← Quay lại trang sách

Chương 6

NGÀY THỨ CHÍN MƯƠI LĂM

Bây giờ tôi không còn quá mệt nữa. Công việc đã trở nên dễ dàng hơn, và tôi cảm thấy mình khỏe hơn.

Ban đêm tôi đã ngủ tốt hơn, sau khi quyết định dùng mê dược. Thức ăn cũng dễ nuốt hơn và tôi ăn rất nhiều. Nhiều hơn những gì tôi từng ăn trong phần đời trước kia.

Tôi không thực sự thích tác dụng của mê dược, nhưng chúng cần thiết nếu tôi muốn ngủ đủ giấc. Chúng giúp ngăn chặn phần nào sự đau đớn trong các suy nghĩ của tôi.

Hôm nay tôi bị vấp chân ngã giữa những luống cây, và một tù nhân khác ở gần chạy lại đỡ tôi dậy. Ông ta là một người cao lớn tóc bạc mà tôi từng chú ý trước đó vì thỉnh thoảng huýt sáo.

Ông giúp tôi phủi bụi đất trước khi nhìn tôi kĩ hơn và nói:

- Anh ổn chứ, anh bạn?

Chuyện này là một sự thân mật khủng khiếp - gần như một vi phạm - nhưng tôi không thấy phiền, thật vậy.

- Tôi không sao. - Tôi đáp.

Đúng lúc đó một robot quát to:

- Không được nói chuyện. Vi phạm Quyền Riêng tư!

Người bạn tù nhìn tôi, ngoác miệng cười, rồi nhún vai. Hai chúng tôi quay lại với công việc. Khi ông ta bỏ đi, tôi còn nghe thấy tiếng ông lẩm bẩm:

- Cái đám robot ngu xuẩn khốn khiếp!

Tôi bị sốc với sức mạnh của sự táo tợn trong giọng nói của ông.

Tôi đã thấy những tù nhân khác thì thầm với nhau trong hàng. Chuyện đó thường diễn ra vài phút trước khi bị một robot phát hiện và dập tắt.

Các robot đi giữa những luống cây cùng với chúng tôi, nhưng luôn dừng lại trước khi tới gần rìa vách đá thấp cuối cánh đồng. Có lẽ chúng được lập trình để không bị ngã - hoặc bị đẩy - khỏi vách đá. Dù sao chúng cũng tụt lại phía sau khá xa khi tôi đi đến cuối luống cây, sát biển, và trong một khoảng thời gian ngắn chúng không thể trông thấy tôi, vì đất ở đó thấp hơn chỗ khác.

Tôi đã học được cách đẩy nhanh tốc độ để bóp cò hai nhát mỗi nhịp nhạc ở cuối luống cây. Nhờ vậy tôi có một ít thời gian để đứng trên rìa vách đá nhìn ngắm biển trong mười sáu nhịp. Tôi thầm cảm ơn vì đã học được cách đo đếm thời gian trong cuốn Số học dành cho các cô cậu bé . Tôi đứng đó nhìn ra đại dương. Biển thật tuyệt vời, rộng mênh mông và yên bình. Trong lòng tôi dường như có gì đó đáp lại tiếng biển, bằng một cảm giác mà tôi không thể gọi tên. Nhưng tôi đang học lại cách chào đón những cảm giác lạ lẫm. Thỉnh thoảng có những con chim bay qua trên đôi cánh cong dang rộng, lướt đi trong gió theo những cung lượn lớn mềm mại phía trên cái thế giới của người ngợm và máy móc tôi đang đứng, bí ẩn, và kì vĩ. Khi quan sát chúng, thỉnh thoảng tôi tự nói thầm “Ngầu thật!” Cái từ tôi học từ một bộ phim.

Tôi đã bảo rằng mình đang học cách chào đón những cảm giác lạ lẫm, và đúng là như vậy. Tôi giờ đây dường như rất khác so với chính tôi chưa đầy một hoàng trước, khi tôi bắt đầu cảm nhận được những cảm giác ấy trong lúc xem các bộ phim câm. Tôi biết mình đã không tuân thủ mọi điều được dạy hồi còn bé về những cảm xúc đối với các thứ bên ngoài, nhưng tôi không bận tâm. Thật ra, tôi thấy thích thú khi làm điều mình từng bị cấm đoán.

Tôi chẳng có gì để mất.

Tôi nghĩ biển cả có ý nghĩa với tôi nhất vào những ngày mưa, khi mặt nước và bầu trời đều xám. Có một bãi cát bên dưới vách đá, màu nâu của nó trông thật đẹp so với mặt nước xám xịt. Và những con chim trắng trên nền trời xám! Tim tôi đập dồn ngay cả khi chỉ hình dung hình ảnh đó, trong buồng giam này. Và nó thật buồn, giống như con ngựa đội chiếc mũ trên đầu trong phim ảnh xưa, giống như con khỉ King Kong rơi xuống - thật chậm rãi, nhẹ nhàng, xa vời vợi - và giống như trong câu tôi nói thành tiếng vào lúc này: “Chỉ có chim nhại hót ở bìa rừng”. Giống như khi tôi nhớ đến hình ảnh Mary Lou ngồi bắt chéo chân trên sàn nhà, dán mắt vào cuốn sách.

Buồn bã. Buồn bã. Nhưng tôi sẽ ôm ấp nỗi buồn và biến nó thành một phần của cuộc sống mà tôi đang ghi nhớ.

Tôi chẳng còn gì để mất.

NGÀY THỨ CHÍN MƯƠI BẢY

Một sự việc đáng kinh ngạc đã xảy ra hôm nay, ở ngoài đồng.

Lúc đó tôi đã làm việc được khoảng hai tiếng và sắp đến giờ giải lao thứ hai. Tôi nghe thấy tiếng loạt xoạt sau lưng, nơi robot đốc công thường đứng, và quay lại nhìn. Con robot đang đi loạng choạng một cách giật cục giữa luống cây. Nó giẫm bàn chân nặng nề xuống một cái cây Protein 4. Thân cây toác ra với tiếng “roạt” kinh tởm và phun thứ chất lỏng màu tím đầy chân con robot.

Hàm của con robot cứng lại, mắt trợn ngược ra sau. Nó lảo đảo trong giây lát, giẫm lên một cái cây khác, rồi đứng im bất động như đang ngủ một lúc, trước khi ngã vật xuống đất, nằm ngay đơ như một thân cây chết. Một robot khác tiến đến gần, quan sát thân hình bất động của con robot và bảo nó đứng dậy. Nhưng nó không nhúc nhích. Robot kia cúi xuống bế nó lên và bắt đầu mang nó về phía các tòa nhà của trại tù.

Một phút sau, tôi nghe thấy giọng nói lớn tiếng cất lên giữa đồng:

- Có biến, các cậu ơi!

Tiếng chân chạy rầm rập vang lên. Tôi kinh ngạc đưa mắt nhìn và thấy một nhóm các tù nhân mặc đồng phục xanh đang chạy qua các luống cây. Bất thình lình, một cánh tay từ đâu ôm lấy vai tôi - đó chính là người đàn ông tóc bạc cao to. Ông ta bảo tôi:

- Nhanh lên, anh bạn! Chạy ra bờ biển!

Và tôi thấy mình chạy theo ông ta. Tôi rất sợ hãi. Sợ hãi, nhưng vui.

Tại chỗ thấp nhất của vách đá, có những bậc thang được tạc vào đá, dẫn xuống bờ biển. Khi tôi trèo xuống cùng với những người khác, tôi giật mình vì những cái vỗ lưng và tiếng gọi thân thiện họ dành cho nhau - những điều tôi chưa bao giờ chứng kiến, kể cả khi còn bé. Tôi nhận thấy một thứ gì đó kì lạ trên một trong những tảng đá nằm dưới các bậc cầu thang. Một dòng chữ viết tay bằng sơn trắng đã phai mờ. JOHN yêu JULIE. Lớp “94”.

Mọi chuyện kì lạ đến nỗi làm cho tôi có cảm giác như đang bị thôi miên. Mọi người nói chuyện và cười với nhau, giống trong các bộ phim về cướp biển. Hay đúng hơn là trong các phim về tù nhân. Nhưng xem trên phim và chứng kiến tận mắt ngoài đời là hai chuyện rất khác nhau.

