← Quay lại trang sách

Chương 12

NGÀY MỘT THÁNG MƯỜI

Tôi đang trên đường tới New York và đọc những dòng này vào một chiếc máy ghi âm cũ của Sears.

Tôi có một cuốn lịch, cũng lấy từ Sears, và quyết định gọi hôm nay là ngày một tháng Mười, đánh số ngày tháng giống như trong các cuốn sách tôi đọc. Tháng Mười là một tháng quan trọng trong mùa tàn của năm. Tôi chỉ trả nó về đúng vị trí.

⚝ ✽ ⚝

Tôi mất ngủ vào cái đêm hoàn tất việc ghi lại quãng thời gian sống ở Maugre. Ngay sau khi tôi quyết định rằng mình sẽ không thuật lại việc đã sửa chữa và trang bị nội thất cho ngôi nhà gỗ đỏ cổ kính bên biển như thế nào, và rằng tôi đã viết mọi thứ quan trọng cần viết, tôi cảm thấy phấn khích. Tôi có thể tự do ra đi bất cứ khi nào tôi muốn.

Đêm đó, tôi lang thang trên những con phố hoang vắng, um tùm cây cối của Maugre, rồi đi tới cột đá, chui xuống tầng hầm nơi có thư viện, nhà để xe buýt giao cảm, và nhà kho chất đầy quan tài. Tôi còn nhớ mình chỉ tìm thấy xe buýt địa phương trong nhà để xe, và một trong những người nhà Baleen có nói với tôi rằng không chiếc nào trong số chúng hoạt động, thậm chí là mở cửa còn không được. Nhưng tôi vẫn đi tới đi lui qua những dãy xe dài tăm tối.

Và tôi có một phát hiện. Gần một bức tường, có năm chiếc xe buýt giống hệt như những chiếc khác, ngoại trừ phần đầu xe có đề hai từ LIÊN TỈNH. Tôi nhìn chúng hồi lâu, ngỡ ngàng. Nếu là một người nhà Baleen chắc tôi tin rằng Chúa đã giữ lại chúng cho tới tận ngày tôi quyết chí ra đi. Làm thế nào trước đây tôi lại bỏ sót chúng kia chứ?

Nhưng khi tôi đứng bên cạnh từng chiếc và ra lệnh cho cửa xe mở ra, cả trong đầu lẫn bằng tiếng nói, không có gì xảy ra cả. Tôi cố gắng dùng ngón tay để cạy các cánh cửa, nhưng chúng rất chặt, không thể lay chuyển được. Tôi đá vào một chiếc xe trong cơn tuyệt vọng.

Sau đó, vừa tức giận vừa thất vọng, tôi bỗng nảy ra một ý. Tôi nhớ tới cuốn Cẩm nang sửa chữa và bảo trì robot của Audel .

Đó là một cuốn sách nhỏ, không to hơn một thanh đậu nành lớn là bao. Ở phía cuối sách có ba mươi trang giấy trắng với hai chữ “Ghi chú” ở đầu mỗi trang. Tôi đã dùng những trang đó ở nhà tù để chép lại một số bài thơ mà tôi thích nhất. Hầu hết trong số chúng là từ cuốn sách của T. S. Eliot, bản thân nó cũng không quá dày, nhưng không đủ mỏng để mang theo một cách thuận tiện trong chuyến đi dài.

Tôi chưa bao giờ đọc toàn bộ Cẩm nang , vì nó đầy tính kĩ thuật và buồn tẻ, hơn nữa tôi không có ý định bảo trì hoặc sửa chữa robot, nhưng ngay ở đó, trong nhà để xe buýt giao cảm, tôi sực nhớ mình đã đọc một chương ở cuối sách có tiêu đề Các robot không thân mới: Xe buýt giao cảm , với vài trang viết và sơ đồ.

Tôi nhanh chóng quay về nhà mình. Cuốn sách đang nằm trên bàn, cạnh chiếc giường đôi rộng rãi của tôi, nơi tôi đã bỏ lại nó sau khi đọc Thứ Tư lễ Tro , một bài thơ buồn đầy chất tôn giáo đã giúp tôi tống khứ những cảm xúc xấu xí về đức tin của người nhà Baleen.

Tôi tìm đoạn viết về xe buýt giao cảm trong sách. Nó nằm ngay ở vị trí mà tôi đã nhớ. Và tít của đoạn này đúng là thứ tôi đang muốn: Bất hoạt xe buýt giao cảm . Tuy vậy, khi bắt đầu đọc, lòng tôi chùng hẳn xuống.

Đoạn văn đó như sau:

“ Xe buýt giao cảm được kích hoạt và bất hoạt bằng một mã máy tính mà, theo Sắc lệnh của ban giám đốc, không thể được in ở đây. Bất hoạt là một sự cần thiết để kiểm soát sự di chuyển trong các nội thành khi cần. Mạch điện bất hoạt nằm ở “não trước” của Đơn vị tìm đường thông minh, nằm giữa hai đèn pha (xem sơ đồ). ”

Tôi nghiên cứu sơ đồ não trước của xe buýt giao cảm trong vô vọng. Bộ phận mang tên Mạch điện bất hoạt là một khối cứng nằm trên đỉnh của thứ có hình thù giống như bộ não. Thật ra có những hai bộ não: Một là Đơn vị tìm đường để điều khiển xe buýt và hướng dẫn điểm đến cho nó; một là Đơn vị giao tiếp , cũng có một khối cứng nằm trên đỉnh, giống như mạch điện bất hoạt của bộ não kia. Nó được chú thích là Bộ ức chế truyền phát , và không có giải thích nào khác.

Tôi đang xem lại sơ đồ và đoạn văn kèm theo một cách ngán ngẩm thì một ý nghĩ chợt lóe lên. Tôi có thể gỡ bỏ cái khối cứng đó và mạch điện bất hoạt cùng với nó!

