Chương 8
Tôi không gặp khó khăn gì trong việc tìm buồng giam của Belasco. Từng thấy ông ta đi vào trong đó tìm Biff, tôi tìm thấy nó một cách dễ dàng. Tôi đẩy cửa bước vào. Belasco đang nằm trên giường, vuốt ve một con mèo vàng. Ti vi của ông không được bật. Ba con mèo khác đang cuộn mình ngủ trong một góc. Một bức tường được bao phủ bởi những tấm ảnh chụp phụ nữ khỏa thân, còn trên những bức tường khác là tranh vẽ cây cối, đồng ruộng và đại dương.
Có một chiếc ghế bành bọc vải màu xanh lá cây nhạt và một chiếc đèn sàn, cả hai đều được lén lút mang vào đây. Nếu Belasco biết đọc sách thì ông ta được trang bị tốt hơn tôi.
Tôi không ngồi xuống. Tôi đang rất căng thẳng. Belasco ngước nhìn tôi. Ông ta tỏ ra ngạc nhiên.
- Cậu đang làm gì bên ngoài phòng giam của mình vậy, Bentley? - Ông ta hỏi.
- Các cánh cửa lại bị quên đóng. - Tôi đáp, bỏ qua Phép Lịch sự Bắt buộc và nhìn thẳng vào ông ta. - Tôi muốn gặp anh.
Belasco ngồi dậy và nhẹ nhàng đặt con mèo xuống đất. Con vật vươn vai rồi nhập bọn cùng những con khác trong góc phòng.
- Trông cậu có vẻ lo lắng. - Belasco nói.
Tôi vẫn đang nhìn chằm chằm ông ta:
- Tôi sợ hãi thì đúng hơn. Tôi đã quyết định bỏ trốn.
Belasco nhìn tôi, hình như định nói điều gì đó, nhưng rồi đổi ý. Cuối cùng ông ta hỏi tôi:
- Bằng cách nào?
- Cái máy cắt trong xưởng giày đó. Tôi nghĩ nó có thể cắt đứt mấy cái này. - Tôi chìa bộ vòng tay ra.
Belasco lắc đầu, bật ra một tiếng huýt sáo khe khẽ:
- Chúa ơi! Nếu cậu sơ suất thì sao?
- Tôi phải rời khỏi nơi này. Anh có muốn đi cùng tôi hay không?
Belasco ngước lên nhìn tôi một lúc lâu. Sau đó ông đáp:
- Không.
Ông ngồi thẳng người hơn nữa trên giường.
- Được ở ngoài kia chẳng có ý nghĩa gì mấy đối với tôi. Không còn ý nghĩa nữa. Với lại tôi cũng không đủ can đảm để cho tay mình vào cái máy đó. - Belasco bắt đầu lục lọi trong túi áo để tìm một điếu cần. - Cậu có chắc mình sẽ thành công không?
Tôi thở hắt ra, nhưng không thở dài, rồi ngồi xuống chiếc ghế, mắt nhìn bộ vòng ở cổ tay. Giờ đây chúng đã lỏng hơn đôi chút so với lúc đầu. Tôi đã gầy đi và khỏe hơn nhờ làm việc ngoài đồng.
- Tôi không biết. - Tôi đáp. - Tôi không thể biết được nếu chưa thử.
Belasco châm điếu cần và gật gù.
- Nếu thoát ra ngoài được, cậu lấy gì mà ăn? Nơi này cách xa cuộc sống văn minh.
- Tôi có thể mò nghêu trên bờ biển. Và có lẽ những cánh đồng sẽ cho tôi thứ gì đó để ăn...
- Thôi nào, Bentley. Cậu không thể sống như thế được đâu. Nếu không tìm được con nghêu nào thì sao? Bây giờ đang là mùa Đông nữa. Tốt hơn cậu nên chờ đến mùa Xuân.
Tôi nhìn ông ta. Điều ông ta nói cũng có lí. Nhưng tôi cũng biết là mình không thể đợi đến mùa Xuân.
- Không. - Tôi đáp. - Tôi sẽ đi vào ngày mai.
Belasco lắc đầu.
- Thôi đành vậy.
Nói đoạn ông đứng dậy, cúi xuống, vén tấm vải giường lên rồi thò tay vào bên dưới. Trong đó có mấy hộp bánh qui và bánh mì, có cả thanh đậu nành, tất cả đều được bọc màng nhựa.
- Hãy lấy những gì cậu có thể mang theo.
- Tôi không muốn...
- Lấy đi. - Ông nói. - Tôi kiếm thêm được mà. Cậu sẽ cần một thứ gì đó để đựng chúng.
Sau khi ngẫm nghĩ một lúc, Belasco bước ra cửa và gọi to:
- Larsen! Sang đây!
Chỉ vài giây sau, một người thấp lùn mà tôi từng gặp ngoài đồng đi tới.
- Larsen! - Belasco nói với anh ta. - Tôi cần một chiếc ba lô.
Larsen nhìn ông ta trong giây lát:
- Cái đó mất nhiều công sức lắm. Phải khâu này. Rồi phải kiếm vải, kiếm ống làm khung...
- Cậu đã có một cái trong phòng cậu, cái mà cậu may từ một chiếc quần ấy. Tôi đã thấy nó hôm chúng ta chơi poker, khi tất cả robot đều bị trục trặc ấy.
- Khỉ gió! - Larsen nói. - Tôi không thể cho ông cái đó. Tôi cần nó cho cuộc đào thoát.
- Vớ vẩn! - Belasco đáp trả. - Cậu sẽ chẳng đi đâu cả. Ván poker đó cách đây đã ba bốn hoàng rồi. Với lại, cậu nghĩ mình sẽ tháo vòng tay bằng cách nào? Bằng răng à?
- Tôi có thể dùng một cái giũa.
- Vớ vẩn nốt! Chúng nó có thể ngu ngốc khi quản lí trại tù này, nhưng không ngu đến thế. Chẳng có dụng cụ nào đủ cứng để cắt được mấy cái vòng này, cậu thừa biết rồi.
- Vậy thì ông sẽ thoát ra bằng cách nào?
- Không phải tôi. Là anh Bentley đây. - Belasco đặt một bàn tay lên vai tôi. - Anh ta sẽ dùng cái máy cắt trong xưởng giày.
Larsen trố mắt nhìn tôi.
- Đó là một việc cực kì ngu xuẩn.
- Không phải việc của cậu, Larsen. Cậu có thể nhường cái ba lô cho Bentley được không?
Larsen ngẫm nghĩ trong giây lát rồi nói:
- Đổi lại tôi được nhận gì?
- Hai bức tranh trên tường kia. Bất kì bức nào.
Larsen nheo mắt nhìn Belasco.
- Và một con mèo nhé?
Belasco nhíu mày.
- Mẹ kiếp...Thôi được. Con đen vậy.
- Con vàng cơ. - Larsen nói.
Belasco mệt mỏi lắc đầu, rồi thở hắt ra.
- Đi lấy cái ba lô đi. - Ông nói.
Sau khi Larsen đi lấy ba lô, Belasco nhét đầy đồ ăn vào trong đó cho tôi, và chỉ tôi cách mang Biff theo trong đó nếu cần.
