái tóc hoa râm và đôi mắt lờ đờ, chìm trong suy nghĩ. Những vụ tự sát tập thể xảy ra thường xuyên trong thành phố này. Có phải họ đang nghĩ tới cái chết? Tôi chưa từng hỏi họ. Ai lại nghĩ tới cái chết?
Tại sao người ta không nói chuyện với nhau? Tại sao chúng tôi không ôm chầm lấy nhau giữa luồng gió lạnh hun hút thổi qua những con phố vắng? Cách đây lâu lắm rồi, từng có điện thoại cá nhân tại New York. Hồi đó mọi người nói chuyện với nhau - có lẽ là từ xa, một cách lạ lùng, với những giọng nói bị thiết bị điện tử làm cho bẹt đi và giả tạo. Họ nói chuyện về giá cả hàng hóa, về cuộc bầu cử tổng thống, về hành vi tình dục của con cái, về nỗi sợ thời tiết và sợ chết của mình. Và khi đọc sách, họ nghe thấy giọng nói của người sống lẫn người chết trò chuyện với mình trong một sự im lặng trầm hùng, kết nối với tiếng rì rầm của giọng con người đang lấp đầy tâm trí họ theo một cách thức nói lên rằng: Tôi là con người. Tôi nói, tôi nghe, và tôi đọc.
Tại sao không ai đọc nữa? Chuyện gì đã xảy ra?
Tôi có một bản sao của cuốn sách cuối cùng được xuất bản bởi Random House, một nhà xuất bản từng in ấn và bán hàng triệu bản sách. Tên của nó là Vụ cưỡng hiếp khủng khiếp , và được xuất bản vào năm 2189. Trên trang bìa giả có một đoạn văn được mở đầu như sau: “Cùng với cuốn tiểu thuyết này, cuốn thứ năm của một bộ truyện, Random House cũng chấm dứt các hoạt động xuất bản của mình. Việc loại bỏ các chương trình đọc sách trong nhà trường hai mươi năm qua đã góp một phần lớn trong chuyện này. Thật đáng tiếc khi...”
Bob dường như biết hết mọi thứ, nhưng ông không biết khi nào hoặc vì sao mọi người ngừng đọc.
- Hầu hết con người rất lười. - Ông nói. - Họ chỉ tìm kiếm sự giải trí.
Có lẽ ông nói đúng, nhưng tôi không nghĩ vậy. Trong tầng hầm của tòa chung cư nơi chúng tôi đang ở, một tòa nhà cũ kĩ đã được tu sửa nhiều lần, có một câu rất hằn học được ghi trên bức tường cạnh máy phát điện: VIẾT CHÁN BỎ MẸ. Bức tường sơn màu xanh công sở, và khắc đầy trên đó toàn là những dương vật, vú vê, các cặp đôi đang khẩu dâm hoặc quất roi vào nhau. Những chữ duy nhất là: VIẾT CHÁN BỎ MẸ. Không hề có sự lười biếng trong câu đó, cũng như trong nỗi bức bách khiến người ta phải khắc nó bằng cách ấn mạnh mũi dao hoặc đầu móng tay vào lớp sơn cứng. Khi đọc dòng tuyên bố hằn học kia, tôi chỉ nghĩ tới sự căm thù chất chứa trong đó.
⚝ ✽ ⚝
Có lẽ căn nguyên của sự cay nghiệt và lạnh lùng mà tôi thấy hiện diện ở mọi nơi là vì thiếu vắng trẻ con. Không ai còn trẻ nữa. Trong cả cuộc đời mình, tôi chưa bao giờ thấy ai trẻ hơn tôi. Ý niệm duy nhất của tôi về thời thơ ấu xuất phát từ trong trí nhớ, và từ sự bắt chước vụng về của đám robot trẻ con ở vườn thú.
Ít nhất tôi cũng phải ba mươi tuổi rồi. Khi con tôi chào đời, nó sẽ không có bạn chơi cùng. Nó sẽ cô đơn trong thế giới của những con người già nua và mệt mỏi, những người đã đánh mất khát vọng sống.