Tuy vậy, khi nghĩ lại chuyện đó trong buồng giam của mình lúc này, tôi nhận ra mình đã không bị sốc như đáng ra phải thế, có lẽ vì tôi đã chứng kiến sự thân mật như vậy trong các bộ phim.

Một vài người đã nhặt những mảnh gỗ bị sóng đánh lên bờ và nhóm một đống lửa trên bờ biển. Tôi chưa từng nhìn thấy tận mắt một đống lửa ngoài trời trước đó, và nó làm tôi thích thú. Sau đó, một người còn cởi quần áo, rồi vừa cười vừa chạy xuống biển trước khi hòa mình vào làn nước. Vài người té nước đùa giỡn với nhau trong vùng nước nông, những người khác ra xa bờ hơn và bắt đầu bơi, cứ như thể họ đang ở trong hồ bơi của một trung tâm thể dục thể thao. Tôi nhận thấy họ tụ thành các nhóm nhỏ, cả những người đang chời đùa và những người đang bơi. Hình như họ muốn như thế.

Những người còn lại đứng thành vòng quanh đống lửa. Người đàn ông tóc bạc rút từ trong túi một điếu cần, rồi châm nó bằng que củi đang cháy. Có vẻ như ông ta đã quen với đống lửa - thật vậy, tất cả bọn họ hình như đều đã từng làm cái trò này nhiều lần trước đây.

Một tù nhân mỉm cười và nói với người bên cạnh:

- Charlie này, đã bao lâu kể từ lần có biến cuối cùng nhỉ?

Charlie đáp:

- Cũng khá lâu đấy. Quá kì hạn lâu rồi.

Những người khác gật gù đồng tình và cười theo.

Người đàn ông tóc xám tiến đến ngồi bên cạnh tôi. Ông ta đưa cho tôi điếu cần, nhưng tôi lắc đầu từ chối. Thấy vậy ông ta nhún vai và đưa nó cho người ngồi cạnh tôi, rồi nói:

- Chúng ta có ít nhất một giờ. Việc sửa chữa robot ở đây khá chậm chạp.

- Chúng ta đang ở đâu? - Tôi thắc mắc.

- Tôi cũng không biết. - Ông ta đáp. - Mọi người đều bị tiêm cho bất tỉnh tại tòa và chỉ được đánh thức sau khi đã ở đây. Nhưng có người bảo anh ta nghĩ đây là Bắc Carolina. - Ông ta nói với người vừa nhận điếu cần, anh ta đang chuyền điếu thuốc cho người kế tiếp. - Phải vậy không, Foreman? Bắc Carolina đúng không?

Foreman quay lại.

- Tôi lại nghe là Nam. - Ông ta đáp. - Nam Carolina.

- Ờ, đại loại ở mạn đấy. - Người tóc bạc nói.

Chúng tôi ngồi im lặng một lúc, ngắm nhìn những lưỡi lửa trong nắng chiều, lắng nghe sóng đánh vào bờ và tiếng kêu rời rạc của một con mòng biển trên đầu. Rồi một trong những người đàn ông lớn tuổi hỏi tôi:

- Sao cậu lại bị đưa vào đây? Cậu giết ai à?

Bị bất ngờ, tôi không biết phải nói gì. Chắc ông ta sẽ không thể hiểu được chuyện đọc chữ.

- Tôi sống cùng một người. - Cuối cùng tôi đáp. - Một phụ nữ...

Khuôn mặt ông ta bừng sáng lên trong thoáng chốc trước khi sa sầm:

- Tôi cũng từng sống với một phụ nữ. Trong hơn một lam .

- Thế à? - Tôi hỏi lại.

- Phải. Một lam một hoàng . Ít nhất là thế. Nhưng không phải vì thế mà họ tống tôi vào đây. Mẹ kiếp, tôi ăn trộm. Đó là lí do. Nhưng chắc chắn tôi còn nhớ...

Ông ta nhăn nheo, gầy gò và bị còng lưng. Đầu ông ta chỉ còn lưa thưa vài sợi tóc, bàn tay run rẩy đón lấy điếu cần và rít một hơi, trước khi chuyền nó cho một người trẻ hơn ngồi bên cạnh.

- Đàn bà. - Người tóc bạc ngồi cạnh tôi thốt lên, phá vỡ sự im lặng.

Hai chữ đó dường như giúp ông già mở lòng.

- Tôi từng pha cà phê cho bà ấy, và chúng tôi uống trên giường. Cà phê thật, pha với sữa thật, và thỉnh thoảng kèm theo một ít trái cây nếu tôi có thể tìm được. Một quả cam chẳng hạn. Bà ấy sẽ uống món cà phê đó từ một cái cốc màu xám, còn tôi ngồi ở cuối giường, đối diện với bà ấy, giả vờ nghĩ ngợi về cốc cà phê của mình, nhưng thật ra chỉ quan sát bà ấy. Chúa ơi, tôi có thể ngắm bà ấy cả ngày. - Ông già lắc đầu.

Tôi có thể hiểu được nỗi buồn của ông ta. Tay chân tôi nổi da gà trước những lời tâm sự đó. Tôi chưa bao giờ được nghe những người khác nói chuyện với mình như vậy trước đây. Ông ta đã nói ra cảm giác trong lòng tôi và, dù rất buồn, tôi vẫn cảm thấy nhẹ nhõm đôi chút.

Ai đó khẽ hỏi:

- Chuyện gì đã xảy ra với bà ấy?

Ông già không trả lời ngay. Một lúc sau ông đáp:

- Chẳng biết nữa. Một hôm tôi từ xưởng về nhà, và bà ấy đã biến mất. Không bao giờ gặp lại.

Im lặng bao trùm trong thoáng chốc, sau đó một tù nhân trẻ tuổi hơn mà tôi đoán chỉ đang cố tỏ ra tử tế, lên tiếng với giọng triết lí:

- Đấy, tình dục chớp nhoáng là tốt nhất.

Ông già chậm rãi quay đầu nhìn anh ta chăm chú. Rồi ông nói quả quyết, không cao giọng:

- Rác rưởi. Rặt những rác rưởi.

Người kia đỏ mặt và quay đi.

- Tôi không có ý...

- Rác rưởi. - Ông già nói tiếp. - Cái thứ tình dục chớp nhoáng của các cậu chỉ là rác rưởi. Tôi tự biết cuộc đời mình như thế nào. - Ông quay mặt ra biển và hạ giọng, lặp lại câu nói vừa rồi. - Tôi tự biết cuộc đời mình như thế nào.

Nghe ông nói, và nhìn cách ông quan sát mặt biển với đôi vai gầy nhô ra bên dưới lớp áo tù, vài sợi tóc bị gió thổi bay phất phơ trên lớp da đầu già nua nhẵn thín, tôi cảm thấy một nỗi buồn vượt xa những gì nước mắt có thể biểu đạt. Tôi nhớ tới Mary Lou và hình ảnh cô uống trà buổi sáng. Tôi nhớ tới bàn tay cô đặt trên gáy, cách cô thỉnh thoảng đưa mắt nhìn tôi, thật chăm chú, rồi mỉm cười...

Có lẽ tôi sẽ ngồi đó thật lâu để nhớ về Mary Lou và gặm nhấm nỗi buồn của mình trong lúc nhìn ra biển, nếu như người đàn ông tóc bạc cạnh tôi không nói khẽ:

- Cậu có muốn bơi không?

Tôi chưng hửng ngước lên nhìn ông ta và vọt miệng đáp:

- Không.

Viễn cảnh tắm truồng với tất cả những con người xa lạ này lôi tôi về thực tại một cách đột ngột.

Nhưng tôi rất thích bơi.

Hồi ở trong trường nội trú, mỗi đứa trẻ đều được bơi một mình trong hồ khoảng mười phút. Các trường nội trú rất chặt chẽ về Chủ nghĩa Cá nhân.

Tôi đang nghĩ đến đó thì người đàn ông tóc bạc bỗng nói:

- Tên tôi là Belasco.

Tôi cụp mắt nhìn lớp cát dưới chân.

- Hân hạnh được biết anh. - Tôi đáp.

Giây lát sau, ông ta hỏi tôi:

- Thế tên cậu là gì, anh bạn?

- Ồ! - Tôi nói, mắt vẫn nhìn xuống cát. - Bentley.

Tôi cảm thấy một bàn tay đặt lên vai mình và ngạc nhiên ngước lên nhìn khuôn mặt của ông ta.

- Hân hạnh được biết cậu, Bentley. - Ông ta nói.