⚝ ✽ ⚝
Không uống mê dược, tôi mất ngủ cả đêm. Tôi không muốn chịu tác dụng phụ sau đó của thuốc khi đi đến xưởng giày vào buổi sáng. Tôi trăn trở với những suy nghĩ về kế hoạch của mình, sợ hãi không chỉ trước viễn cảnh bị thương nặng bởi lưỡi dao, mà cả chuyện phải đối mặt với điều kiện sống bấp bênh giữa mùa Đông, chẳng biết gì về những nơi tôi sẽ phải đi qua, cũng như không được trang bị gì ngoài một cuốn sách mỏng về những chuyến dã ngoại trên bờ biển. Chẳng có gì trong chương trình đào tạo ngu xuẩn của tôi giúp tôi chuẩn bị cho điều mình sắp làm.
Một giọng nói bên trong bảo tôi hãy đợi. Đợi đến mùa Xuân, đợi cho đến khi được người ta thông báo rằng tôi đã mãn hạn tù. Cuộc sống trong tù không tồi tệ hơn cuộc sống trong trường nội trú Người Nghĩ, và nếu tôi học được cách thích nghi như Belasco, tôi có thể tạo ra một cuộc sống dễ chịu cho mình. Thật ra ở đây gần như không có kỉ luật gì, và khi đã học được cách để tránh bị đám robot lính canh đánh đập, tôi chỉ cần để mắt đến chúng là đủ. Rõ ràng kể từ thời điểm hệ thống vòng đeo tay bằng kim loại được phát minh, việc cai quản nhà tù, như dự kiến, đã ngày càng trở nên cẩu thả. Cỏ và ma túy đầy rẫy, chưa kể tôi cũng đã quen với thức ăn lẫn công việc. Ngoài ra tôi còn có ti vi, và Biff, con mèo của tôi.
Nhưng cũng có một giọng nói khác. Một giọng nói uy nghiêm hơn bảo tôi: “Anh phải rời khỏi nơi này.” Và tôi nhận ra, với một chút kinh hãi, rằng đó là giọng nói mà tôi sẽ nghe theo.
Chương trình đào tạo cũ của tôi bảo “Nếu nghi ngờ, hãy quên nó đi”. Nhưng tôi gạt phắt, bởi vì đó là lời khuyên tồi . Nếu muốn tiếp tục sống một cuộc đời đáng sống, tôi phải ra khỏi đây.
Mỗi khi tôi hình dung ra lưỡi dao to tướng đó, hay những bãi biển lạnh lẽo và trống trải, tôi lại nghĩ đến cảnh Mary Lou ném hòn đá vào chuồng trăn. Nó đã giúp các đêm cô đơn trong buồng giam của tôi trở nên dễ chịu hơn.
Sáng ra, tôi khoác ba lô lên vai và đi ăn sáng. Tôi đeo nó khi ăn các mảnh protein tổng hợp và bánh mì nâu. Không có một con robot nào tỏ ra để ý đến trang phục của tôi.
Khi ăn xong, tôi nhìn lên và thấy Belasco đi tới chiếc bàn nhỏ nơi tôi đang ngồi. Chúng tôi không được phép nói chuyện trong bữa ăn, nhưng ông vẫn nói với tôi:
- Bentley, cậu hãy ăn cái này trên đường ra xưởng.
Belasco đưa cho tôi miếng bánh mì của mình, nó lớn hơn nhiều so với miếng tôi đã được nhận. Một lính canh quát to từ phía bên kia phòng:
- Vi phạm Quyền Riêng tư.
Nhưng tôi phớt lờ nó.
- Cảm ơn anh. Tôi nói, rồi chìa bàn tay ra, giống như người ta hay làm trong các bộ phim. - Tạm biệt, Belasco.
Ông hiểu cử chỉ đó và bắt tay tôi thật chặt, nhìn thẳng vào mắt tôi:
- Tạm biệt, Bentley. Tôi tin cậu đang làm điều đúng đắn.
Tôi gật đầu, bắt tay ông, rồi quay gót bỏ đi.
Khi tôi theo chân những người làm cùng ca đi qua ngưỡng cửa, lưỡi dao đã bắt đầu hoạt động. Tôi dừng lại, để cho những người khác vượt qua mình, và quan sát nó trong khoảng một phút. Nó trông thật đáng sợ. Chỉ nhìn thôi mà bụng tôi đã thắt lại và hai tay bắt đầu run lên.
Lưỡi dao dài cỡ một cái chân người lớn, và có bản rộng hơn một chút. Nó được làm bằng thép cứng, màu xám bạc, phần lưỡi cong sắc bén đến nỗi gần như không phát ra âm thanh khi mà nó, tựa như một chiếc máy chém, cắt qua hai mươi tấm nhựa nguyên liệu dày cộp. Những tấm nhựa này được một băng chuyền đưa đến máy cắt và được giữ đúng vị trí trên bàn cắt bằng một bộ cánh tay kim loại. Chúng giữ xấp vật liệu bên dưới, sau đó lưỡi dao rơi xuống từ độ cao khoảng một mét rưỡi, cắt ngọt qua cả xấp, rồi lại nâng lên. Tôi có thể thấy ánh thép sáng loáng của lưỡi dao khi nó ở điểm cao nhất, và nghĩ đến điều sẽ xảy ra nếu nó phạm vào cổ tay mình. Làm sao tôi biết cần đặt tay vào vị trí nào? Và ngay cả khi tôi thành công với một cánh tay, thì vẫn còn cánh tay kia. Chuyện này là không thể. Tôi đứng đó, cảm thấy cảnh tượng bao trùm lên mình như một làn sóng: Tôi sẽ chảy máu đến chết. Máu sẽ phun ra thành dòng từ cổ tay bị đứt lìa của tôi...
Tôi nói thật to:
- Thì sao nào? Tôi không còn gì để mất nữa.
Tôi lách qua những người đàn ông đang đứng vào vị trí của mình dọc theo dây chuyền lắp ráp và đi về phía chiếc máy. Robot duy nhất trong xưởng đang đứng trước máy, với đôi tay khoanh lại trên bộ ngực đồ sộ và đôi mắt vô hồn. Tôi đi ngang qua hắn. Hắn hướng mắt theo tôi, nhưng không có phản ứng nào khác, và hoàn toàn im lặng.
Lưỡi dao loang loáng hạ xuống với tốc độ kinh hoàng. Tôi đứng nguyên tại chỗ nhìn nó, người đờ ra. Lần này, tôi nghe được tiếng rít nhẹ do lưỡi cắt của nó tạo ra. Tôi đút hai tay vào túi để giữ cho chúng khỏi run.
Tôi nhìn xuống băng chuyền, nơi những bàn tay tự động đang đẩy các tấm vật liệu đã cắt vào một miệng phễu để được cắt tiếp sau đó. Tiếp theo, tôi nhìn thấy thứ khiến tim tôi càng đập nhanh hơn nữa: Trên bàn cắt, nơi tiếp xúc với lưỡi dao suốt bao nhiêu thời gian qua, có một đường rãnh rất mỏng. Nhờ vậy, tôi biết chính xác nơi lưỡi dao rơi xuống.