Đó là một ý tưởng khác thường, đi ngược lại điều tôi đã được dạy: “Không được cố ý thay đổi hoặc phá hoại tài sản thông minh của chính quyền”! Ngay cả Mary Lou, người chẳng quan tâm tới các luật lệ, cũng chưa bao giờ phá máy bán bánh mì ở vườn thú. Tuy thế, cô đã ném hòn đá vào chuồng trăn và lôi con trăn robot ra ngoài. Và chẳng có chuyện gì xảy ra. Cô đã bảo robot bảo vệ biến đi, nó vâng lệnh. Chưa kể ở quanh Maugre chẳng có con robot nào khiến tôi phải sợ.

Sợ ư? Tôi không hề sợ bất cứ điều gì, thật đấy. Chỉ có cái liêm sỉ cũ kĩ gần như đã bị lãng quên của tôi là run sợ trước ý tưởng mang búa và đục đến gần bộ não của một chiếc xe buýt giao cảm. Đó là hệ quả của quá trình giáo dục điên rồ mà tôi đã trải qua, một lối giáo dục được cho là giúp giải phóng tâm trí để tối ưu hóa sự “phát triển”, “tự nhận thức” và “tự lực”, nhưng thực ra chỉ là một trò lừa đảo và dối trá. Sự giáo dục đó đã biến tôi, cũng như mọi thành viên khác của Lớp Tư duy, trở thành một kẻ ngu ngốc thiếu sáng tạo, vị kỉ, nghiện ngập. Cho tới trước khi tôi học đọc, tôi đã sống giữa một thế giới điêu tàn đầy những thằng ngu tự cho mình là trung tâm, lệ thuộc ma túy, dưới sự áp đặt của những qui định về Quyền Riêng tư, trong mơ ước điên rồ về sự tự hoàn thiện.

Ngồi đó với cuốn Cẩm nang Audel trong lòng, chuẩn bị sẵn sàng để tấn công bộ não của một chiếc xe buýt bằng búa, tâm trí tôi vào cái thời điểm ngớ ngẩn ấy bỗng quay cuồng nhận ra rằng tất cả những quan niệm về liêm sỉ của tôi đều là thứ được cài đặt vào đầu óc và hành vi bởi máy tính và đám robot mà bản thân chúng cũng được lập trình bởi một số “kĩ sư xã hội”, những tên bạo chúa hoặc ngu ngốc đã chết từ lâu. Lúc ấy tôi có thể hình dung ra bọn họ, những người mà vào một thời điểm xa xôi trong quá khứ đã từng quyết định mục đích sống của con người trên trái đất rồi lập ra các trường Nội trú, Ban Kiểm soát Dân số và qui định về Quyền Riêng tư, cũng như hàng tá các Sắc lệnh, các Lỗi vi phạm và Định chế cứng nhắc, duy ngã mà phần còn lại của nhân loại phải tuân thủ cho đến khi tất cả chúng ta chết hết, nhường lại thế giới cho đám chó, mèo, chim chóc. Họ cho rằng mình là những con người đứng đắn, nghiêm túc, chỉn chu, với những từ như “nhân đạo” hoặc “từ bi” luôn thường trực trên môi. Bề ngoài của họ có lẽ cũng giống như William Boyd và Richard Dix, với tóc mai bạc trắng, tay áo xắn cao, tẩu thuốc trên miệng, và gửi văn bản cho nhau trên các bàn làm việc chất đầy sách vở tài liệu, hoạch định thế giới lí tưởng cho loài Homo sapiens : Một thế giới không nghèo đói, không bệnh tật, không chia rẽ, không loạn thần kinh, không đau đớn, một thế giới khác xa với thế giới trong các bộ phim của D.W. Griffith, Buster Keaton và Gloria Swanson - nơi những não nề, đam mê, rủi ro và căng thẳng ngự trị - một thế giới có thể được tạo nên nhờ tất cả sức mạnh của công nghệ và “lòng trắc ẩn” mà họ có được.

Quả là kì lạ. Tôi không thể ngăn tâm trí mình nghĩ về tất cả chuyện ấy trừ phi xuống giường, cầm theo cuốn Cẩm nang Audel và ra khỏi nhà. Tim tôi đập thình thịch, và tôi sẵn sàng phá tan những bộ não tinh vi đó nếu cần.

Bên ngoài trời, mặt trăng đã xuất hiện. Một chiếc đĩa tròn đầy màu trắng bạc. Tôi thấy một mạng nhện lớn ở mái hiên sau, chắc nó đã được giăng trong lúc tôi ngồi trong nhà với tâm trí rối bời: Con nhện đang hoàn thiện vòng tơ ngoài cùng. Ánh trăng chiếu vào những sợi tơ mảnh của tấm mạng lớn khiến chúng trông như được dệt bằng ánh sáng. Nó thật ấn tượng, vừa cân đối vừa bí ẩn, khiến tôi phải dừng lại để quan sát sự kì công và sức sống mạnh mẽ đã tạo ra một thiết kế như thế.

Con nhện hoàn tất công việc của mình trước sự chứng kiến của tôi, và thận trọng bò tới trung tâm của tấm mạng, vào vị trí rình đợi. Tôi quan sát thêm một lát trước khi đi tới cột đá, cũng đang sáng lên dưới ánh trăng.

Cuốn Cẩm nang đã cho tôi biết cần phải lấy những gì, và tôi tìm một hộp đồ nghề ở Sears, chất vào đó những chiếc cờ lê, tua vít, đục, búa. Tôi đã tương đối thành thục với các dụng cụ sau quá trình sửa nhà, tuy vẫn còn một chút lóng ngóng. Người bình thường hiếm khi làm những chuyện này, các dụng cụ thường chỉ được sử dụng bởi đám robot ngu ngốc.

Tôi nghĩ mình đã làm hỏng chiếc xe buýt liên tỉnh đầu tiên khi vụng về tìm cách tháo bỏ phần nắp che đầu xe. Phát cáu vì độ khó của thao tác, tôi dùng búa đập nó mấy nhát, khiến một số sợi dây và bộ phận bên trong bong khỏi vị trí. Dù sao tôi cũng chẳng đi đến đâu với nó, nên cuối cùng tôi chuyển sang chiếc xe khác. Lần này thì tôi mở được nó một cách suôn sẻ, nhưng khi tôi bắt đầu tấn công cái khối cứng nằm ở phần não trước bằng búa và đục, bộ não bỗng nứt toác.