Một lúc sau, tôi đứng dậy và đi tới mép nước, tránh xa những người đang bơi. Tôi biết mình đã thay đổi rất nhiều kể từ khi rời Ohio, nhưng tất cả sự thân mật và các cảm xúc đồng thời này nằm ngoài khả năng chịu đựng của tôi. Hơn nữa, tôi chỉ muốn được ở một mình cùng với những hồi tưởng về Mary Lou.

Tại mép nước, tôi tìm thấy một con cua mượn hồn đang trốn trong một cái vỏ ốc xoắn nhỏ. Tôi biết nó là một con cua mượn hồn nhờ hình ảnh trong cuốn sách Sinh vật bờ biển Bắc Mĩ mà Mary Lou tìm được.

Có một mùi hương mặn mòi, thanh sạch dọc theo mép nước, và những con sóng nhẹ nhàng trườn lên cát ướt tạo ra những âm thanh tôi chưa từng nghe thấy trước đây. Tôi đứng đó dưới ánh nắng mặt trời và nhìn ngắm, hít hà, lắng nghe tiếng sóng, cho đến khi Belasco gọi:

- Đã đến lúc phải quay lại, Bentley. Họ sắp sửa xong con robot rồi đó.

Chúng tôi lặng lẽ trèo lên các bậc đá và quay về vị trí của mình trên cánh đồng, chờ đợi.

Một lát sau, các robot quay lại. Chúng không hề nhận ra công việc của chúng tôi không tiến triển thêm trong lúc chúng vắng mặt. Đám robot ngu xuẩn.

Tôi cúi xuống làm việc theo nhịp nhạc.

Khi đi tới cuối luống cây, tôi nhìn xuống bãi cát bên dưới. Đống lửa của chúng tôi vẫn còn đang cháy.

Tôi chợt nhận ra mình vừa viết ba chữ “của chúng tôi”. Thật lạ lùng khi tôi nghĩ đến nó như một thứ thuộc về tất cả chúng tôi - như một tập thể.

Khi từ bãi biển trèo lên cánh đồng trở lại, tôi đi cạnh ông già hói. Tôi rất muốn nói gì đó tử tế với ông ấy, cảm ơn ông đã làm cho nỗi buồn của tôi trở nên dễ chịu hơn, hay thậm chí là đặt tay lên đôi vai gầy guộc già nua. Nhưng tôi không làm gì cả. Tôi không biết phải làm những chuyện đó như thế nào. Tôi ước gì mình biết cách, thật đấy. Nhưng tôi không biết.

NGÀY THỨ CHÍN MƯƠI CHÍN

Ở một mình trong buồng giam vào ban đêm, tôi nghĩ rất nhiều. Có những lúc tôi nghĩ về những điều đã đọc trong sách, hoặc về thời thơ ấu, về quãng thời gian làm giảng viên ở Ohio. Có lúc tôi nghĩ về khoảng thời gian lần đầu tiên tôi học đọc, cách đây hơn hai hoàng , khi tôi tìm thấy chiếc hộp có cuộn phim, bộ thẻ, cùng những cuốn sách nhỏ có hình ảnh. Dòng chữ trên hộp có nội dung Công cụ dành cho người đọc vỡ lòng . Đó là những dòng chữ in đầu tiên mà tôi từng thấy, và tất nhiên tôi đã không thể đọc chúng. Điều gì đã cho tôi sự kiên nhẫn để theo đuổi cho đến khi học cách đọc được các chữ nằm trong một cuốn sách?

Nếu tôi không học đọc ở Ohio và sau đó đến New York để tìm cách trở thành một người dạy đọc, thì giờ đây tôi đã không ở trong tù. Và tôi đã không gặp Mary Lou, không bị nỗi buồn này chiếm đầy tâm trí.

Tôi nghĩ về cô nhiều hơn bất kì điều gì khác. Tôi nhớ hình ảnh cô cố gắng không tỏ ra sợ hãi khi bị Spofforth đưa ra khỏi phòng tôi ở thư viện. Đó là lần cuối cùng tôi nhìn thấy cô. Tôi không biết Spofforth đã đưa cô đi đâu, hay chuyện gì đã xảy ra với cô. Có lẽ cô đang ở trong một nhà tù dành cho phụ nữ, nhưng tôi không dám chắc về điều đó.

Tôi đã cố gắng làm Spofforth nói cho tôi biết điều gì sẽ xảy ra với cô, trong khi chúng tôi đi trên chuyến xe buýt giao cảm đến buổi điều trần, nhưng ông ta không trả lời.

Tôi đã cố gắng vẽ lại khuôn mặt của cô trên tờ giấy bằng bút chì màu. Nhưng chuyện đó chẳng đi đến đâu. Tôi chưa bao giờ biết vẽ.

Cách đây rất lâu trong trường nội trú của tôi từng có một cậu bé vẽ rất đẹp. Một lần nọ, cậu ta đặt một số bức vẽ của mình lên bàn tôi trong lớp, và tôi đã kinh ngạc nhìn chúng. Đó là những hình vẽ chim chóc, bò, con người, cây cối, và robot giám thị ở hành lang bên ngoài lớp học. Đó là những bức tranh đáng chú ý, với nét vẽ gọn gàng và độ chính xác đáng kinh ngạc.

Tôi không biết phải làm gì với những bức vẽ đó. Nhận hoặc đưa những thứ riêng tư cho người khác là một việc làm khủng khiếp và có thể dẫn tới các hình phạt nặng. Vì vậy tôi bỏ lại chúng trên bàn mình, và ngày hôm sau chúng biến mất. Vài ngày sau, cậu bé đã vẽ chúng cũng biến mất. Tôi không biết điều gì đã xảy ra với cậu ta. Không ai nhắc đến cậu ta nữa.

Liệu chuyện tương tự có xảy ra với Mary Lou? Có phải tất cả đã chấm dứt, và sẽ không còn ai nhắc đến cô trên thế giới này nữa?

Tối nay tôi đã uống bốn viên mê dược. Tôi không muốn nhớ quá nhiều.

NGÀY THỨ MỘT TRĂM LẺ BỐN

Hôm nay sau bữa tối Belasco đã đến buồng giam của tôi! Ông còn mang theo trên tay một con thú nhỏ có bộ lông hai màu, xám và trắng.

Tôi đang ngồi trên ghế nghĩ tới giọng nói của Mary Lou khi cô đọc thành tiếng thì thình lình trông thấy cánh cửa buồng giam mở ra. Belasco đứng đó, miệng nhoẻn cười, với con thú trên tay.

- Ủa... - Tôi thốt lên.

Ông ta giơ một ngón tay lên môi và nói khẽ:

- Không có cánh cửa nào được khóa vào ban đêm. Cậu có thể coi đây là một trục trặc vận hành khác.

Belasco khép cửa lại rồi đặt con thú xuống sàn nhà. Nó ngồi đó nhìn tôi với ánh mắt tò mò nhàm chán, trước khi giơ chân sau lên gãi tai. Trông nó giống một con chó, nhưng nhỏ hơn.

- Ban đêm cửa được khóa bằng máy tính, nhưng thỉnh thoảng máy tính lại quên mất chuyện đó.

- Ra vậy! - Tôi thốt lên, mắt vẫn nhìn vào con thú nhỏ. - Cái gì đây?

- Cái gì là sao?

- Con thú này.

Belasco ngạc nhiên nhìn tôi.

- Cậu không biết mèo là gì hả, Bentley?

- Tôi chưa từng thấy con mèo nào trước đây.

Ông ta lắc đầu, rồi cúi xuống vỗ nhẹ con thú mấy cái.

- Đây là một con mèo. Nó là thú cưng.

- Thú cưng? - Tôi hỏi lại.

Belasco lắc đầu, nhăn mặt.

- Này anh bạn! Cậu không biết gì ngoài những thứ được dạy ở trường, đúng không? Thú cưng là một con vật mà chúng ta giữ lại bên mình. Nó là một người bạn.

Ra là vậy , tôi nhủ thầm. Giống như Roberto, Consuela và con chó Biff , trong cuốn sách tôi đã dùng để học đọc. Biff là thú cưng của Roberto và Consuela. Và cuốn sách cũng viết rằng Roberto là bạn của Consuela. Một người bạn là như thế. Ai đó mà người ta ở bên cạnh nhiều hơn bất kì ai khác. Rõ ràng một con thú cũng có thể làm bạn.