Sau đó tôi biết mình sẽ tiến hành như thế nào. Và không dừng lại để suy nghĩ, không cho phép mình nghĩ về điều đó để sợ hãi thêm, tôi bước tới trước.
Tôi chờ cho một xấp nhựa được cắt xong, và trước khi những bàn tay kim loại có thời gian đẩy nó ra khỏi bàn cắt, tôi nắm lấy vài tấm, cẩn thận giữ cho các cạnh vừa cắt của chúng thẳng hàng. Bàn tay kim loại gạt phần còn lại ra, và một xấp nhựa mới được đặt vào vị trí. Còn một chút thời gian trước khi lưỡi dao rơi xuống. Không cho phép mình ngẩng đầu lên hay nghĩ về lưỡi dao, tôi đẩy xấp nhựa xuống đất.
Ngay lập tức, trong góc mắt, tôi thấy robot cử động. Hắn duỗi tay. Tôi mặc kệ và kê các tấm nhựa đang nắm sao cho các cạnh mới cắt của chúng khớp chính xác với rãnh nhỏ trên bàn. Sau đó, tôi lấy ra đoạn dây thép tự chế từ trước, luồn nó qua chiếc vòng ở cổ tay trái và co tay lại thành nắm đấm. Khi đó tôi mới ngẩng đầu lên. Lưỡi dao treo lơ lửng phía trên đầu tôi, bất động. Nhìn từ chỗ tôi đứng, lưỡi cắt của nó mỏng như một sợi tóc, bên dưới bản kim loại dày và nặng.
Tôi cố gắng không run rẩy, và không nghĩ ngợi. Nhanh nhất có thể, tôi đặt nắm tay lên bàn cắt, cách cái rãnh khoảng hai centimet, và tì tay phải vào xấp nhựa mới cắt làm điểm tựa rồi dùng móc tự chế kéo chiếc vòng ra. Tôi cố gắng tạo ra một khoảng cách vài milimet giữa chiếc vòng đeo tay và phần da của cổ tay mình. Tôi đưa đầu ra phía sau, tránh xa lưỡi dao. Cơ thể tôi dường như đã hóa đá.
Ngay lúc đó người máy hét vào tai tôi:
- Vi phạm! Vi phạm!
Nhưng tôi không nhúc nhích.
Và lưỡi dao lướt qua mặt tôi, lao xuống như một thiên thần hủy diệt, một viên đạn. Tôi hét lên đau đớn.
Mắt tôi đã nhắm lại trước đó. Tôi bắt chúng mở ra. Không có máu! Và một mảnh của chiếc vòng bị đứt lìa nằm đó, trên băng chuyền, trước mắt tôi. Các cánh tay tự động nhanh chóng gạt nó vào thùng rác. Con robot vẫn đang la hét. Tôi chỉ nhìn nó và bảo:
- Biến đi, robot!
Nó trố mắt, không di chuyển, hai cánh tay buông thõng bên sườn.
Tôi nhìn xuống cổ tay trái của mình. Chiếc vòng sau khi bị cắt đứt đã quặp vào trong thịt. Dùng tay phải, tôi gỡ cho nó lỏng ra, phớt lờ con robot đang đứng nhìn, và co duỗi thử cổ tay trái. Tôi cảm thấy đau, nhưng không có gì bị gãy. Sau đó, tôi luồn một cạnh khuyết của chiếc vòng vào bên dưới mép của bàn cắt, tránh xa lưỡi dao, và nhờ cái móc tự chế, tôi banh cạnh kia ra, từ từ kéo giãn chiếc vòng cho đến khi có thể rút tay trái ra khỏi nó. Trong lúc tôi đang làm điều đó, lưỡi dao rơi phập xuống một lần nữa, cách tôi chừng một gang tay.
Tôi hít một hơi rồi luồn cái móc tự chế vào chiếc vòng bên tay phải.
Tôi đợi cho đến khi một xấp vật liệu khác xuất hiện và được cắt, để giữ lấy vài tấm như ban nãy. Khi tôi vươn tay phải ra và đặt lên bàn cắt, tôi cảm thấy có một bàn tay ghì chặt cánh tay mình với một sức mạnh ghê gớm. Đó là con robot.
Ngay lập tức, không buồn suy nghĩ, tôi cúi đầu húc mạnh vào ngực hắn, nới lỏng lực nắm của hắn và đẩy hắn lùi về phía băng chuyền. Robot gập người tới trước. Tôi lùi lại, co chân đạp vào bụng hắn. Dùng đôi ủng tù nhân nặng nề của mình, tôi đạp thật mạnh, với tất cả chỗ sức lực mà một mùa lao động trên cánh đồng trồng Protein 4 đã mang lại. Robot không phát ra âm thanh nào, nhưng ngã uỳnh xuống sàn. Ngay lập tức hắn cố gắng gượng dậy.
Tôi quay lưng lại với hắn và ngước mắt nhìn lên. Lưỡi dao vừa quay trở lại vị trí chờ trên cao của nó. Sau lưng tôi, tôi nghe thấy những giọng nói đàn ông xôn xao, và robot hét toáng lên:
- Vi phạm! Vi phạm!
Không nhìn đi chỗ khác, tôi giữ cố định cổ tay phải dưới lưỡi dao cắt, lùi đầu ra sau, cố gắng không nghĩ điều gì sẽ xảy ra nếu robot đến gần và giật cánh tay tôi ngay khi lưỡi dao bổ xuống.
Sự chờ đợi dường như kéo dài vô tận.
Và rồi chuyện đó xảy ra. Một tia sáng phản chiếu từ lưỡi thép cứng, kèm theo luồng gió đột ngột. Và cơn đau. Ngay trước khi tôi hét lên một lần nữa, tôi nghe thấy một âm thanh giống như tiếng cành cây gãy.
Tôi mở mắt và nhìn xuống. Chiếc vòng tay đã bị cắt, nhưng bàn tay tôi bị bẻ quặt lại một cách kì dị và tôi hiểu ngay chuyện gì đã xảy ra. Cổ tay của tôi đã bị gãy.
Tuy nhiên, khi nhận ra điều đó, tôi không thấy đau đớn nữa. Tai tôi ù đi, và tôi vẫn nhớ cảm giác đau khi bị va chạm. Nhưng bây giờ cơn đau đã trôi qua. Đầu óc tôi lại minh mẫn như đã từng.
Rồi tôi nghĩ đến con robot và nhìn sang nơi tôi đã tấn công hắn.
Hắn vẫn đang nằm trên sàn. Larsen và ông già hói đang ngồi trên người hắn, còn Belasco thì giẫm lên tay hắn, một tay cầm chiếc cờ lê, tay kia bế con mèo Biff của tôi.
Tôi trố mắt nhìn.
- Đây này. - Belasco nói, miệng cười toe toét. - Cậu quên con mèo của mình.
Nhờ cái móc, tôi gỡ chiếc vòng gãy ra và bỏ nó vào túi. Sau đó tôi tiến đến bên cạnh Belasco và đỡ lấy Biff.