Tôi chuyển sang chiếc xe buýt thứ ba và đục bỏ cái khối cứng trên bộ não của nó một cách từ tốn. Tôi đã nắm được nguyên tắc của chuyện đó và, dù đã thất bại hai lần, toàn bộ các khái niệm liêm sỉ và thận trọng cài cắm trong đầu tôi đều đã biến mất. Tôi thích thú tận hưởng sự mạo phạm này: Mở toang những chiếc xe buýt giao cảm và phá hỏng chúng. Sự bực bội đã lắng xuống, tôi vừa quyết tâm vừa bất chấp, và thích cảm giác này.

Thế rồi tôi chợt nhận ra mình đã đục nhầm cái khối cứng của Đơn vị giao tiếp. Ngay khi nhận ra mình đã làm hỏng chiếc xe buýt thứ ba, tôi bỗng nghe thấy tiếng nhạc vang lên! Đó là một giai điệu tươi sáng vui tai, và tôi ngạc nhiên lắng nghe nó trong giây lát, trước khi dần dần nhận ra nó đang vang lên trong đầu mình. Đó là âm nhạc thần giao cách cảm. Trước đây tôi đã từng trải qua điều tương tự khi nghiên cứu về Phát triển Tư duy thời còn sinh viên, nhưng đó là trong một lớp học. Còn tại đây, giữa bãi đậu xe buýt khổng lồ, đó là một điều phi thường mà thoạt đầu tôi không thể giải thích. Sau đó tôi nhận ra âm nhạc được truyền phát tới mình từ bộ phận ngoại cảm của Đơn vị giao tiếp. Hẳn là tôi đã phá mất mạch điện ức chế nó, khiến nó bắt đầu truyền phát.

Tôi thử ra lệnh trong đầu: Vặn nhạc nhỏ lại, làm ơn đi . Và nó hiệu nghiệm! Tiếng nhạc nhỏ đi thấy rõ.

Đó là một sự khích lệ lớn. Nếu tôi có thể phá được bộ phận đó của chiếc xe và cho phép nó vận hành đúng như công năng ban đầu, tôi sẽ có thể làm điều tương tự với nửa kia của bộ não.

Tôi đục một cách nhẹ nhàng nhưng tự tin, và khối cứng của bộ não còn lại rơi ra sau nhát búa thứ sáu. Nó đã bị đục bỏ một cách gọn ghẽ. Tôi đậy tấm che đầu xe và nhanh chóng cất dụng cụ vào hộp, sau đó với giọng căng thẳng đầy phấn khích, tôi ra lệnh cho cánh cửa:

- Mở ra!

Và nó mở ra thật.

Tôi bước lên xe, ngồi vào hàng ghế đầu tiên và đặt hộp dụng cụ xuống bên cạnh. Sau đó, tôi tập trung suy nghĩ và ra lệnh trong đầu: Đưa tôi rời khỏi Trung tâm Thương mại và tiến ra phía trước cột đá. Tôi hình dung mặt tiền của đài tưởng niệm trong đầu cho chắc ăn.

Chiếc xe buýt lập tức đóng cửa lại và bắt đầu lăn bánh. Nó lùi ra khỏi hàng xe, vào số, rồi tiến nhanh về phía cuối gian phòng rộng như một nhà kho. Căn cứ theo ánh sáng phản chiếu trên tường, tôi đoán đèn xe đã được bật.

Chiếc xe dừng lại trước bức tường và hụ còi. Cánh cửa đôi lớn mở ra. Xe di chuyển vào bên trong thang máy và cánh cửa đóng lại. Tôi có thể cảm thấy mình đang đi lên.

Chúng tôi rời khỏi đài tưởng niệm bằng cửa hậu, chạy vòng ra phía trước, rồi dừng lại. Tiếng nhạc ngưng bặt. Phía bên ngoài, mọi thứ vẫn tối và yên tĩnh dưới ánh trăng.

Tôi yêu cầu chiếc xe buýt chở mình về nhà, sau đó bắt đầu gói ghém đồ đạc. Tôi đem lên xe khoảng năm mươi cuốn sách, chiếc máy hát, vài đĩa nhạc, và với một chút khó khăn, tôi khuân theo cả chiếc máy phát điện nhỏ cùng hai can xăng. Máy phát điện rất cần thiết để chạy máy quay đĩa vì nó không dùng pin hạt nhân.

Tôi cũng đem theo hai thùng whisky, hai cái đèn dầu, và vài hộp thức ăn đã chiếu xạ cho Biff. Tôi mang ra xe một ít quần áo, nhưng đột nhiên nảy ra ý định lấy hẳn một lô quần áo mới từ Trung tâm thương mại. Sẽ thật hay ho nếu được lên đường cùng với những bộ trang phục mới mẻ.

Bầu trời sáng hơn một chút khi tôi lệnh cho chiếc xe rời nhà, và mặt trăng bắt đầu nhạt đi. Tôi dừng lại trước tấm mạng nhện một lần nữa khi cùng Biff ra khỏi nhà lần cuối, lúc này nó không quá ấn tượng khi nhìn vào nữa. Nó trông có vẻ thực tế và nguy hiểm hơn trong ánh sáng nhợt nhạt từ trên trời chiếu xuống. Tôi chúc may mắn cho con nhện, vì theo như tôi thấy, nó sẽ tiếp quản nơi tôi đã sống.

Tại khu bán thực phẩm của Sears, tôi lấy những hộp đậu và bột yến mạch, thịt lợn xông khói sấy khô, bắp, những túi bột bánh pudding và nước ngọt trộn sẵn. Sau đó, tôi đến một cửa hàng mà tôi chưa từng vào và nhận ra quần áo trong đó đẹp hơn nhiều so với ở Sears. Tôi lấy một chiếc áo khoác vải Synlon màu xanh nước biển, một chiếc áo len cổ lọ màu đen cùng một số áo sơ mi được may từ loại vải tên là “Cotton” mà tôi chưa từng thấy trước đây.