Tám
Trong quá khứ hẳn đã từng có một giai đoạn mà các tác giả kịch bản phim truyền hình viết ra kịch bản của họ, dù không ai trong số diễn viên đọc được chúng. Và mặc dù một số tác giả khác sáng tác bằng máy ghi âm - nhất là những bộ phim về tình dục và thống dâm khá phổ biến hồi đó - nhiều người kiêu hãnh từ chối cách làm này và tiếp tục đánh máy kịch bản của mình. Dẫu việc sản xuất máy chữ đã chấm dứt từ lâu khiến cho linh kiện và ruy băng mực rất khó tìm, các kịch bản được đánh máy vẫn tiếp tục ra đời. Mọi hãng phim do vậy phải thuê một người đọc để làm công việc đọc thành tiếng các kịch bản đánh máy vào băng ghi âm, nhằm giúp cho đạo diễn nắm bắt được nội dung và giúp diễn viên học thoại. Alfred Fain, tác giả của một cuốn sách được đem lót cách nhiệt trong căn hộ chúng tôi để chống lại thời tiết giá lạnh sau khi dầu mỏ bị khai tử, đã từng là một tác giả kịch bản kiêm người đọc trong giai đoạn cuối của truyền hình kể chuyện, hay truyện video. Cuốn sách của ông có tựa Hồi kí cuối cùng và được bắt đầu như thế này:
“Khi tôi còn nhỏ, việc đọc vẫn được dạy trong các trường công lập như một môn học không bắt buộc. Tôi nhớ rất rõ nhóm học sinh mười hai tuổi trong lớp Tập Đọc của cô Warburton tại Trường St. Louis. Chúng tôi gồm mười bảy người cả thảy, và chúng tôi tự hào coi mình là một tầng lớp trí thức ưu tú. Hàng nghìn đứa trẻ khác trong trường, những kẻ chỉ biết đánh vần những từ như “khốn” hoặc “cứt” để viết nguệch ngoạc lên tường của các sân thể thao, nhà thi đấu và phòng xem ti vi vốn chiếm phần lớn diện tích của trường, bọn chúng đối xử với chúng tôi bằng một kiểu ghen tị đáng sợ. Ngay cả khi chúng bắt nạt chúng tôi - tôi vẫn còn rùng mình mỗi khi nhớ tới thằng cầu thủ khúc côn cầu đã đấm tôi chảy máu mũi đều đặn sau mỗi giờ học Thức thần - chúng dường như ngầm ghen tị với chúng tôi. Và ít nhất chúng vẫn có một ý niệm khá rõ về việc đọc chữ.
Nhưng đó là chuyện trước đây lâu rồi, còn bây giờ tôi đã năm mươi: Những người trẻ tuổi mà tôi làm việc cùng - những ngôi sao khiêu dâm, những đạo diễn trẻ tuổi nóng bỏng của các game show, các chuyên gia tình dục, đội thao túng cảm xúc, dân làm quảng cáo - tất cả đều không hiểu cũng như không quan tâm đến việc đọc. Một ngày nọ, trên phim trường, chúng tôi quay một kịch bản do một tác giả lớn tuổi viết, trong đó có cảnh một cô gái trẻ ném cuốn sách vào một người phụ nữ lớn tuổi. Cảnh này là một phần của tác phẩm Thiện Đạo vốn được chuyển thể từ một truyện cổ nào đó, và có bối cảnh là phòng chờ của một bệnh viện. Đoàn phim đã dựng lên một phòng chờ khá thuyết phục với những chiếc ghế nhựa và một tấm thảm bị xù lông nhiều chỗ, nhưng khi đạo diễn đến nơi, nhân viên đạo cụ thông báo rằng mình ‘không hoàn toàn hiểu được ý nghĩa của chi tiết cuốn sách .’ Và người đạo diễn, rõ ràng không biết một cuốn sách là gì nhưng lại không muốn thừa nhận rằng mình không biết, đã hỏi tôi nó dùng để làm gì. Tôi bảo anh ta rằng cuốn sách cho thấy cô gái đọc nó là một người trí thức và hơi chống đối xã hội. Anh ta làm ra vẻ ngẫm nghĩ về điều đó, mặc dù có lẽ anh ta cũng không hiểu thế nào là ‘trí thức’, trước khi bảo nhân viên đạo cụ ‘Hãy sử dụng một cái gạt tàn thủy tinh. Và một ít máu, khi nó cứa vào da bà ta. Dù sao thì cảnh này cũng đang quá nhạt.’
Tôi quá sốc nên không thể tranh cãi với anh ta. Cho đến bây giờ tôi vẫn chưa thực sự nhận ra chúng ta đã đi xa đến mức nào.