- Cậu có biết làm túi treo tay không? - Belasco nói.
Sau khi tôi đỡ lấy Biff, ông bắt đầu cởi áo sơ mi, chuyển cờ lê từ tay nọ sang tay kia và không rời mắt khỏi con robot lúc này đã bất động.
- Túi treo tay á? - Tôi hỏi lại.
- Chờ đó.
Belasco đã cởi xong chiếc áo sơ mi ra và bắt đầu xé nó ra làm đôi. Tiếp đó ông buộc phần ống tay vào đuôi áo bằng một nút thắt rồi tròng nó qua cổ tôi, ngay phía trên quai ba lô, trước khi chỉ cho tôi cách luồn cánh tay phải vào phần vải rộng của chiếc áo.
- Sau khi đi được một đoạn tương đối xa, hãy nhúng cổ tay của mình vào nước biển. Thỉnh thoảng lặp lại chuyện đó. - Ông nắm chặt vai tôi. - Cậu là một tên khốn can đảm.
- Cảm ơn anh! - Tôi nói. - Cảm ơn anh nhiều lắm.
- Chuồn mau đi, Bentley. - Belasco nói.
Và tôi làm theo lời ông.
⚝ ✽ ⚝
Sau khi tôi bỏ chạy và đi bộ nhiều dặm về phía Bắc, với đại dương nằm bên phải mình, cơn đau bắt đầu trở nên dữ dội nơi cổ tay khiến tôi phải dừng lại và thả Biff xuống. Con mèo quắp chặt lấy tôi, cào cào mấy cái và kêu toáng lên, rốt cuộc cũng bình tĩnh lại. Khi tôi nằm xuống bên cạnh mép nước, ngửa mặt lên trời, với lồng ngực phập phồng đau đớn vì phải chạy bộ và những chuyện khác, tôi để cổ tay đau nằm trên cát, chìm trong làn nước biển mùa Đông lạnh lẽo. Một con sóng nhỏ chồm lên, vỗ vào sườn tôi. Biff bắt đầu càu nhàu bằng những tiếng kêu meo meo. Tôi không nói, cũng chẳng làm gì, chỉ nằm đó trong lúc thủy triều tiến đến gần hơn vỗ làn nước lạnh giá vào da thịt, khiến tôi phải nhỏm dậy để tránh ra xa. Tôi vẫn còn đau, dù nước lạnh giúp xoa dịu một phần. Và tôi vẫn còn chưa hết sợ hãi vì hành trình phía trước. Nhưng bất chấp điều đó, trong tim tôi rộn lên niềm vui. Tôi là một người tự do.
Lần đầu tiên trong cả cuộc đời mình, tôi là một người tự do.
Tiến đến sát mép nước, dùng tay trái tôi vốc một chút nước đưa lên miệng uống. Cổ họng tôi thắt lại khi tiếp xúc với nước biển, tôi ho sặc sụa và nhổ ra. Tôi không biết nước biển không uống được. Chưa từng có ai cảnh báo tôi.
Có gì đó trong lòng tôi đột nhiên buông xuôi. Tôi ngã vật xuống cát, nằm đó trong sự đau đớn và cơn khát cháy cổ, bật khóc. Chuyện này thật quá sức. Tất cả chuyện này thật quá sức chịu đựng của tôi.
Tôi nằm trên cát ướt trong khi gió lạnh ập vào người, toàn bộ cánh tay phải của tôi nhức nhối, cổ họng thì rát buốt vì nước biển, không biết phải tìm nước uống ở đâu. Tôi thậm chí không biết phải bắt đầu từ đâu để tìm nước, phải làm thế nào để tìm nghêu hay bất cứ thức ăn nào khác, sau khi chỗ lương thực dự trữ trong ba lô đã hết.
Bỗng tôi bật dậy. Tôi có thứ để uống mà. Belasco đã cho tôi ba lon nước protein.
Tôi tháo ba lô ra, mở cái nút Larsen khâu cẩn thận trên nắp, tìm thấy một lon nước. Tôi cẩn thận khui nó, uống vài ngụm, chia cho Biff một chút, rồi dùng khăn tay nút cái lỗ lại. Tôi thấy khá hơn một chút. Tôi đã có đủ thức uống cho vài ngày, nhưng vẫn phải đi tìm nước. Tôi đứng dậy và bắt đầu đi bộ lên phía Bắc, với con Biff lẽo đẽo bên cạnh, lúc dẫn trước, lúc tụt lại sau. Bãi cát cho phép tôi bước đi dễ dàng và tôi đi khá nhanh, cánh tay lành lặn vung vẩy đều đặn bên sườn.
Ít lâu sau, mặt trời ló ra khỏi màn mây. Lũ chim choắt xuất hiện trên bãi cát và những con mòng biển bắt đầu bay lượn trên đầu. Mùi biển thanh khiết ngập tràn không khí. Cánh tay tôi không được thoải mái cho lắm trong cái túi treo tay tự chế, và mặc dù nó đau khủng khiếp mỗi khi tôi cho phép mình nghĩ đến, tôi biết mình có thể chịu đựng được. Tôi từng cảm thấy tồi tệ hơn nhiều trong những ngày đầu ở tù, thế mà vẫn sống sót được và trở nên mạnh mẽ hơn. Tôi sẽ vượt qua được chuyện này.
Tối đến, tôi chọn chỗ ngủ trên cát cạnh một khúc cây bị chôn vùi một nửa, nơi cỏ bắt đầu mọc. Tôi nhóm một đống lửa với vài que củi nhặt được và chiếc bật lửa của nhà tù, bắt chước theo cách mà tôi đã thấy Belasco làm vào cái lần tưởng như cách nay đã lâu lắm rồi. Tôi ngồi bên đống lửa, tựa người vào khúc cây và ôm Biff trong lòng, dưới bầu trời đang sẩm tối và những ngôi sao dần xuất hiện, rất sáng, trên đầu chúng tôi. Sau đó tôi mặc nguyên bộ quần áo tù nằm xuống cát, đắp chiếc áo khoác lên người, và ngủ thiếp đi.
Tôi choàng tỉnh khi bình minh ló dạng. Đống lửa đã tắt. Người tôi lạnh cóng trong khi cổ tay phải nhức nhối dữ dội. Cổ tay còn lại cũng đau và cứng tại nơi chiếc vòng từng quặp vào. Nhưng tôi đã được nghỉ ngơi nhờ giấc ngủ dài bất chấp cơn đau trong cơ thể. Và tôi không lo lắng.
Biff cuộn mình rúc vào tôi. Nó cũng vừa thức giấc theo tôi.
Tôi đã tìm được nghêu cho bữa sáng! Tôi không có cái cào như hình mô tả trong sách, nhưng tôi dùng một cái que dài và dò tìm những bọt khí trong cát ướt, nơi lũ nghêu ló lên. Tôi bắt hụt bảy, tám lần rồi mới học được cách ra tay đủ nhanh để hất một con nghêu lên khỏi mặt cát trước khi nó kịp rúc xuống sâu hơn. Tôi bắt được bốn con - toàn những con to.