Bất giác tôi bắt đầu lấy các thứ cho Mary Lou, dù tôi không có căn cứ nào để tin rằng mình sẽ tìm thấy cô hoặc tránh để Spofforth bắt giữ một lần nữa nếu tôi làm như vậy. Nhưng nghĩ lại, tôi nhận ra mình không còn sợ Spofforth nữa. Tôi cũng không sợ tù tội, xấu hổ hay vi phạm sự riêng tư của bất kì ai.

Giờ đây, trong khi chiếc xe lăn bánh trên những con đường cao tốc cổ xưa đầy ổ gà, với đại dương ở bên phải và những cánh đồng trống trải bên trái, dưới ánh nắng mùa Xuân rực rỡ, tôi cảm thấy thật tự do và mạnh mẽ. Nếu không phải là người đọc sách, tôi không thể cảm nhận được như vậy. Bất luận chuyện gì có thể xảy ra với mình, tôi cảm ơn Chúa vì tôi đã có thể đọc được, đã thực sự chạm được vào tâm trí của những người khác.

Tôi ước mình có thể viết ra những dòng này thay vì đọc vào máy ghi âm, bởi chỉ có viết lách, cùng với đọc sách, mới cho tôi sự cảm nhận bản thân mạnh mẽ như thế này.

Tôi đã lấy hai bộ váy mới cho Mary Lou, ước chừng kích cỡ một cách chính xác nhất có thể. Lúc này chúng đang được treo trên hai cái móc áo ở cuối xe, cùng với một áo choàng, một áo khoác và một hộp kẹo. Biff nằm ở đó trong phần lớn thời gian. Nó cuộn mình trên ghế, đầu ngửa ra sau, mấy cái chân dang ra trong ánh nắng chiếu xuyên qua cửa sổ. Tôi bắt đầu cảm thấy buồn ngủ sau khi ghi âm một cách cẩn thận tất cả những chuyện này. Tôi phải dọn chỗ cho tấm nệm và đánh một giấc thôi.

NGÀY HAI THÁNG MƯỜI

Có bốn cặp ghế đôi trên xe buýt. Đêm qua sau khi ghi âm xong, tôi lấy đồ nghề tháo hai chiếc ghế ở phía biển để có chỗ trải nệm. Tôi bảo xe buýt dừng lại và vứt mấy cái ghế ra ngoài.

Chỗ nằm của tôi khá thoải mái, nhưng tôi ngủ không được ngon. Tôi thức giấc vài lần trong đêm và nằm đó, lắng nghe tiếng bánh xe lăn trên đường, ước gì mình có thể ngủ được. Sau khi tỉnh giấc đến lần thứ ba hay thứ tư gì đó, tôi bắt đầu nhận ra bụng tôi đang thắt lại một cách khó chịu, còn tâm trí tôi, thay vì thư giãn, lại chứa đầy những nỗi tuyệt vọng quen thuộc nhưng không thể gọi tên. Trong bóng tối, giữa âm thanh rào rạo của những chiếc lốp xe, nó dần trở nên rõ ràng với tôi: Tôi đang cô đơn. Tôi cô đơn đến quay quắt, nhưng đã không nhận ra được điều đó.

Tôi ngồi dậy trên nệm. Chúa ơi! Nó mới đơn giản làm sao. Tôi bắt đầu bực bội. Có khác biệt gì không nếu như tôi có Quyền Riêng tư, Tự lực và Tự do mà lại cảm thấy như thế này? Tôi đang khao khát, và tôi đã như thế được vài năm rồi. Tôi không hạnh phúc - gần như chưa bao giờ hạnh phúc.

Chuyện này thật khủng khiếp! Tôi nghĩ bụng. Tất cả sự dối trá này! Tôi phát bệnh khi nhận ra tất cả: Nhìn lại bản thân ngáo ngơ khi còn là một đứa trẻ trước màn hình ti vi, nhìn lại bản thân trong các lớp học với các giáo viên robot dạy rằng “phát triển hướng nội” là mục tiêu của cuộc đời, rằng “tình dục chớp nhoáng là tốt nhất”, rằng thực tế duy nhất là nhận thức của tôi và nó có thể bị thay đổi nhờ hóa chất. Những gì tôi đã muốn, những gì tôi đã khao khát vào lúc đó, là yêu, và được yêu. Nhưng bọn họ thậm chí đã không dạy tôi chữ đó.

Tôi muốn yêu thương ông già hấp hối trên giường với con chó nằm dưới chân. Tôi muốn yêu thương và đem thức ăn cho con ngựa có đôi tai ló lên khỏi chiếc mũ sờn cũ. Tôi muốn ngồi cùng những người đàn ông đó vào buổi tối với cốc bia trên tay, chiếc áo lót trên người, trong một quán rượu cũ, tôi muốn ngửi mùi bia và mùi cơ thể quyện vào nhau trong căn phòng yên tĩnh đầy người ấy. Tôi muốn nghe thấy tiếng thì thầm của họ và giọng nói của chính tôi hòa cùng họ khi màn đêm buông xuống. Tôi muốn cảm nhận sự hiện diện của cơ thể mình trong không khí của căn phòng đó, với nốt ruồi trên cổ tay trái, lớp cơ mỏng ở bụng và hàm răng chắc khỏe trong miệng.

Và tôi muốn làm tình. Tôi muốn lên giường với Mary Lou. Không phải với Annabel, người chỉ giống với người mẹ mà tôi chưa từng có, mà là với Mary Lou. Mary Lou, người yêu đáng lo ngại của tôi, tình nhân của tôi.

Trên chiếc xe buýt, tôi quằn quại với những thứ đó - tình yêu, nhục dục và hồi ức về Mary Lou. Tôi quằn quại với khao khát có được nàng, nhận thức rằng nàng là người tôi muốn, là điều tôi muốn suốt bấy lâu nay. Tôi muốn hét lên. Và tôi hét lên thành lời:

- Mary Lou. Anh muốn có em!

Một giọng nói nam giới nhỏ nhẹ vang lên trong đầu tôi đáp lại:

- Tôi biết. Tôi hi vọng anh sẽ tìm được cô ấy.