Và điều đó dẫn tôi đến câu hỏi: Tại sao tôi lại viết cuốn sách này? Câu trả lời đơn giản là tôi đã luôn mong muốn làm như vậy. Hồi ở trường, khi học đọc, tất cả chúng tôi đều nghĩ rằng một ngày nào đó chúng tôi sẽ viết sách và ai đó sẽ đọc chúng. Bây giờ tôi biết mình đã chờ đợi quá lâu trước khi bắt tay vào làm, nhưng dẫu vậy tôi vẫn sẽ tiếp tục.
Kịch bản đó, trớ trêu thay, lại giúp đạo diễn họ giành được một giải thưởng. Nó kể chuyện một người phụ nữ đưa người chồng tên Claude của mình đi khám bệnh vì ông ta bị bất lực. Trong khi chờ các bác sĩ đánh giá vấn đề của Claude, bà ta bị một cô gái đồng tính trẻ tuổi khát tình ném một chiếc gạt tàn vào mặt và hôn mê, nhờ đó bà ta được giác ngộ qua những hình ảnh hiển linh.
Tôi nhớ mình đã nốc mescaline và rượu gin tại đêm tiệc trao giải và cố gắng giải thích với một nữ diễn viên để ngực trần ngồi trên ghế sofa bên cạnh tôi rằng tiêu chuẩn duy nhất của ngành truyền hình là tiền, rằng trong truyền hình không có động cơ thực sự nào ngoài việc làm tiền. Cô ta chỉ mỉm cười với tôi trong lúc tôi nói, và thỉnh thoảng lướt nhẹ mấy ngón tay qua hai núm vú của mình. Khi tôi nói xong, cô ta nói ‘Nhưng tiền cũng là một sự thỏa mãn.’
Sau đó tôi chuốc rượu cô ta say khướt rồi đưa vào một nhà nghỉ.
Khi viết một cuốn sách, cảm giác của tôi giống như điều mà một học giả nghiên cứu Talmud hoặc một nhà Ai Cập học cảm thấy nếu đặt chân tới Disneyland vào thế kỉ XX. Ngoại trừ việc tôi không thực sự tự hỏi liệu có ai muốn nghe những gì tôi buộc phải nói ra hay không, tôi biết chẳng ai muốn cả. Tôi chỉ có thể tự hỏi còn bao nhiêu người đang sống biết đọc chữ. Có lẽ vài nghìn. Một người bạn của tôi làm việc bán thời gian với tư cách là giám đốc một nhà xuất bản nói rằng trung bình một cuốn sách thu hút được khoảng tám mươi độc giả. Tôi đã hỏi anh ấy tại sao họ không dừng hẳn việc xuất bản. Anh bạn tôi trả lời thực lòng rằng anh không biết, nhưng nhà xuất bản của anh là một bộ phận rất nhỏ của tập đoàn giải trí sở hữu nó, nhỏ đến nỗi có lẽ họ đã quên mất sự tồn tại của nó. Bản thân anh cũng không biết đọc, nhưng vẫn tôn trọng sách vì người mẹ mà anh rất yêu quí là một ẩn sĩ và đọc sách gần như liên tục. Nhân tiện, anh là một trong số ít người mà tôi biết được nuôi dưỡng trong một gia đình. Hầu hết bạn bè của tôi lớn lên trong trường nội trú. Tôi trưởng thành trong một kibbutz, ở Nebraska. Nhưng tôi là người Do Thái, và đó cũng là một điều khá hiếm hoi ngày nay: Việc là người Do Thái và biết kibbutz là gì. Tôi là một trong những thành viên cuối cùng của kibbutz. Về sau nó đã được chuyển đổi thành một trường nội trú Người Nghĩ khi tôi mới ngoài hai mươi.
Tôi sinh năm 2137...”
Đọc đến đó, tôi lập tức tò mò về việc Alfred Fain đã sống cách đây bao lâu và hỏi Bob. Ông đáp:
- Khoảng hai trăm năm.
Tôi hỏi tiếp:
- Vậy bây giờ có còn ngày tháng không? Năm nay có được đánh số không?
Bob lạnh lùng nhìn tôi:
- Không. Bây giờ làm gì còn ngày tháng.
Tôi muốn biết ngày tháng. Tôi muốn con tôi có một ngày sinh.