Thoạt đầu việc mở chúng dường như là điều không thể. Tôi lấy cuốn sách Nấu nướng trên bờ biển: Cùng mở tiệc nào! ra khỏi túi và đọc hướng dẫn, nhưng cũng không ích gì. Họ sử dụng một con dao đặc biệt để “lôi anh bạn nhỏ ra khỏi chỗ nấp”, theo cách dùng từ của cuốn sách. Nhưng tôi làm gì có dao! Trong tù không có dao. Thế rồi tôi nghĩ tới một thứ. Tôi đã bỏ hai mảnh của cái vòng tay vào trong túi trước khi trốn thoát. Tôi thò tay vào lôi ra mảnh to hơn. Dưới ánh mắt hờ hững của Biff, tôi dùng cạnh nhọn được cắt bởi lưỡi dao thép cạy mở thành công con nghêu đầu tiên. Việc đó khá mất thời gian và tôi suýt cắt vào tay mấy lần, nhưng tôi đã làm được.
Tôi ăn sống con nghêu. Trước đây tôi chưa từng nếm thử thứ gì giống như vậy. Nó khá ngon lành. Nó vừa là thức ăn, cũng vừa là thức uống, vì trong vỏ nghêu có chút chất lỏng uống được.
Ngày hôm đó tôi đi nhiều dặm lên phía Bắc, vẫn còn một chút cảnh giác trước khả năng bị truy đuổi. Nhưng tôi chẳng nhìn thấy hay nghe thấy dấu hiệu bị theo dõi. Tôi cũng không thấy dấu vết của người dân. Thời tiết khá lạnh, vào buổi chiều còn có ít tuyết rơi, nhưng nhờ bộ quần áo tù đủ ấm áp, tôi không bị thời tiết làm phiền quá mức. Tôi tìm được thêm nhiều con nghêu khác cho bữa trưa và ăn chúng cùng với một nửa thanh đậu nành, rồi uống một chút nước protein. Biff thích ứng dễ dàng với việc ăn nghêu. Nó ngoạm và lôi phần thịt nghêu ra khỏi mảnh vỏ một cách nhiệt tình. Chẳng mấy chốc tôi đã trở nên thành thục chuyện bắt và mở nghêu.
Thỉnh thoảng tôi đi sâu vào trong đất liền tìm một khu vực cao và quan sát xung quanh xem có nguồn nước nào không - một cái hồ, một dòng sông, hoặc một kênh dẫn nước - nhưng không tìm thấy gì. Tôi biết rồi sẽ phải cần nhiều thứ hơn những con nghêu và nước protein.
Bao nhiêu ngày cứ thế trôi qua, tôi đã không còn đếm nổi nữa. Cổ tay tôi đỡ dần, và một đêm nọ, bên đống lửa, tôi đã làm một thử nghiệm thành công, nhờ đó tôi cảm thấy vững tin hơn về tương lai. Một tảng băng tuyết khá lớn tình cờ bị kẹt lại trong một mỏm đá cách bãi biển không xa. Trong ba lô còn giữ cái bát sắt của nhà tù tôi đã đem theo để nấu nướng. Tôi cầm nó tới chỗ tảng băng, và nhờ mảnh vòng gãy, tôi cạy được một chút băng cho vào trong bát. Sau đó tôi nhóm đống lửa nhỏ, để cho nó cháy hết trước khi đặt cái bát vào lớp than hồng. Khi băng tan, tôi nhận ra mình có thể uống nó! Tôi uống rồi chừa một chút cho Biff. Tôi thêm củi, khơi lửa lên, cho thêm băng vào cái bát, và đi đào vài con nghêu trong lúc chờ đợi. Sau đó tôi cho nghêu vào nước sôi, và vài phút sau tôi đã có món xúp nghêu ngon lành.
Tôi đã sống sót như thế trong một tháng, cố gắng tìm những nơi trú ẩn tốt nhất có thể để ngủ và dè sẻn chỗ lương thực được Belasco đưa cho. Nhưng cuối cùng chúng cũng hết, và tôi chỉ ăn nghêu trong nhiều ngày tôi không biết chính xác là bao nhiêu, vì lúc đó tôi không ghi nhật kí - cho đến khi tôi phát hiện trên bãi biển có một con cá đông cứng và nấu nó lên. Nó cho phép tôi thay đổi chế độ ăn uống của mình, nhưng sau hai ngày tôi đã ăn hết con cá.
Biff tự bắt được vài con chim nhỏ, và tôi giải cứu thành công được một con chim, nhưng sau chuyện đó con mèo lẻn ra xa bờ biển để đi săn. Nếu biến nó thành một dạng mèo săn thì hay quá, nhưng tôi không biết phải làm điều đó như thế nào.
Tôi cũng biết dưới biển có đầy cá, các loài giáp xác và đủ thứ để ăn, nhưng tôi không rõ làm thế nào để lấy lên. Cuốn sách nấu ăn cũng nhắc đến các loại quả, củ và khoai tây, nhưng tôi chẳng thấy chúng ở đâu cả. Tôi tiếp tục những chuyến đi sâu vào đất liền tìm nước và tìm những cánh đồng giống như của trại giam, nhưng chỉ thấy bãi đất hoang đầy cây chết lẫn cỏ dại. Tôi có cảm giác đất ở đó chưa hề được trồng trọt, cũng không có dấu hiệu nào của cuộc sống. Tôi tự hỏi liệu Biến cố Denver có làm cho đất đai bị “ngộp” hay không, như mấy cuốn sách lịch sử có nhắc đến, vào thời đểm đó, hoặc là trong những cuộc chiến tranh nổ ra sau thời điểm văn chương bị khai tử, khiến chúng không được ghi lại trong sách. Khi văn chương chết đi, lịch sử cũng chết theo.
Cuối cùng tôi đã trải qua hơn hai mươi ngày chẳng có gì khác để ăn ngoài nghêu, và đôi khi phải mất rất nhiều công sức để tìm được chúng. Buổi sáng tôi thức giấc với vị sắt trong miệng và cơn co thắt trong dạ dày, rồi tôi nhận ra mình cứ đi bộ được một quãng ngắn là đã phải nằm xuống cát nghỉ mệt. Da tôi trở nên khô và ngứa. Tôi biết mình cần những thứ khác trong chế độ ăn uống, nhưng chẳng tìm được gì. Tôi cố tình bắt mấy con mòng biển đang ngủ hoặc nghỉ chân, nhưng chưa bao giờ đến gần chúng được. Có lần, trên một đồng cỏ nâu cháy, tôi bắt gặp một con rắn và đuổi theo, nhưng nó trườn quá nhanh so với tốc độ mà đôi chân mệt mỏi của tôi cho phép. Tôi kiệt sức ngã xuống đất, con rắn lẽ ra đã là một bát xúp thịt ngon lành. Thỉnh thoảng tôi cũng thấy mấy con thỏ, nhưng chúng quá nhanh nhẹn so với tôi.