Tôi sững người ngồi trên mép nệm một lúc. Đó không phải là tiếng nói nội tâm của tôi. Nó ở trong đầu tôi, nhưng dường như đến từ một nơi khác. Cuối cùng tôi hỏi lại:

- Ai đấy?

- Tôi hi vọng anh sẽ tìm được cô ấy. - Giọng nói đáp. - Tôi đã biết ngay từ đầu anh muốn tìm cô ấy nhiều tới mức nào.

Chúa ơi! Tôi nghĩ bụng. Hình như tôi biết giọng nói này đến từ đâu.

- Nhưng cậu là ai? - Tôi hỏi.

- Tôi là chiếc xe buýt này. Tôi là Trí tuệ sắt thép, với Cảm xúc tử tế.

- Và cậu đọc được những ý nghĩ trong đầu tôi?

- Vâng. Nhưng không quá sâu. Chuyện đó có thể làm phiền anh đôi chút.

- Phải. - Tôi đáp. Giọng nói của tôi nghe thật lạ lẫm.

- Nhưng cũng không quá tệ. Không tệ bằng sự cô đơn.

Nó đang đọc tâm trí của tôi. Tôi cố gắng suy nghĩ đáp lại nó trong đầu. Cậu có bao giờ cô đơn không?

- Tôi không phiền nếu anh nói thành tiếng đâu. Và không, tôi chưa bao giờ cô đơn như cách mà con người các anh cảm thấy. Tôi luôn được tiếp cận ở đâu đó. Chúng tôi là một mạng lưới, và tôi là một phần của nó. Chúng tôi không giống anh. Chỉ có một robot Lớp Chín mới giống anh, và cô độc. Tôi có đầu óc của một Lớp Bốn, nhưng có khả năng liên lạc bằng ngoại cảm.

Giọng nói trong đầu khiến tôi dịu lại.

- Cậu có thể bật đèn... bật một chút đèn được không? - Tôi hỏi.

Một bóng đèn trên đầu tôi bắt đầu sáng lên dìu dịu. Tôi nhìn xuống những cái móng tay bẩn thỉu của mình. Rồi tôi xắn tay áo lên. Không hiểu sao tôi thấy thích thú khi quan sát hai cánh tay mình, nhìn những sợi lông mảnh, sáng màu trên làn da hồng hào.

- Cậu có thông minh bằng con Biff không? - Tôi hỏi lại.

- Chắc chắn rồi. - Giọng nói đáp. - Biff khá ngu ngốc về nhiều mặt. Chỉ có điều nó rất thật, nó là một con mèo thật, và điều đó làm cho nó có vẻ thông minh trong mắt anh. Tôi có thể đọc toàn bộ tâm trí của nó trong nháy mắt, trong đó chẳng có gì nhiều nhặn để mà đọc. Nó đang mãn nguyện. Nó không muốn làm gì khác hơn ngoài làm một con mèo.

- Thế còn tôi?

- Trong phần lớn thời gian, anh cảm thấy buồn bã và cô đơn. Hoặc khao khát.

- Phải. - Tôi rầu rĩ đáp. - Tôi buồn. Tôi khao khát nhiều lắm.

- Giờ thì anh đã nhận ra điều đó. - Giọng nói đáp.

Đúng là như vậy thật. Và tôi bắt đầu cảm thấy thư thái khi nói ra điều đó. Tôi nhìn qua cửa sổ, tìm kiếm dấu hiệu của bình minh, nhưng chưa có gì xuất hiện cả. Bỗng trong đầu tôi nảy ra một ý nghĩ. Cuộc đối thoại lạ lùng nhưng rất dễ dàng tiếp tục diễn ra.

- Chúa có tồn tại không? - Tôi hỏi. - Ý tôi là, cậu có được liên lạc bằng ngoại cảm, với một kiểu Thượng Đế nào đó hay không?

- Không, tôi không hề tiếp xúc với bất cứ thứ gì như thế. Theo như tôi được biết thì trên đời này không có Thượng Đế.

- Ồ.

- Chuyện đó chẳng làm anh bận tâm. - Giọng nói tiếp tục. - Anh có thể nghĩ là có, nhưng thật ra là không. Anh thực sự chỉ có một mình. Anh đã học được điều đó.

- Nhưng chương trình học của tôi...

- Anh đã đánh mất nó rồi. - Giọng nói đáp. - Giờ nó chỉ còn là một thói quen. Nhưng các thói quen không còn làm nên con người anh nữa.

- Vậy thì tôi là cái gì? - Tôi thốt lên. - Trời ạ, tôi là cái gì?

Giọng nói mất vài giây để trả lời:

- Là chính anh. - Nó đáp một cách vui vẻ. - Anh là một con người giống đực trưởng thành. Anh đang yêu. Anh muốn được hạnh phúc. Lúc này anh đang cố tìm kiếm người mình yêu.

- Phải. - Tôi thừa nhận. - Tôi cũng nghĩ vậy.

- Đúng vậy, và anh biết điều đó. - Giọng nói đáp. - Xin được chúc anh may mắn.

- Cảm ơn cậu. - Tôi nói. - Cậu có thể giúp tôi ngủ lại được không?

- Không. Nhưng anh đâu thực sự cần được giúp đỡ. Anh sẽ ngủ khi đủ mệt mỏi. Và nếu anh không ngủ thì mặt trời sắp mọc rồi đó.

- Cậu có thể trông thấy chuyện đó hay sao? - Tôi hỏi lại. - Cậu trông thấy mặt trời mọc hay sao?

- Không hoàn toàn như vậy. Tôi chỉ có thể nhìn thẳng vào con đường. Cảm ơn vì anh đã muốn tôi nhìn thấy mặt trời mọc.

- Cậu có phiền không, khi không thể nhìn vào những thứ mình muốn?

- Tôi nhìn những gì mình muốn đấy chứ. - Chiếc xe đáp. - Và tôi thích thú với công việc mình làm. Tôi được chế tạo như vậy. Tôi không cần phải quyết định xem như thế nào mới là tốt cho mình.

- Vì sao cậu lại... dễ tính như vậy?

- Tất cả chúng tôi đều như vậy. Mọi chiếc xe buýt giao cảm đều dễ chịu. Chúng tôi được lập trình với những Cảm xúc Tử tế, và chúng tôi thích công việc của mình.