Tôi muốn cúi xuống chạm vào con mèo, nhưng lại sợ.

- Nó có tên không vậy? - Tôi hỏi.

- Không. - Belasco đáp.

Ông tiến đến ngồi xuống mép giường, và vẫn nói rất khẽ:

- Tôi chỉ gọi nó là “mèo” thôi.

Belasco rút điếu cần từ trong túi áo ra và đưa lên miệng. Ống tay áo của ông xắn cao, để lộ thứ mà tôi đoán là hình trang trí, nom như được in bằng mực xanh trên hai cẳng tay, ngay phía trên bộ vòng đeo ở cổ tay. Hình ở tay phải là một trái tim, còn hình bên trái là một phụ nữ khỏa thân.

Belasco châm điếu cần.

- Cậu có thể đặt tên cho con mèo nếu muốn, Bentley.

- Ý anh là tôi có thể quyết định việc nó được gọi như thế nào?

- Phải.

Ông ta đưa cho tôi điếu cần và tôi thoải mái đón lấy, dù biết việc chia sẻ là phạm pháp, và rít một hơi, trước khi trả lại.

Sau đó, khi nhả khói ra, tôi nói:

- Được thôi. Vậy tên của con mèo sẽ là Biff.

Belasco mỉm cười.

- Tốt. Con vật đang cần một cái tên. Giờ thì nó đã có. - Ông cúi nhìn con mèo, lúc này đang chậm rãi đi loanh quanh khám phá căn buồng. - Phải vậy không, Biff?

Bentley, Belasco và mèo Biff , tôi nhủ thầm.

NGÀY THỨ MỘT TRĂM LẺ NĂM

Tôi tin những tòa nhà của trại tù là công trình cổ xưa nhất mà mình từng thấy. Có năm tòa cả thảy được xây bằng những khối đá lớn sơn xanh, với các ô cửa sổ cáu bẩn lắp chấn song gỉ sét. Tôi mới chỉ vào hai trong số này: Khu buồng giam nơi tôi ngủ, và tòa nhà xưởng giày nơi tôi làm việc vào buổi sáng. Tôi không biết có gì trong ba tòa nhà còn lại. Một trong số chúng nằm cách biệt một chút so với những căn khác, thậm chí trông còn cũ kĩ hơn những căn còn lại, và các cửa sổ của nó đã được bịt ván, giống như ngôi nhà mùa Hè trong Thiên thần trên dây , một bộ phim của Gloria Swanson. Tôi đã đi tới tòa nhà này trong giờ tập thể dục sau bữa trưa và quan sát nó kĩ hơn. Những tảng đá của nó được lớp rêu ẩm mượt bao phủ, và các cánh cửa lớn bằng kim loại luôn được khóa chặt.

Xung quanh khối nhà có một hàng rào kép rất cao bằng lưới thép dày, từng được sơn màu đỏ nhưng giờ đã phai nhạt và trở thành màu hồng. Hàng rào có một cánh cổng cho phép chúng tôi đi qua để ra đồng làm việc. Bốn robot canh các cổng này cả ngày lẫn đêm. Khi chúng tôi đi qua trên đường đi làm, họ sẽ kiểm tra chiếc vòng kim loại được gắn cố định vào cổ tay chúng tôi, trước khi cho phép chúng tôi đi qua.

Tôi đã được quản giáo - một robot Lớp Sáu cao to vạm vỡ - giảng cho một bài định hướng kéo dài năm phút trong lần đầu tiên tôi nhận đồng phục. Ngoài những chuyện khác, hắn đã giải thích rằng nếu một tù nhân đi ra ngoài mà bộ vòng đeo tay không được lính canh vô hiệu hóa, chúng sẽ nóng rực lên và làm bỏng cổ tay nếu anh ta không quay vào trong cổng rào ngay lập tức.

Các dải kim loại hẹp và ôm chặt làm bằng một thứ kim loại cực kì cứng, mờ và có màu bạc. Tôi không biết làm thế nào bọn họ đeo được chúng vào tay tôi. Chúng đã nằm sẵn ở cổ tay khi tôi tỉnh lại trong tù.

⚝ ✽ ⚝

Tôi đoán trời đã sắp vào Đông, vì không khí bên ngoài khá lạnh. Nhưng cánh đồng được sưởi ấm bằng cách nào đó, và mặt trời vẫn tỏa sáng. Mặt đất dưới chân tôi ấm áp khi tôi bón phân cho đám cây gớm ghiếc, nhưng không khí vẫn phả hơi lạnh vào da thịt tôi. Và thứ âm nhạc ngu ngốc đó không bao giờ ngừng lại, không bao giờ trục trặc. Lũ robot thì cứ tiếp tục nhìn và nhìn. Tựa như trong một giấc mơ.

NGÀY THỨ MỘT TRĂM MƯỜI SÁU

Đã mười một ngày trôi qua kể từ khi tôi viết gì đó về cuộc đời mình. Tôi sẽ không đếm nổi số ngày nếu không nghĩ ra cách dùng bút chì đánh dấu lên tường vào mỗi buổi tối sau giờ ăn. Những vết bút chì nằm bên dưới màn hình ti vi khổng lồ choán gần hết bức tường phía cuối buồng giam của tôi, đối diện với chiếc ghế gắn chặt xuống sàn. Bây giờ tôi có thể nhìn thấy chúng khi ngẩng đầu lên khỏi tờ giấy đặt trên tấm bảng nằm trong lòng mình. Chúng trông giống như một hoa văn thiết kế dạng sọc xám gọn ghẽ trên tường, bên dưới chiếc ti vi.

Tôi đang mất hứng thú với việc viết lách. Đôi khi tôi cảm thấy nếu không lấy lại được các cuốn sách hoặc xem thêm bất kì bộ phim câm nào, tôi sẽ quên cách đọc và không còn muốn viết.

Belasco không trở lại phòng tôi sau đêm đầu tiên. Tôi đoán là do máy tính đã không quên khóa cửa sau bữa ăn tối. Sau khi đánh dấu trên tường, tôi luôn kiểm tra cửa và nó luôn khóa.

Tôi không còn nghĩ về Mary Lou mọi lúc, như tôi đã từng. Tôi không nghĩ ngợi nhiều nữa. Tôi uống mê dược, hút cần, xem những hình ảnh khiêu dâm và chết chóc to như người thật trên ti vi, rồi đi ngủ sớm.

Các chương trình được lặp lại cứ sau mỗi tám hoặc chín ngày trên ti vi. Tôi cũng có thể xem các chương trình Tự Cải tạo từ một trong số ba mươi cái bóng bồi mà mỗi tù nhân được nhận tại buổi định hướng. Nhưng tôi không mở bóng bồi. Tôi xem bất cứ điều gì được chiếu. Tôi không quan tâm đến việc xem các chương trình truyền hình, tôi chỉ xem ti vi.

Viết lách thế này đủ rồi. Nó làm tôi mệt mỏi.

NGÀY THỨ MỘT TRĂM MƯỜI CHÍN

Một cơn giông đã ập tới chiều nay, trong khi chúng tôi đang lao động ngoài đồng. Suốt một lúc lâu, các robot canh gác dường như bối rối vì gió và cơn mưa nặng hạt nên không gọi chúng tôi quay lại khi chúng tôi đứng ở rìa vách đá, bất chấp những hạt mưa quất vào người, để quan sát bầu trời và đại dương. Bầu trời nhanh chóng chuyển từ màu xám sang đen rồi trở lại màu xám. Những ánh chớp lóe lên gần như liên tục. Còn bên dưới chúng tôi, biển động dữ dội và gầm gào. Sóng trùm qua bãi cát đập mạnh vào chân vách đá rồi rút đi trong thoáng chốc trước khi quay trở lại - những con sóng u ám, xám xịt, ngầu bọt, ồn ào.

Tất cả chúng tôi cùng quan sát, không ai cố gắng nói. Tiếng ồn của sấm sét và đại dương thật đinh tai.

Sau đó, khi trời bắt đầu yên ắng một chút, tất cả chúng tôi quay lại và trở về trại giam. Lúc tôi đi bộ qua cánh đồng, cơn mưa lúc này nhẹ hơn nhưng vẫn tạt vào mặt và bộ quần áo ướt đẫm của tôi. Tôi nhận ra mình đang lạnh run, và đột nhiên những dòng thơ vang lên trong đầu tôi:

Gió Tây hỡi, bao giờ mi thổi,

Cho cơn mưa đổ xuống trần gian?