Tôi bắt đầu bị bệnh. Cổ tay tôi đã lành, mặc dù hơi bị vẹo và cứng, đau nhói khi tôi bế Biff lên bằng tay phải, nhưng bây giờ đầu tôi bắt đầu đau dữ dội, và tôi khát kinh khủng. Tôi phải thường xuyên dừng lại để làm tan băng lấy nước, và thỉnh thoảng tôi bị nôn. Một đêm nọ, tôi nôn hết bữa ăn tối và quá yếu để có thể nấu thêm bất cứ thứ gì. Tôi chìm vào giấc ngủ trong tư thế sấp mặt, bên đống lửa tàn, không nghĩ đến việc che chắn mình trước thời tiết giá lạnh.
Khi tỉnh dậy, tôi run lẩy bẩy và đầu ướt đẫm mồ hôi. Tôi bị bao phủ bởi một lớp tuyết mỏng, và tuyết vẫn đang rơi xuống người tôi. Bầu trời xám xịt, lớp cát xung quanh tôi đã đóng băng. Tất cả các khớp của tôi đều đau nhức.
Tôi cố gắng đứng dậy, loạng choạng suýt ngã. Sau đó, tôi chỉ đủ sức ngồi trên bãi biển và nhìn xung quanh để tìm củi nhóm lửa. Nhưng quanh đó không có gì cả, tôi đã nhặt tất cả gỗ củi trong khu vực vào đêm hôm trước. Tôi cần phải nhóm lửa.
Biff dụi mình vào hông tôi và rên khe khẽ.
Ở trường nội trú hoặc trong nhà tù, một robot sẽ đưa cho tôi một viên Med và tôi sẽ ổn. Nhưng giờ tôi không có viên thuốc nào bên mình.
Chắc tôi đã ngồi đó hơn một giờ, chờ đợi trời sáng và ấm lên. Nhưng điều đó mãi không xảy ra. Bầu trời vẫn rất tối, một cơn gió lạnh bắt đầu thổi tuyết vào mặt, làm mắt tôi cay xè.
Tôi biết nếu cứ tiếp tục ngồi đó hoặc nằm xuống, tôi sẽ càng tệ hơn. Tôi liên tục nghĩ về hai câu trong bài thơ của T. S. Eliot:
Đời tôi nhẹ tựa lông hồng
Đợi chờ cơn gió tử thần mang đi
Cuối cùng tôi đọc to hai câu thơ đó lên, cùng với tiếng gió, lớn hết sức có thể. Tôi biết nếu không đứng dậy thì tôi có thể chết, chút thịt còm này sẽ bị lũ mòng biển rỉa sạch, bộ xương của tôi sẽ bị gió cuốn và sóng đánh lăn lông lốc trên bãi cát. Tôi không muốn điều đó xảy ra.
Buột miệng rên khe khẽ, tôi gắng gượng đứng dậy, và khuỵu xuống.
- Lên nào!
Tôi nói to, đứng dậy trở lại. Tôi lảo đảo, đầu ngật ngưỡng, quá yếu để có thể giữ cho nó thẳng. Cơn đau và cảm giác chóng mặt quá mạnh. Nhưng rồi tôi ngẩng đầu lên và bắt đầu bước đi. Mấy lần tôi sa chân xuống nước và phải loạng choạng bước lên bờ.
Cuối cùng tôi cũng tìm được một chút củi và nhóm lửa thành công dù đang run lập cập. Tôi chừa lại một thanh gỗ dài để làm gậy chống.
Giờ đây ba lô của tôi chẳng có gì ngoài cái bát. Tôi cố gắng tháo miếng vải jean ra khỏi khung ba lô, cởi áo khoác và áo nỉ, rồi, run cầm cập vì lạnh, tôi cài khuy miếng vải quanh ngực, gần giống như một chiếc áo nịt. Sau đó, tôi nhanh chóng mặc áo nỉ và áo khoác vào, và sau khi sưởi ấm cơ thể bên đống lửa, tôi cảm thấy được phòng bị tốt hơn đôi chút. Một chiếc khăn quàng cổ và một chiếc mũ sẽ rất hữu ích, nhưng bây giờ tôi đã có một bộ râu để giữ ấm mặt và cổ một cách tương đối. Tôi có thể giết Biff, ăn thịt nó và dùng bộ lông của nó để làm mũ; nhưng tôi không muốn giết Biff. Tôi không giống với con người đã được quá trình đào tạo định hình. Tôi không còn ao ước được một mình, riêng tư, hay thậm chí tự lực. Tôi cần Biff. Tự lực không chỉ là chuyện của ma túy và sự im lặng.
Tôi xoay sở buộc cái bát vào khung ba lô bằng một đoạn dây rồi quàng nó qua vai, cầm lấy cây gậy tự chế, và dù vẫn còn ngầy ngật sốt, tôi đã khỏe hơn đôi chút. Tôi tiếp tục đi bộ về phía Bắc, dọc theo vùng bờ biển hoang vắng.
Tuyết tiếp tục rơi và tôi cảm thấy mỗi lúc một lạnh hơn. Tôi dừng lại hai lần để thử nhóm lửa nhưng không được, vì những que củi có thể tìm thấy đều bị ướt, và gió cứ thổi tắt ngọn lửa của chiếc hộp quẹt nhỏ. Khi khát nước, tôi đành ngậm những nhúm tuyết. Bãi biển đóng băng quá cứng khiến tôi không thể đào nghêu. Tôi cứ đi tiếp một cách chậm chạp, cố không lo lắng.
Đến chiều muộn, sau khi đi vòng qua một khúc quanh của bờ biển, tôi thấy phía trước có một tòa nhà cổ to lớn nằm trên mỏm đá thấp, với cửa sổ sáng đèn. Tuyết đang rơi nhiều hơn. Hi vọng tìm được nơi trú ẩn và hơi ấm tiếp thêm sức mạnh cho tôi, và tôi vội vàng tiến tới, nửa lê bước nửa chạy. Nhưng khi đến được chân mỏm đá, tim tôi chùng xuống. Không có bậc thang nào dẫn lên tòa nhà, chỉ có một đống đá chất lỏng lẻo xung quanh làm bức tường chắn sóng.
Tôi đứng một lúc không biết phải làm gì, cho đến khi nhận ra mình nhất định phải leo lên đó. Tôi không thể mạo hiểm ngủ trên bãi biển và để rồi mệt đến không thể ngồi dậy được khi thức giấc.
Tôi trèo lên một tảng đá, nghỉ mệt, chậm chạp rướn người trèo lên tảng đá tiếp theo. Biff hình như nghĩ rằng tôi đang chơi, nó di chuyển dễ dàng từ tảng đá này sang tảng đá khác, hết lên rồi lại xuống, trong khi cổ tay phải của tôi nhức nhối, cổ họng khô khốc đòi được uống nước, còn chân cẳng thì xây xát vì bề mặt đá lởm chởm. Chắc là rất đau, nhưng tôi cố không nghĩ đến sự đau đớn đó. Tôi cứ cố gắng hết sức mình để leo lên lên những tảng đá đó, vì tôi biết bãi biển ngập tuyết sẽ có thể là nấm mồ của mình.