Nó còn tốt hơn cả thứ mà con người nhận được , tôi nghĩ bụng với một chút bực dọc.

- Phải. - Chiếc xe đáp. - Đúng là như thế.

NGÀY BA THÁNG MƯỜI

Sau khi trò chuyện với chiếc xe buýt, tôi bình tĩnh lại và cảm thấy mệt mỏi. Tôi dễ dàng ngủ thiếp đi trên tấm nệm nhỏ. Trời vẫn còn tối khi tôi thức giấc.

- Sắp sáng chưa vậy? - Tôi nói thành tiếng.

- Rồi. - Chiếc xe đáp. - Sắp rồi.

Một bóng đèn mờ trên trần bật lên.

Biff đã ngủ trên nệm với tôi và cũng thức dậy theo. Tôi đưa cho nó một nắm thức ăn khô trước khi bắt tay vào chuẩn bị một lon súp protein và pho mát cho bữa sáng. Nhưng rồi tôi nghĩ đến mấy cái cây Protein 4 và rùng mình: Tôi không muốn ăn bất kì loại thực phẩm nào giống như thế nữa. Tôi bảo xe buýt hạ kính cửa sổ xuống và ném cái lon ra ngoài. Sau đó, tôi tráng một quả trứng và pha một tách cà phê, rồi ngồi trên mép giường và ăn một cách từ tốn, mắt nhìn về phía những ô cửa sổ tối om của chiếc xe buýt đang di chuyển, chờ đợi ánh sáng ban ngày.

Trong khi tất cả những chuyện đó diễn ra, chiếc xe hẳn đã lăn bánh trên những viên nhựa Permo lát đường, vì nó chạy rất êm. Có những đoạn mặt đường bị xuống cấp dài hàng dặm. Hôm qua chuyện đó đã xảy ra vài lần. Những viên nhựa Permo màu xanh lá nhạt đột ngột chấm dứt, nhường chỗ cho một vệt đường lởm khởm màu đen, hoặc chẳng có con đường nào - chỉ có những cánh đồng. Chiếc xe buýt chậm rãi di chuyển với tốc độ rùa bò và thận trọng tránh các vật cản trong khi tìm một lối đi bằng phẳng nhất có thể, dù đôi khi cũng bị tròng trành dữ dội. Chuyện đó thật khó chịu, nhưng tôi không sợ chiếc xe bị hỏng. Bất chấp tính mong manh của bộ não bên dưới lớp vỏ kim loại chắc chắn, chiếc xe là một cỗ máy bền bỉ, được thiết kế tốt.

Trước khi rời khỏi Maugre, tôi đã bảo chiếc xe dừng lại trước nấm mộ của Annabel và bước xuống, đặt vài bông hoa hồng hái trong vườn lên đó, tựa vào chữ thập nhỏ bằng gỗ mà tôi đã dùng để khắc tên cô - có lẽ đó là tấm bia mộ tử tế nhất trong nhiều thế kỉ qua. Tôi đứng im vài phút, nghĩ đến Annabel và những gì cô đại diện trong lòng tôi. Nhưng tôi không khóc. Tôi không muốn làm thế.

Sau đó, tôi lên xe buýt và bảo nó đưa tôi đến New York. Chiếc xe buýt dường như biết chính xác mình phải làm gì. Nó lăn bánh chậm rãi và cẩn thận trên lối đi trung tâm của nghĩa địa rộng lớn, băng qua hàng nghìn bia mộ nhỏ không tên bằng nhựa Permo đang lặng lẽ nằm đó trong ánh nắng sớm, cho đến khi ra tới đường cao tốc màu xanh rộng rãi mà tôi đã từng thấy trước đây khi đi dạo xung quanh Maugre nhưng chưa bao giờ bước lên. Một khi đã ở trên bề mặt bằng phẳng được các đội robot bảo trì dọn dẹp sạch sẽ, nó bắt đầu tăng tốc, chạy theo tuyến đường rộng rãi vắng ngắt.

Khi lên đường, tôi đã cảm thấy một sự nhẹ nhõm khoan khoái trong lòng. Tôi chẳng nuối tiếc gì cả. Tôi cảm thấy ổn, giống như lúc này, trong màn đêm u tối, cùng chiếc xe buýt tử tế và kiên nhẫn, chỗ lương thực dự trữ, những cuốn sách, đĩa nhạc và con mèo.

Giờ thì trời đã bắt đầu hửng sáng bên ngoài cửa sổ. Những khi con đường lượn ra gần bờ biển, tôi nhìn qua bãi cát và mặt nước, về phía màu xám nhạt cô đơn của bầu trời, nơi vầng dương sắp ló dạng, và nó gần như khiến tôi nghẹt thở vì vẻ đẹp của nó. Không hoàn toàn giống với những gì tôi cảm thấy khi dừng lại ở cuối hàng cây Protein 4 của mình tại trại tù, vẻ đẹp của nó giờ đây thậm chí còn sâu sắc hơn và huyền bí hơn - giống như đôi mắt của Mary Lou khi nàng nhìn tôi theo cái cách lạ lùng, bí hiểm đó.

Đại dương hẳn phải rất rộng lớn. Đối với tôi nó đồng nghĩa với tự do, và cơ hội. Nó làm cho một điều gì đó bí ẩn mở ra trong tâm trí của tôi, giống như cách mà một số điều đọc trong sách đôi khi cũng làm được, khiến tôi cảm thấy sinh động hơn những gì tôi từng cho rằng mình có thể cảm nhận, và con người hơn.

Một trong những cuốn sách của tôi nói rằng từng có lúc con người tôn thờ đại dương như một vị thần. Tôi có thể hiểu điều đó một cách dễ dàng. Đúng vậy.

Nhưng người nhà Baleen sẽ không bao giờ hiểu được điều đó. Họ sẽ gọi ý tưởng này là “sự báng bổ”. Đức Chúa Trời mà họ tôn thờ là một thứ đạo đức trừu tượng và hung dữ, giống như một chiếc máy tính. Và vị giáo sĩ huyền bí hấp dẫn Jesus Christ đã bị họ biến thành một kiểu Tầm soát viên đạo đức. Tôi không muốn cái nào trong những cái đó, Jehovah trong sách Job cũng vậy.