Chúa Trời ơi! Con muốn ôm nàng

Và tìm lại chiếc giường êm ấm!

Tôi khuỵu xuống đất khóc nức nở như một thằng ngốc, khóc cho Mary Lou và cuộc đời mà tôi từng sống trong một quãng thời gian, khi tâm trí và óc tưởng tượng của tôi được sống, dù chỉ trong thoáng chốc.

Không có lính canh nào ở gần đó. Belasco đã trở lại vì tôi. Ông lặng lẽ giúp tôi đứng dậy và vòng tay quanh người tôi, dìu tôi quay về trại giam. Chúng tôi không nói với nhau lời nào cho đến khi tôi đứng trước cửa buồng giam đang mở. Belasco buông tay ra và nhìn thẳng vào mặt tôi. Đôi mắt của ông nghiêm trang và khiến tôi yên lòng.

- Mẹ kiếp, Bentley. - Belasco nói. - Tôi nghĩ tôi biết cậu đang cảm thấy thế nào.

Sau đó, ông vỗ nhẹ vai tôi và quay gót bỏ về phòng giam của mình.

Tôi đứng dựa vào song sắt lạnh lẽo nhìn những tù nhân khác, lê bước về phòng giam, tóc tai và quần áo ướt sũng. Tôi muốn choàng tay ôm từng người họ. Cho dù tôi có biết tên từng người hay không, bọn họ, tất cả bọn họ, đều là bạn của tôi.

NGÀY THỨ MỘT TRĂM HAI MƯƠI MỐT

Hôm nay tôi đã vào được bên trong tòa nhà có cửa sổ bị bịt ván.

Chuyện đó rất đơn giản. Tôi đi ra cái sân rải sỏi giữa các tòa nhà trong giờ thể dục sau bữa trưa. Tôi thấy hai robot canh gác đi lên các bậc thềm của tòa nhà, mở khóa cửa và đi vào trong. Một lúc sau chúng bước ra, mỗi con mang theo một cái hộp giống như thứ đựng giấy vệ sinh của chúng tôi. Chúng mang hai cái hộp về phía tòa trại giam, để ngỏ cửa. Tôi bèn đi vào trong.

Bên trong, các cánh cửa làm bằng nhựa Permo. Tường được xây bằng một số vật liệu khác, ọp ẹp và sụp đổ nhiều chỗ. Có khá ít ánh sáng do các cửa sổ bị bịt ván. Tôi bước nhanh qua những hành lang tối om, mở các cánh cửa.

Một số phòng để trống, số khác chứa những thứ như xà phòng và khăn giấy, giấy vệ sinh và khay đựng thức ăn, chất đống trên giá. Tôi lấy một xấp khăn giấy để viết nhật kí này. Bỗng tôi nhìn thấy một tấm biển đã phai mờ trên cánh cửa đôi ở cuối hành lang. Đó là tấm biển có chữ viết duy nhất mà tôi từng thấy ngoài những tấm biển ở tầng hầm thư viện tại New York.

Tôi không thể đọc được những từ đầu tiên, chúng đã mờ và bám đầy bụi bẩn. Hành lang cũng rất tối. Nhưng khi đến gần và xem xét cẩn thận, tôi đã đọc được chúng:

THƯ VIỆN CÁNH ĐÔNG

Tôi gần như nhảy dựng lên vì từ “Thư viện”. Tôi đứng ngây ra, nhìn chằm chằm tấm biển, và cảm thấy tim mình đập thình thịch.

Sau đó tôi thử lay cánh cửa và nhận thấy chúng đã bị khóa. Tôi hết kéo lại đẩy, cố gắng xoay núm cửa, nhưng tôi không thể làm nó nhúc nhích. Thật kinh khủng.

Tôi giận điên lên và đập tay vào cửa. Nhưng nó không di chuyển, và tôi chỉ làm đau chính mình.

Tôi chuồn khỏi tòa nhà khi nghe thấy tiếng các robot quay lại và đi vào một trong các phòng chứa đồ.

Tôi phải vào bên trong thư viện đó! Tôi phải có sách một lần nữa. Nếu tôi không thể đọc, để học và có những điều đáng suy nghĩ, tôi thà tự thiêu còn hơn sống tiếp.

Xăng tổng hợp được sử dụng để chạy máy thu hoạch. Tôi biết mình có thể lấy một ít và tự thiêu. Tôi sẽ ngừng viết ngay bây giờ và xem ti vi.

NGÀY THỨ MỘT TRĂM BA MƯƠI HAI

Đã mười một ngày tôi lâm vào tình trạng chán nản. Khi chiều xuống tôi chẳng buồn đi ngắm biển mỗi khi tới được đầu cuối của luống cây, cũng không cố viết lách vào buổi tối. Đầu óc tôi trống rỗng như lúc lao động, khi tôi chỉ tập trung vào cái mùi chua nồng của cây Protein 4.

Các lính canh không nói gì, nhưng tôi vẫn ghét chúng. Đó là cảm xúc duy nhất của tôi. Những thân hình đồ sộ, chậm chạp và khuôn mặt biếng nhác của chúng cũng giống như mấy cái cây tổng hợp dẻo quẹo mà tôi chăm bón. Chúng là một sự sỉ nhục cho đôi mắt tôi - câu này tôi lấy từ trong phim Không thể dung thứ .

Nếu tôi uống bốn, năm viên mê dược, việc xem ti vi sẽ không còn thú vị gì nữa. Cái ti vi treo tường của tôi khá tốt, nó chưa bao giờ bị trục trặc.

Cơ thể tôi không còn bị đau đớn nữa. Giờ đây nó đã mạnh mẽ hơn, các khối cơ của tôi cứng rắn và chắc nịch. Tôi trở nên rám nắng, và mắt tôi cũng tinh tường hơn. Bàn tay và bàn chân tôi có nhiều nốt chai cứng, tôi cũng làm việc tốt hơn và không còn bị đánh nữa. Nhưng nỗi buồn trong lòng tôi đã quay lại. Nó xâm chiếm tôi chậm rãi, mỗi ngày một chút, và tôi cảm thấy tuyệt vọng hơn những ngày đầu vào tù. Mọi thứ dường như vô vọng.

Đôi khi, có những ngày trôi qua mà tôi không nghĩ tới Mary Lou. Thật vô vọng.

NGÀY THỨ MỘT TRĂM BA MƯƠI BA

Tôi đã phát hiện ra chỗ cất xăng tổng hợp. Nó được cất trong lán máy tính ở rìa cánh đồng.

Mọi tù nhân đều có bật lửa điện để hút cần.

NGÀY THỨ MỘT TRĂM BA MƯƠI SÁU

Đêm qua Belasco lại sang phòng tôi. Thoạt đầu tôi không muốn gặp ông ta. Khi nhận ra cửa buồng giam không khóa, tôi khá căng thẳng. Tôi không muốn ra ngoài, và cũng không muốn người khác đi vào.

Nhưng Belasco vẫn cứ vào buồng giam của tôi và bắt chuyện:

- Thật vui khi được sang chơi với cậu, Bentley.

Tôi chỉ cụp mắt nhìn sàn nhà dưới chân. Ti vi của tôi đã tắt, và tôi đã ngồi như thế hàng giờ liền, trên mép giường.

Belasco im lặng trong giây lát. Tôi nghe thấy ông ta ngồi vào chiếc ghế, nhưng không ngước lên nhìn. Có cảm giác như tôi không thể ngẩng đầu lên.

Cuối cùng Belasco nói với giọng nhẹ nhàng:

- Tôi đã quan sát cậu mấy ngày vừa qua, Bentley. Trông cậu giống như một con robot vậy.

Giọng ông đầy sự cảm thông và xoa dịu.

Tôi gắng gượng thốt lên:

- Tôi cũng đoán thế.

Chúng tôi lại im. Rồi ông ta nói:

- Tôi biết nó là gì, Bentley. Cậu đang nghĩ tới cái chết. Giống như những gì dân thành phố đang làm, với xăng và bật lửa. Hoặc ở đây, với biển. Tôi đã thấy những gã đi luôn không quay lại. Mẹ kiếp, tôi cũng từng nghĩ tới chuyện đó: Chỉ cần bơi ra thật xa và không nhìn lại...

Tôi ngước lên nhìn ông ta.