Cuối cùng cũng trèo lên tới trên đỉnh mỏm đá, tôi nằm vật ra thở hổn hển, trong khi con Biff rúc vào người. Tôi vỗ nhẹ đầu con vật. Lòng bàn tay tôi bị xước đến chảy máu, ống tay áo rách một đường dài. Nhưng tôi không sao.
Do đã bỏ lại cây gậy chống bên dưới vì không thể trèo lên cùng với nó, tôi chật vật lê lết đến cửa tòa nhà. Ơn trời, nó không khóa. Tôi đẩy cửa và ngã vào vùng ánh sáng ấm áp.
Tôi ngồi trên sàn nhà một lúc lâu, lưng dựa vào cánh cửa ra vào, mặt vùi vào hai bàn tay. Tôi cảm thấy váng vất và không khỏe, nhưng ấm áp.
Khi cơn chóng mặt qua đi, tôi đưa mắt nhìn xung quanh. Tôi đang ở trong một gian phòng sáng trưng rộng rãi, trần nhà cao vút. Trước mặt và hai bên tôi đều có những cỗ máy đồ sộ màu xám, cùng một băng chuyền lớn và các robot đang quay lưng về phía tôi, lúi húi thao tác với máy móc. Có rất ít tiếng ồn ở đây.
Khỏe khoắn hơn đôi chút nhờ được sưởi ấm, tôi bắt đầu đi tìm nước trong phòng. Tôi gần như lập tức tìm thấy. Có một cỗ máy giống như máy khoan với phần mũi được làm mát bằng một tia nước nhỏ từ đầu phun. Nước sau đó chảy xuống cái máng đặt phía trước băng chuyền, rồi đổ vào cái cống dưới sàn.
Con robot đứng bên cạnh máy khoan chẳng làm gì cả, nó mặc kệ tôi và tôi cũng mặc kệ nó. Tôi quì bên cạnh băng chuyền, giơ tay ra phía trên miệng cống, đón lấy dòng nước và uống ngon lành. Nước âm ấm và hơi có mùi dầu, nhưng uống được.
Sau khi đã uống đủ, tôi dùng thứ nước đó để rửa tay và rửa mặt trong lúc Biff nhảy nhót quanh các vũng nước bên cạnh miệng cống. Chất dầu trong nước dường như giúp làm dịu bớt những chỗ trầy xước trên da tôi.
Tôi đứng dậy, cảm thấy khá hơn nhiều, và bắt đầu quan sát xung quanh kĩ hơn.
Thật ra có ba băng chuyền, mỗi cái chạy dọc theo một bức tường của gian phòng. Di chuyển với tốc độ đều đặn trên các băng chuyền này là những cái lò nướng bánh mì bằng thép sáng bóng. Tôi từng trông thấy những cái lò như thế hồi còn bé khi làm công việc dọn dẹp trong bếp của trường nội trú, nhưng từ sau khi rời trường thì không.
Trong quá trình di chuyển trên băng chuyền, các lò nướng được hoàn thiện dần bởi các cỗ máy. Chúng tuần tự lắp một bộ phận nào đó và hàn nó vào cái lò nướng đang đi ngang qua. Mỗi cỗ máy được trông nom bởi một robot Lớp Hai đứng bên cạnh và theo dõi quá trình hoạt động. Thép tấm được trải ra từ một cái cuộn khổng lồ ở đầu dây chuyền, còn đầu cuối dây chuyền là những cái lò nướng bánh mì hoàn chỉnh. Chúng được tạo ra với nhịp độ rất nhanh trong gian phòng rộng lớn và sáng rực này. Kim loại được dập thành hình bằng một cỗ máy lớn, gần như không gây tiếng ồn, trong khi những bộ phận rời được chế tạo rồi ghép vào khung lò. Trong khi đứng đó, cơ thể đã ấm lên nhưng vẫn còn khá đói, tôi tự hỏi điều gì xảy ra với những chiếc lò nướng bánh sau đó, và tại sao tôi không thấy một cái nào trong hơn ba mươi năm qua. Mỗi khi muốn nướng bánh mì, tôi luôn phải cắm một chiếc nĩa vào lát bánh mì để giữ nó trên ngọn lửa. Và tôi đoán tất cả mọi người đều làm như vậy.
Thế rồi khi đi tới cuối dây chuyền sản xuất, tôi nhận ra điều gì đang xảy ra. Một robot Lớp Ba trong bộ đồng phục màu xám nhạt đứng ở đó. Không giống như những robot khác, động tác của anh ta khá khéo léo. Anh ta kiểm tra từng cái lò nướng bánh mì hoàn chỉnh đi ngang qua mình, bật công tắc ở bên hông, ngay chỗ phía bên trên cục pin hạt nhân nhỏ, và khi không có gì xảy ra - không có bộ phận đốt nóng nào đỏ lên - anh ta bỏ cái lò vào một cái thùng lớn có bánh xe.
Giống như những robot khác, anh ta hoàn toàn phớt lờ sự hiện diện của tôi. Tôi đứng đó, vẫn còn chưa hết ngạc nhiên vì hơi ấm ngự trị trong phòng, nhìn anh ta một lúc lâu. Anh ta nhấc lên từng cái lò nướng bánh mì được dây chuyền sản xuất tự động chuyển đến, bật công tắc, nhìn vào bên trong, thấy nó không hoạt động, và bỏ nó vào thùng chứa bên cạnh.
Robot này có khuôn mặt tròn và đôi mắt hơi lồi. Anh ta trông hơi giống Peter Lorre, ngoại trừ óc thông minh. Thùng chứa chẳng bao lâu đã đầy ắp những cái lò nướng bánh mì mới tinh, và khi thấy như vậy, anh ta hô to bằng một chất giọng trầm trầm, máy móc:
- Tái chế!
Sau đó anh ta thò tay xuống dưới băng chuyền và gạt một cái cần.
Dây chuyền sản xuất dừng lại. Tất cả các robot đứng nghiêm trong bộ đồng phục xám. Những robot mà tôi nhìn thấy được đều có khuôn mặt giống Peter Lorre.
Cái thùng đầy những lò nướng bị loại bỏ bắt đầu lăn bánh trên sàn nhà, khiến tôi phải vội vàng tránh đường. Nó di chuyển một cách thông minh tới cuối gian phòng, nơi khởi đầu của dây chuyền sản xuất, và dừng lại trước một cái cửa nhỏ. Cánh cửa mở ra, một robot xuất hiện và bắt đầu lấy các lò nướng ra khỏi thùng, vụng về bê chúng trên đôi tay của mình. Anh ta đưa chúng vào trong một căn phòng nhỏ ở phía bên kia cánh cửa, và tôi có thể trông thấy anh ta bỏ nó vào miệng phễu cấp liệu của một cỗ máy giống như thứ tôi từng nhìn thấy tại trại giam. Đó là một cỗ máy dùng để tái chế sắt vụn thành thép nguyên liệu. Những cái lò nướng mới tinh sẽ được nấu chảy và cán thành thép tấm trở lại.