Tôi nghĩ mình có lẽ đã từng là một người tôn thờ biển cả. Khi đọc to kinh Tân Ước cho người nhà Baleen nghe, tôi đã có một sự ngưỡng mộ mạnh mẽ dành cho Jesus, một nhà tiên tri buồn bã và vô cùng thông thái, người đã hiểu tầm quan trọng của cuộc sống và đã cố gắng truyền đạt cho những người khác, nhưng thất bại nặng nề. Tôi có thể cảm thấy dâng lên trong tôi một thứ tình yêu dành cho người đàn ông đã nói những điều như “Vương quốc Thiên đường ở trong lòng bạn”, bởi vì tôi dường như đã nắm bắt được đâu đó ý nghĩa thông điệp của ông ta, khi nhìn ra cửa sổ về phía mặt biển mênh mông phẳng lặng và xám xịt, nơi mặt trời sắp sửa mọc lên.

Dù không thể xác định được ý nghĩa đó là gì, tôi tin vào nó hơn tất cả những điều vớ vẩn đã từng được dạy ở trường nội trú hồi còn bé.

Bầu trời phía trên mặt biển xám đã trở nên sáng sủa hơn. Mặt trời sẽ sớm ló dạng. Tôi sẽ ngừng ghi âm và dừng xe buýt để xuống ngắm cảnh mặt trời mọc trên biển.

Chúa ơi, thế giới mới đẹp làm sao!

NGÀY BỐN THÁNG MƯỜI

Bình minh giúp tôi lấy lại sức. Tôi bước đến mép nước, cởi quần áo, bơi ra xa và hụp người xuống dưới những con sóng. Nước lạnh, nhưng tôi mặc kệ. Trong không khí đã có những hơi thở đầu tiên của mùa Đông.

Sau khi tắm xong, tôi yêu cầu xe buýt chơi một bản nhạc nào đó trong đầu mình, nhưng tôi dừng nó lại gần như ngay lập tức. Đó là thứ âm nhạc tăng động, ngớ ngẩn, rỗng tuếch. Tôi đấu nối máy quay đĩa của mình với máy phát điện, nhưng khi phát nhạc, đúng như tôi lo sợ, chiếc kim nhảy ra khỏi rãnh trong lúc xe buýt di chuyển. Tôi cho dừng xe buýt trên đường đủ lâu để nghe bản giao hưởng Jupiter của Mozart và một phần của đĩa Sergeant Pepper’s Lonely Hearts Club Band . Tình hình tốt hơn hẳn. Sau đó tôi rót cho mình một ly whisky nhỏ, tắt máy phát điện rồi tiếp tục lên đường.

Kể từ khi rời Maugre, tôi đã không gặp chiếc xe nào khác hoặc bất kì dấu hiệu nào về sự cư trú của con người.

Chúa ơi, những gì tôi đã đọc và học được kể từ khi rời Ohio! Những hiểu biết mới mẻ này đã biến đổi tôi đến mức chính tôi cũng khó nhận ra bản thân mình. Việc biết đến sự tồn tại của quá khứ loài người và có một chút cảm nhận về quá khứ đó đã thay đổi hoàn toàn suy nghĩ và hành vi của tôi.

Ở trường đại học, tôi đã xem vài bộ phim cùng với một số ít sinh viên quan tâm đến những chủ đề như vậy. Nhưng những bộ phim này - Nỗi ám ảnh vĩ đại , Dracula tấn công , Tiếng tơ đồng - dường như chỉ có tác dụng gây ấn tượng. Chúng chỉ là một cách thức khác, kín đáo hơn để thao túng tâm trí con người vì mục tiêu khoái cảm và hướng nội. Hồi đó, trong tình trạng mù chữ và bị tẩy não, tôi chưa từng coi những bộ phim này như một phương tiện để tìm hiểu điều gì đó giá trị về quá khứ.

Nhưng hơn hết thảy, giờ đây tôi cảm thấy sự can đảm để chấp nhận và cảm thấy những cảm xúc chầm chậm xuất hiện trong tôi, đầu tiên là từ những bộ phim câm giàu cảm xúc trong thư viện cổ, sau đó là từ những bài thơ, những cuốn tiểu thuyết, sách lịch sử, tiểu sử và cẩm nang mà tôi đọc. Tất cả những cuốn sách này, ngay cả những cuốn nhàm chán và khó hiểu nhất, đã giúp tôi nhận thức được một cách rõ ràng hơn ý nghĩa của việc làm người. Và tôi cũng học được từ sự bỡ ngỡ khi tiếp xúc với tâm hồn của một người đã chết từ lâu, rằng tôi không hề đơn độc trên trái đất này. Từng có những người khác cảm thấy những gì tôi cảm thấy, những người đôi khi nói được những điều không thể nói ra. “ Chỉ có chim nhại hót ở bìa rừng. ” “ Ta là đường đi, lẽ thật và sự sống. Ai tin ta, dù chết cũng được sống. ” “ Đời tôi nhẹ tựa lông hồng, đợi chờ cơn gió tử thần mang đi ”.

Và nếu không biết đọc, tôi sẽ không bao giờ thành công trong việc khởi động chiếc xe buýt giao cảm này và đi tới New York, đến với Mary Lou, người mà tôi phải cố gắng gặp lại trước khi chết.

NGÀY NĂM THÁNG MƯỜI

Hôm nay là một buổi sáng ấm áp có nắng, và tôi quyết định hưởng một buổi picnic ven đường, gần giống như trong phim Hợp âm lạc lõng của Zasu Pitts. Tôi dừng xe buýt vào khoảng giữa trưa bên một lùm cây nhỏ, chuẩn bị cho mình một đĩa thịt xông khói và đậu cùng một ly rượu whisky, bình nước uống, tìm cho mình một chỗ thoải mái dưới tán cây, rồi ăn bữa ăn của mình một cách chậm rãi và trầm ngâm, trong khi Biff đuổi theo những con bướm trên bãi cỏ.