- Anh từng nghĩ đến chuyện đó sao? - Tôi ngạc nhiên hỏi lại. - Anh có vẻ rất mạnh mẽ.

Belasco cười nhạt:

- Mẹ kiếp, tôi cũng giống như mọi người thôi. Sống thế này thì có khá khẩm hơn cái chết là bao. - Ông lại cười và lắc đầu. - Mà nói thật nhé, ở ngoài kia cũng chẳng hơn gì đâu. Chẳng có công việc thực sự, trừ những thứ rác rưởi giống như ở đây. Ở trường nội trú Người Làm, họ từng dạy chúng tôi rằng “Lao động giúp con người hoàn thiện”. Hoàn thiện vào mắt. - Ông lấy một điếu cần từ trong túi ra và châm lửa. - Tôi đi trộm thẻ tín dụng ngay sau khi tốt nghiệp. Nửa cuộc đời vào tù ra khám. Muốn chết đôi ba lần đầu, nhưng không được. Giờ tôi có lũ mèo của mình, và đi loanh quanh... Mà này, cậu có muốn nuôi con Biff không?

Tôi trố mắt nhìn Belasco:

- Để làm... thú cưng á?

- Ừ. Sao lại không? Tôi còn bốn con khác. Dù đôi khi kiếm đồ ăn cho chúng nó cũng mệt lắm, nhưng tôi có thể chỉ cách cho cậu.

- Cảm ơn anh. - Tôi đáp. - Tôi thích lắm. Tôi thích có một con mèo.

- Vậy chúng ta đi đón nó thôi.

Tôi rời buồng giam của mình một cách dễ dàng. Khi đi qua cái cửa không khóa, tôi quay sang nói với Belasco:

- Tôi cảm thấy nhẹ nhõm hơn rồi.

Ông vỗ nhẹ vào lưng tôi và đáp:

- Bạn bè để mà làm gì?

Tôi đứng im trong giây lát, không biết phải nói gì. Thế rồi, trong một cử chỉ gần như vô thức, tôi vươn bàn tay ra và đặt lên cánh tay của Belasco. Tôi chợt nghĩ đến một chuyện.

- Tôi muốn vào bên trong một tòa nhà. Theo anh có khả năng nào nó không bị khóa hay không?

Belasco nhe răng cười đáp:

- Dám lắm. Ta đi xem đi.

Chúng tôi rời khỏi tòa trại giam. Chuyện đó thật đơn giản vì chẳng có lính canh nào xuất hiện.

Chúng tôi bước vào trong tòa nhà bịt ván mà chẳng gặp trở ngại gì, ngoại trừ việc nó rất tối và chúng tôi liên tục bị vấp chân vào mấy hộp trong hành lang. Belasco nói với tôi:

- Đôi khi những nơi cũ kĩ như thế này vẫn có công tắc trên tường đấy.

Tôi nghe thấy tiếng ông mò mẫm, vấp váp và văng tục, trước khi một tiếng tách vang lên, và một bóng đèn lớn trên trần hành lang vụt sáng. Thoạt đầu tôi chỉ sợ các lính canh có thể trông thấy ánh đèn, nhưng rồi tôi nhớ ra các cửa sổ đều bị bịt ván nên yên tâm trở lại.

Tuy vậy, khi tôi tìm thấy cửa thư viện, nó vẫn bị khóa chặt! Sẵn đang căng thẳng, tôi chỉ muốn gào lên.

Belasco nhìn tôi và hỏi:

- Có phải cậu đang muốn vào trong này không?

- Vâng. - Tôi đáp.

Không buồn hỏi tôi muốn vào trong đó để làm gì, ông ta bắt đầu xem xét ổ khóa. Nó là một loại mà tôi chưa từng thấy trước đây. Trông nó chẳng hề giống các ổ khóa điện tử.

Belasco huýt sáo khe khẽ:

- Chà! Gã khốn này già lắm rồi đây.

Nói đoạn ông lục lọi trong túi áo và lôi ra chiếc bật lửa được trại tù cung cấp. Đặt nó xuống sàn, ông dùng gót giày đạp mạnh vài cái cho đến khi nó vỡ ra. Ông cúi xuống nhặt những mẩu kim loại, kính và nhựa lên, rồi sau khi nghiên cứu một chút, ông lôi ra một sợi dây thép cứng, dài khoảng chừng bằng ngón tay cái. Tôi im lặng quan sát, không biết ông đang định làm gì.

Belasco cẩn thận nâng ổ khóa trên cửa lên, nhét một đầu sợi dây thép vào trong cái khe, bắt đầu thăm dò. Chốc chốc tôi lại nghe một tiếng tích nhẹ phát ra từ đâu đó bên trong ổ khóa. Belasco lầm bầm chửi mấy lần, nhưng vẫn tiếp tục. Thế rồi, ngay khi tôi định hỏi xem ông ta đang làm gì, một tiếng động nhẹ vang lên trong ổ khóa. Belasco nhoẻn cười, tháo nó ra, rồi mở cửa!

Trong phòng tối om. Nhưng Belasco lại tìm thấy tiếp công tắc trên tường, và ngay sau đó hai bóng đèn trần khá mờ được bật lên.

Tôi háo hức nhìn quanh, hi vọng được trông thấy những vách tường chất đầy sách. Nhưng chúng trống không. Tôi nhìn trân trối một lúc, lòng quặn lại. Trong phòng có mấy bộ bàn ghế cổ bằng gỗ, cùng vài cái thùng nhỏ nằm dọc theo một bức tường, nhưng chẳng có giá kệ gì, thậm chí tranh ảnh cũng không có trên các bức tường tróc lở.

- Có vấn đề gì à? - Belasco hỏi.

Tôi nhìn ông ta:

- Tôi đang hi vọng tìm thấy... những cuốn sách.

- Sách? - Belasco ngớ ra khi nghe thấy chữ đó, nhưng vẫn nói tiếp. - Thế trong mấy cái thùng đằng kia có gì?

Tôi gật gù, dù chẳng mấy hi vọng, và tiến đến chỗ mấy cái thùng nằm cạnh bức tường. Hai thùng đầu tiên chỉ toàn là muỗng sắt đã gỉ sét, chúng bị gỉ nặng đến nỗi dính cả vào nhau thành một khối màu đỏ. Nhưng thùng thứ ba chứa đầy sách! Tôi háo hức lôi chúng ra. Mười hai cuốn cả thảy. Dưới đáy thùng còn có một chồng giấy trắng chỉ hơi bị ố nhẹ.

Tôi đọc tựa các cuốn sách. Cuốn to nhất có nhan đề Các đạo luật được sửa đổi của Bắc Carolina: 1992 . Một cuốn khác mang tên Làm mộc: Nghề và nghiệp , và cuốn thứ ba cũng dày chẳng kém, có tựa là Cuốn theo chiều gió . Thật tuyệt vời khi được cầm chúng trên tay và nghĩ đến những gì được viết bên trong.

Belasco vẫn đang nhìn tôi bằng ánh mắt tò mò. Cuối cùng ông hỏi:

- Mấy cái này là sách à?

- Phải.

Ông cầm một cuốn lên và lướt ngón tay trên lớp bìa bụi bặm:

- Chưa từng nghe nói tới thứ này.

Tôi nhìn ông ta.

- Chúng ta đi đón con mèo rồi đem chỗ sách này về buồng giam của tôi thôi.

- Phải đó. - Belasco đáp. - Để tôi giúp cậu.

Chúng tôi đi đón Biff và mang thùng sách về phòng mà không gặp chút trở ngại nào.

Giờ thì đêm đã khuya, và Belasco đã quay về chỗ của ông ta. Tôi sẽ ngừng viết và xem qua mấy cuốn sách. Tôi đã giấu chúng vào khe hở giữa chiếc giường nệm nước và bức tường, gần nơi mèo Biff ngủ.

NGÀY THỨ MỘT TRĂM BA MƯƠI CHÍN

Tôi rất mệt vì đã đọc gần như suốt đêm qua và phải làm việc cả ngày hôm nay. Nhưng tôi quá phấn khích. Đầu óc mệt nhoài của tôi bận rộn suốt cả ngày với tất cả những thứ mới mẻ mà tôi cần nghĩ đến.