Nhà máy là một hệ thống khép kín. Chẳng có gì đi vào, và cũng chẳng có gì đi ra. Có lẽ nó đã chế tạo rồi tái chế lò nướng bị lỗi suốt hàng thế kỉ, theo suy đoán của tôi. Nếu có một trạm sửa chữa robot ở gần đây, đám robot siêu đần độn này sẽ có thể tồn tại gần như mãi mãi. Và không cần nguyên liệu mới.
Tôi trải qua phần còn lại của đêm tại đó, ngồi dựa vào tường và cố chợp mắt càng nhiều càng tốt. Khi tôi mở mắt vào sáng hôm sau, ánh nắng đã ùa vào qua các khung cửa sổ và đèn điện tự động giảm sáng. Những cái lò nướng bánh mì vẫn tiếp tục di chuyển dọc theo dây chuyền sản xuất trong nắng sớm, và các robot vẫn đứng ở đúng vị trí của mình tối hôm trước. Người tôi tê cứng, cơn đói làm bụng tôi cồn cào.
Mừng rỡ khi lại được ấm áp, tôi đã quyết định ở lại nhà máy này trong những ngày Đông còn lại, nếu tìm được thức ăn. Hóa ra có thức ăn ở đây thật. Các robot đều thuộc thế hệ cũ, gần giống như những gì được mô tả trong Cẩm nang bảo trì và sửa chữa robot của Audel . Họ được nhân bản vô tính chọn lọc từ mô sống, do vậy cần phải có thức ăn. Không lâu sau khi tôi thức giấc, dây chuyền lắp ráp tự động ngừng chạy, và tất cả các robot tập hợp lại như một đàn cừu bên cạnh một cánh cửa cạnh phòng tái chế. Robot kiểm lỗi đưa tay mở cửa. Đó là một tủ tường với ba ngăn kệ, hai trong số đó chất đầy những hộp giấy nhỏ, chỉ lớn hơn gói thuốc lá một chút. Ngăn còn lại chất đầy các lon đồ uống.
Đói gần chết, tôi vội lách người vào phòng cùng với các robot, và được trao cho một hộp thức ăn, cùng một lon nước uống.
Đồ ăn là một thanh đậu nành nhạt thếch vô vị, còn món nước thì ngọt khủng khiếp, nhưng tôi vẫn ăn uống ngấu nghiến. Khi ăn xong, với một chút e sợ, tôi bước đến mở tủ rồi lấy mười hộp thức ăn và bốn lon nước. Không ai trong số các robot để ý đến tôi. Thật nhẹ cả người: Tôi sẽ không chết đói.
Sau đó tôi phát hiện một chồng các thùng giấy chưa sử dụng nằm bên dưới băng chuyền cuối phòng. Tôi lấy bốn thùng, trải phẳng nó ra trên sàn tại chỗ tôi nằm ngủ đêm qua, tạo thành một chiếc giường tương đối thoải mái - dễ chịu hơn nhiều so với lớp cát đóng băng trên bờ biển.
Vậy là tôi đã thu xếp xong cho mình “căn nhà mùa Đông”, như cách tôi luôn gọi nó. Nhưng ngay từ đầu, tôi đã không coi điều đó là nghiêm túc, bởi dù tôi đang bị bệnh, nhà máy này không phải là nhà của tôi. Đó là nơi kinh khủng nhất mà tôi từng ngủ, với một sự giễu cợt năng suất lao động ngu ngốc liên tục diễn ra quanh mình, cùng sự lãng phí ghê gớm thời gian và năng lượng trong việc chế tạo rồi tái chế các lò nướng bánh mì chạy pin. Những con robot siêu đần độn trong bộ đồng phục màu xám lặng lẽ đi loanh quanh mà không có bất kì công việc thực sự nào, giống như một sự giễu nhại con người. Trong năm ngày tôi ở đây, tôi không thấy bất kì robot nào làm việc, ngoại trừ robot kiểm lỗi. Nhưng anh ta cũng chỉ thực hiện việc bỏ lò nướng bánh mì vào thùng rác rồi hét lên “tái chế” mỗi giờ một lần, và phân phát cho các robot khác hai phần ăn mỗi ngày.
Tuyết ngừng rơi sau hai ngày, thời tiết ấm lên vào ngày hôm sau. Tôi nhét vào ba lô một lượng đồ ăn thức uống mình có thể vác được, trước khi bỏ đi. Nhà máy là một nơi ấm áp, an toàn và có nhiều đồ ăn thức uống. Nhưng đó không phải là một ngôi nhà dành cho tôi.
Sau khi chất đầy ba lô với năm mươi thanh đậu nành và ba mươi lăm lon nước, tôi đã sẵn sàng để lên đường. Tôi xem xét kĩ lưỡng các cỗ máy khác nhau nằm dọc theo dây chuyền sản xuất, nghiên cứu chức năng của từng cái. Tất cả đều được làm bằng kim loại màu xám và khá to lớn, nhưng mỗi cái lại hoạt động khác nhau. Cái thì chuyên dập các tấm kim loại để tạo thành lớp vỏ của lò nướng bánh mì, cái thì lắp bộ phận đốt nóng, cái lại chuyên lắp pin... Các robot đứng trước những cỗ máy này và hình như chỉ trông chừng chúng mà không chú ý đến tôi.
Cuối cùng tôi đã tìm thấy thứ mình đang tìm kiếm. Đó là một cỗ máy hơi nhỏ hơn những cái khác, được trang bị một phễu cấp liệu chứa hàng trăm phoi kim loại nhỏ. Thông thường, các phoi kim loại này sẽ được thả xuống qua miệng phễu hẹp, rồi được các ngón tay kim loại quắp lấy và đặt vào trong lò nướng đang đi ngang qua, nhưng một phoi đã bị mắc kẹt, khiến những cái khác không thể đi xuống. Tôi đứng đó một lúc, quan sát và nghĩ đến tất cả chỗ năng lượng bị lãng phí do một chi tiết nhỏ xíu này gây ra. Tôi còn nhớ sau khi lò nướng bánh mì ở trường nội trú bị hỏng, chúng tôi không bao giờ được ăn bánh mì nướng nữa.
Tôi đưa tay lắc cái phễu cấp liệu cho đến khi phoi kim loại rơi xuống.
Một bàn tay kim loại chộp lấy nó và đặt vào cái lò nướng bánh mì đang đi tới, ngay bên dưới công tắc, sau đó một chùm tia laser mỏng lóe lên trong tích tắc để hàn nó cố định.
Một lúc sau, ở cuối dây chuyền, robot kiểm lỗi bật công tắc của chính cái lò nướng bánh mì đó, và bộ phận đốt nóng của nó ngay lập tức đỏ rực. Anh ta không hề tỏ ra ngạc nhiên mà chỉ bằng lòng với việc tắt công tắc, đặt lò nướng bánh mì vào một thùng giấy, và lặp lại cử chỉ tương tự với lò nướng tiếp theo.
Tôi nhìn anh ta chất đầy một thùng giấy với hai mươi lò nướng đã sẵn sàng để được chuyển đi. Tôi không biết chúng sẽ được vận chuyển như thế nào, cũng như đích đến của chúng, nhưng tôi cảm thấy vui với chuyện mình vừa làm.
Tôi khoác ba lô, bế con Biff, và lên đường.