Có lẽ tôi nên viết ra đây một danh sách các cuốn sách mới của mình:

Các đạo luật được sửa đổi của Bắc Carolina: 1992

Làm mộc: Nghề và nghiệp

Cuốn theo chiều gió

Kinh Thánh

Cẩm nang bảo trì và sửa chữa robot của Audel

Từ điển tiếng Anh

Những căn nguyên của sự tụt giảm dân số

Châu Âu thế kỉ 18 và 19

Cẩm nang duyên hải Carolina dành cho phượt thủ

Lược sử Hoa Kì

Nấu nướng trên bờ biển: Cùng mở tiệc nào!

Nghệ thuật khiêu vũ

Tôi đã đọc những cuốn sách lịch sử, hết cuốn này tới cuốn khác, và tra từ điển để tìm nghĩa của những từ mới. Sử dụng từ điển bây giờ thật dễ vì tôi đã thuộc bảng chữ cái.

Có nhiều điều tôi không hiểu trong những cuốn sách lịch sử, và tôi cảm thấy thật khó chấp nhận việc đã từng có nhiều người đến thế sống trên trái đất. Trong cuốn về lịch sử châu Âu có nhiều hình ảnh Paris, Berlin và Luân Đôn, kích thước của các tòa nhà và số lượng người trong đó thật đáng kinh ngạc.

Thỉnh thoảng Biff nhảy lên lòng tôi trong khi tôi đang đọc sách, và ngủ thiếp đi. Tôi thích như vậy.

NGÀY THỨ MỘT TRĂM BỐN MƯƠI CHÍN

Suốt mười ngày qua cứ hễ có thời gian là tôi lại đọc sách. Không ai làm phiền tôi cả, đám robot lính canh cũng không quan tâm, hoặc là chúng không được lập trình để ghi nhận hiện tượng lạ đó. Tôi thậm chí còn mang theo một cuốn sách trong giờ giao tiếp xã hội, và không ai nhận thấy tôi đọc nó trong lúc xem phim.

Chiếc áo tù màu xanh đã hơi bạc màu của tôi có mấy cái túi rộng, và tôi luôn bỏ trong đó những cuốn sách cỡ nhỏ. Lược sử Hoa Kì và Những căn nguyên của sự tụt giảm dân số đều nhỏ gọn và vừa vặn. Tôi đọc chúng trong những quãng giải lao năm phút tại xưởng giày.

Đoạn đầu tiên của cuốn Những căn nguyên của sự tụt giảm dân số có một câu như thế này: “Trong ba mươi năm đầu của thế kỉ 21, dân số trái đất giảm một nửa, và tiếp tục giảm xuống kể từ đó”. Được đọc những thứ như thế này, những suy nghĩ về bản chất của cuộc sống con người nói chung và liên quan đến những thời kì đã xa, trong tôi trỗi dậy một niềm đam mê không thể giải thích.

Tôi không biết thế kỉ 21 cách đây đã bao lâu, mặc dù tôi biết nó bắt đầu muộn hơn thế kỉ 18 và 19 được mô tả trong cuốn sách lịch sử châu Âu. Tôi chưa bao giờ được dạy về các “thế kỉ” ở trường nội trú, và tôi chỉ biết định nghĩa của từ đó trong từ điển: Nó là khoảng thời gian một trăm năm - tức hai trăm hoàng - và được sử dụng như một đơn vị để phân chia lịch sử nhân loại.

Cẩm nang bảo trì và sửa chữa robot của Audel được in vào năm 2135, và nhờ đọc các cuốn sách lịch sử, tôi biết thời điểm đó rơi vào khoảng thế kỉ 22.

Kinh Thánh thì bắt đầu bằng câu: “Ban đầu, Đức Chúa Trời tạo ra trời và đất.” Không có dấu hiệu nào cho biết “sự khởi đầu” này thuộc thế kỉ nào, và cũng không có sự giải thích rõ ràng nào về “Đức Chúa Trời”. Tôi không rõ Kinh Thánh có phải là một cuốn sách lịch sử, thi ca, hay một thứ gì tương tự. Nó nhắc đến rất nhiều người kì lạ và gần như không có thật.

Các robot trong cuốn cẩm nang của Audel được thể hiện qua tranh vẽ và sơ đồ. Chúng đều là những loại đơn giản, được dùng vào những công việc cơ bản như cày bừa và lưu trữ.

Cuốn theo chiều gió thì giống với một số bộ phim tôi từng xem. Tôi nghĩ nó là một câu chuyện bịa đặt. Nó kể về những con người ngu ngốc sống trong các tòa nhà lớn, và về một cuộc chiến tranh. Tôi không chắc mình sẽ đọc hết vì nó rất dày.

Nhiều cuốn trong chỗ sách còn lại chẳng mang ý nghĩa gì đối với tôi. Tuy vậy, dường như chúng có một mẫu số chung nào đó rộng lớn hơn mà tôi chưa rõ.

Điều tôi thích nhất là cảm giác nhột nhạt ở những sợi tóc con sau gáy khi đọc một số câu. Và lạ một điều là, những câu đó thường không rõ nghĩa đối với tôi, hoặc khiến tôi cảm thấy buồn. Tôi vẫn còn nhớ một câu mà mình từng đọc lúc ở New York:

Đời tôi nhẹ tựa lông hồng

Đợi chờ cơn gió tử thần mang đi

Giờ tôi sẽ ngừng viết để đọc sách tiếp. Cuộc đời tôi thật kì lạ.

NGÀY THỨ MỘT TRĂM SÁU MƯƠI CHÍN

Tôi đọc liên tục và không dùng mê dược hoặc cần sa. Tôi đọc cho đến khi không thể thức thêm và ngã vật xuống giường, nằm đó với đầu óc quay cuồng toàn những khuôn mặt, những con người và ý tưởng từ đám đông trong quá khứ, tất cả làm tôi rối trí cho đến khi kiệt sức ngủ thiếp đi.

Và tôi đang học những từ vựng mới. Ba mươi đến bốn mươi từ mỗi ngày.

Rất lâu trước khi có robot và Quyền Riêng tư, nhân loại từng có một lịch sử đầy bạo lực và rất đáng kinh ngạc. Tôi gần như không biết phải nghĩ gì hay cảm thấy như thế nào về một số cái chết mà mình đã đọc, cũng như về những biến cố lớn. Đã từng có Cách mạng Nga, Cách mạng Pháp, Đại hồng thủy, Thế chiến thứ ba, và Biến cố Denver. Hồi còn bé tôi từng được dạy rằng tất cả những gì diễn ra trước Kỉ nguyên thứ hai đều dữ dội và tàn phá nặng nề do thiếu sự tôn trọng các Quyền Cá nhân, nhưng không được giải thích sâu hơn. Chúng tôi cũng chưa từng quan tâm tới lịch sử, tất cả những gì chúng tôi biết, nếu có nghĩ tới, là đã từng có những người khác trước chúng tôi, và chúng tôi tốt hơn họ. Nhưng không ai được khuyến khích nghĩ về bất cứ gì khác ngoài bản thân. “Đừng hỏi, thư giãn đi.”

Tôi rất kinh ngạc khi hình dung ra con số những người đã từng gào thét và bỏ mình ngoài chiến trường chỉ để thỏa mãn những tham vọng của các hoàng đế hay tổng thống. Hoặc việc một nhóm người, chẳng hạn như ở Bắc Mĩ, vơ vét thâu tóm các nguồn dự trữ của cải và năng lượng to lớn từ những người khác.

Thế nhưng, bất chấp tất cả những điều này, dường như đã từng có những người đàn ông và phụ nữ tử tế. Và nhiều người trong số họ đã có một cuộc sống hạnh phúc.

NGÀY THỨ MỘT TRĂM BẢY MƯƠI HAI

Phần sau của cuốn Kinh Thánh kể về Jesus Christ. Một số câu trong đó đã được gạch chân bởi một người đọc trước tôi.

Jesus Christ chết một cách đau đớn khi vẫn còn trẻ, nhưng trước khi qua đời đã từng nói và làm nhiều việc đáng kinh ngạc, chẳng hạn như chữa khỏi cho nhiều người bệnh và nói năng khác thường với nhiều người khác. Một số câu nói được gạch chân giống với những gì tôi đã được dạy trong các lớp Hiếu đạo của mình. Ví dụ như: “Nước Đức Chúa Trời ở trong các ngươi”, nghe giống như việc chúng tôi được dạy chỉ tìm kiếm sự thỏa mãn bên trong, thông qua ma túy và Quyền Riêng tư. Nhưng những câu nói khác của Jesus Christ lại rất khác. “Các ngươi phải yêu nhau” là một trong số đó. Một câu khác cũng rất mạnh mẽ: “Ta là đường đi, lẽ thật và sự sống.” Và đây là một ví dụ nữa: “Hỡi những kẻ đang nặng gánh, hãy đến cùng ta, ta sẽ cho các ngươi được nghỉ ngơi.”

Nếu có ai đó đến nói với tôi rằng “Ta là đường đi, lẽ thật và sự sống”, tôi sẽ muốn tin ông ta bằng tất cả sức mạnh mình có. Tôi muốn những thứ đó: Một con đường, sự thật, và cuộc sống.

Theo như tôi hiểu, Jesus Christ tuyên bố rằng mình là con của Đức Chúa Trời, đấng đã dựng nên trời và đất. Điều này làm tôi bối rối và khiến tôi có cảm giác Jesus không đáng tin. Thế nhưng, dường như anh ta biết những chuyện mà người khác không biết, và anh ta không vớ vẩn như những nhân vật trong Cuốn theo chiều gió , hoặc là một kẻ tham tàn như các tổng thống Hoa Kì.

Dù có là gì đi nữa, Jesus giống với một người được gọi là “vĩ nhân”. Tôi không chắc mình thích từ đó, nó khiến tôi cảm thấy không thoải mái. Các “vĩ nhân” thường có những kế hoạch rất đẫm máu dành cho nhân loại.

Tôi nghĩ việc viết lách của mình đang tiến bộ. Tôi biết thêm nhiều từ mới, và việc ghép câu trở nên dễ dàng hơn.

NGÀY THỨ MỘT TRĂM BẢY MƯƠI BẢY

Tôi đã đọc xong tất cả các cuốn sách, ngoại trừ Cuốn theo chiều gió và Nghệ thuật khiêu vũ , và tôi muốn có thêm nhiều sách. Năm đêm vừa rồi, các cánh cửa lại không được khóa, và Belasco đã cùng tôi quay trở lại tòa nhà bị bịt ván để tìm kiếm, nhưng không bắt gặp cuốn sách nào khác.

Tôi phải đọc nữa! Khi nghĩ đến tất cả những cuốn sách nằm dưới tầng hầm của thư viện New York, tôi khao khát được quay trở lại đó.

Tại New York, tôi từng xem vài bộ phim kể về những vụ vượt ngục. Các trại tù trong phim sử dụng cai ngục là con người, và họ rất cảnh giác, trong khi ở đây chỉ có lũ robot cấp thấp.

Nhưng còn bộ vòng tay bằng kim loại không thể bị vô hiệu hóa lâu hơn nửa ngày mỗi lần. Và làm thế nào tôi tới được New York nếu trốn thoát thành công?

Trong cuốn Cẩm nang phượt thủ , có một cái bản đồ của thứ được gọi là Bờ biển phía Đông. Cả Bắc và Nam Carolina đều nằm trên bản đồ này, cùng với New York. Nếu đi men theo bờ biển, tôi sẽ tới được New York. Nhưng tôi hoàn toàn không biết nó xa cỡ nào.

Nấu nướng trên bờ biển hướng dẫn cách tìm những con nghêu và các thứ ăn được trên các bãi biển. Tôi có thể tự nuôi sống mình theo cách đó, nếu vượt ngục.

Tôi có thể chép lại nhật kí này, bằng nét chữ nhỏ hơn, trên những trang giấy mỏng tìm thấy trong cái thùng đựng sách, để mang theo người. Nhưng tôi không thể mang theo tất cả chỗ sách này.

Và không có cách nào tháo mấy cái vòng này ra. Trừ phi tôi có gì đó để cắt nó.

NGÀY THỨ MỘT TRĂM BẢY MƯƠI TÁM

Tại xưởng giày có một cỗ máy lớn dùng để cắt những tấm nhựa nguyên liệu. Nó có một lưỡi thép sáng loáng có thể cắt xuyên qua hai mươi tấm nhựa cứng một lúc. Có một robot đứng canh cái máy, và không một tù nhân nào được phép lại gần nó. Nhưng tôi để ý thấy có những lúc robot canh gác trông như đang ngủ. Có lẽ hắn là một robot già cỗi chỉ được giao phận sự đứng bên cạnh cỗ máy mà thôi.

Nếu trong lúc hắn ngủ, tôi đi tới chỗ cái máy và đưa tay vào đúng vị trí, lưỡi dao sẽ có thể cắt đứt bộ vòng tay này.

Nếu tôi sơ suất, nó sẽ cắt lìa hai bàn tay tôi. Hoặc là nó không đủ mạnh để cắt đứt kim loại, bộ vòng sẽ bị cuốn theo nó và lôi hai cánh tay tôi ra khỏi khớp vai.

Viễn cảnh đó thật đáng sợ. Tôi sẽ không nghĩ đến nó nữa.

NGÀY THỨ MỘT TRĂM TÁM MƯƠI

Những căn nguyên của sự tụt giảm dân số hé lộ một điều thú vị về dân số toàn cầu:

Sự sụt giảm dân số của hành tinh đã được giải thích theo một số cách đa dạng và mâu thuẫn bởi nhân khẩu học hiện đại. Những lí giải thuyết phục nhất trong số này thường nhắc đến một hoặc nhiều yếu tố sau:

1. Nỗi sợ quá tải dân số

2. Sự hoàn thiện của các kĩ thuật triệt sản

3. Sự biến mất của khái niệm gia đình

4. Mối quan tâm ngày càng phổ biến dành cho những trải nghiệm “nội tâm”

5. Sự mất hứng thú đối với trẻ con

6. Sự phổ biến của mong muốn né tránh các trách nhiệm

Sau đó cuốn sách đã phân tích từng điểm một.

Nhưng nó không hề nhắc tới một khả năng rằng sẽ đến lúc chẳng còn đứa trẻ nào được sinh ra. Và điều đó, theo tôi nghĩ, chính là thứ mà thế giới này đang trải qua. Tôi không nghĩ trẻ em còn tồn tại trên đời.

Sau khi tất cả chúng tôi chết đi, loài người sẽ diệt vong. Tôi không rõ chuyện đó là tốt hay xấu.

Nhưng tôi nghĩ sẽ thật hay ho, nếu tôi được làm cha của một đứa trẻ, với Mary Lou là mẹ nó. Và tôi muốn sống cùng cô, tôi muốn chúng tôi trở thành một gia đình, bất chấp những nguy cơ lớn đối với Tính Cá nhân của tôi.

Tính Cá nhân của tôi để mà làm gì? Và nó có thực sự thiêng liêng không, hay tôi chỉ được dạy điều đó bởi vì những robot dạy tôi đã được lập trình bởi một ai đó, vào một thời điểm nào đó, để nói như vậy?

NGÀY THỨ MỘT TRĂM TÁM MƯƠI TƯ

Toàn bộ các cây Protein 4 đã được thu hoạch xong. Khi chúng tôi ra đồng làm việc, có hai cỗ máy đồ sộ màu vàng đã ở sẵn ngoài đó. Chúng di chuyển một cách ồn ào dọc theo những luống cây như những gã khổng lồ, làm tung lên các đám bụi, và xúc từ hai mươi đến ba mươi cái cây chín rộ cho vào những cái phễu, nơi tôi đoán chúng sẽ được nghiền thành bột để tạo ra các thanh đậu nành và các mảnh protein tổng hợp.

Chúng tôi giữ khoảng cách với cánh đồng vì cái mùi khó ngửi thậm chí còn tệ hơn bình thường, im lặng quan sát máy móc làm việc một lúc.

Cuối cùng cũng có người lên tiếng. Đó là Belasco, ông ta nói với giọng buồn bã:

- Lại xong một mùa vụ nữa.

Không ai nói gì nữa. Một mùa vụ nữa. Tôi quan sát xung quanh và phía sau, lần đầu tiên sau nhiều tuần tôi nhìn kĩ mọi thứ. Cây cối trên những ngọn đồi bên ngoài các tòa nhà tù đều đã rụng hết lá. Hơi lạnh phả vào da thịt tôi. Tôi cảm thấy nhột nhạt, nghĩ đến cảm giác trên da gáy khi nhìn lên bầu trời xanh ngắt. Ở rìa những ngọn đồi, một đàn chim đang bay, chao liệng và quay đầu đồng loạt.

Khi đó tôi quyết định rằng mình phải thoát khỏi trại tù