Trong gần như cả buổi sáng, tầm nhìn ra biển bị khuất khi ngồi trên xe buýt. Tôi đã không nhìn thấy mặt nước trong vài giờ. Sau khi ăn và chợp mắt vài phút, tôi quyết định leo lên một gò đất để xem liệu có xác định được chúng tôi đang ở đâu hay không. Khi tôi lên trên đó, tôi có thể nhìn thấy đại dương, và chếch về phía bên trái của tôi, các tòa nhà của New York! Tôi bỗng trở nên phấn khích và ngây người đứng đó, run rẩy ghì chặt ly rượu đã cạn một nửa của mình.

Tôi có thể nhận ra tượng Riêng tư đặt trong Công viên Trung tâm với vóc dáng đồ sộ, trịnh trọng, nặng nề, đôi mắt nhắm và nụ cười thanh thản bí hiểm. Nó vẫn là một trong những kì quan của thế giới hiện đại. Tôi có thể nhìn thấy khối tượng khổng lồ màu xám ấy từ nơi đang đứng, cách xa hàng dặm. Tôi cố gắng xác định vị trí các tòa nhà của Đại học New York, nơi tôi đã yêu cầu xe buýt đưa mình tới, với hi vọng ít nhiều sẽ tìm thấy Mary Lou ở đó hoặc ít nhất là một dấu vết về sự hiện diện của nàng, nhưng chỉ hoài công.

Khi nhìn New York từ xa, với một bên là tòa nhà Empire State và bên kia là bức tượng Riêng tư u tối và đồ sộ, có gì đó trong lòng tôi bỗng chùng xuống.

Tôi muốn có Mary Lou, nhưng tôi không muốn quay lại New York, thành phố chết chóc đó.

Điều mà tôi nhận thấy là sự nặng trĩu trong lòng khi nghĩ đến những con phố ở New York, nơi sẽ sớm bị bao phủ bởi thảm thực vật giống như những đường phố của Maugre. Và tất cả những sinh mạng vật vờ lang thang trên những phố phường đang chết dần chết mòn đó - những khuôn mặt trơ như đá vì tính hướng nội, những kẻ có đầu óc gần như không hoạt động, những người đang sống một cuộc sống giống như cuộc đời không đáng sống mà tôi từng biết. Một xã hội bị ám ảnh bởi cái chết, nhưng không đủ sống động để nhận thức được điều đó. Và những vụ tự thiêu theo nhóm! Những vụ tự thiêu tại quán Burger Chef, và một vườn thú đầy robot!

Thành phố nằm yên như một nấm mồ trong nắng Thu. Tôi không muốn quay lại đó.

Thế rồi một giọng nói khe khẽ vang lên trong đầu tôi:

- Không gì ở New York có thể làm tổn thương anh được đâu.

Đó là giọng nói của chiếc xe buýt.

Tôi ngẫm nghĩ về điều đó trong giây lát, rồi nói thành tiếng:

- Tôi không sợ bị tổn thương. - Trong khi nói, mắt tôi nhìn vào cổ tay vẫn còn hơi bị vẹo từ cách đây chưa lâu.

- Tôi biết. - Chiếc xe buýt đáp. - Anh không sợ. Anh chỉ không vui vì New York, vì những gì mà nó gợi lên trong anh lúc này.

- Tôi từng hạnh phúc ở đó. - Tôi nói. - Lúc thì với Mary Lou. Lúc với những bộ phim của tôi...

- Chỉ có chim nhại hót ở bìa rừng. - Chiếc xe buýt bỗng nói, khiến tôi bất ngờ.

- Cậu chôm câu đó từ trong đầu tôi đấy à? - Tôi hỏi lại.

- Phải. Nó thường xuyên xuất hiện trong đầu anh.

- Nó có nghĩa là gì?

- Tôi không biết. - Chiếc xe đáp. - Nhưng nó làm anh cảm thấy một điều gì đó, rất rõ nét.

- Một điều gì đó buồn bã?

- Phải, buồn bã. Nhưng đó là một nỗi buồn hữu ích đối với anh.

- Phải. - Tôi đáp. - Tôi biết.

- Và anh phải đi tới New York nếu anh muốn gặp cô ấy.

- Phải.

- Lên xe đi! - Chiếc xe giục.

Tôi leo xuống khỏi gò đất, gọi con Biff, rồi trèo lên xe.

- Lên đường thôi. - Tôi nói to.

- Rất sẵn lòng. - Chiếc xe đáp.

Cửa xe được đóng lại một cách khéo léo, trước khi chiếc buýt bắt đầu lăn bánh.

NGÀY SÁU THÁNG MƯỜI

Trời đã gần như tối hẳn khi chúng tôi băng qua cây cầu cũ gỉ sét, to lớn và hoang vắng bắc sang đảo Manhattan. Đèn đã bật sáng trong một số ngôi nhà nhỏ bằng nhựa Permo nằm dọc theo đường Bờ Sông. Không còn ai trên vỉa hè ngoại trừ một vài robot đang đẩy xe chở nguyên liệu về phía các cửa hàng trên Đại lộ số Năm và một đội nhân viên vệ sinh đang nhặt rác. Tuy nhiên, tôi thấy một bà già trên Đại lộ Park. Bà ta béo ú, mặc một chiếc váy xám kì dị, và cầm một bó hoa trên tay.

Chúng tôi đi qua một vài chiếc xe buýt giao cảm trên đường phố, hầu hết đều không có khách. Một chiếc xe Tầm soát trống rỗng chạy ngang qua chúng tôi. New York rất yên bình nhưng tôi dần trở nên e ngại. Tôi đã không ăn gì kể từ bữa picnic hồi trưa. Tôi lo lắng suốt cả buổi chiều. Tôi không sợ, như lúc trước có thể đã từng, mà chỉ căng thẳng. Tôi không thích thế, nhưng không thể làm gì được ngoại trừ chịu đựng nó. Một đôi lần tôi nghĩ đến việc uống thêm rượu whisky hoặc dừng xe buýt ở một máy bán thuốc và cố gắng phá hoại nó để lấy những viên mê dược - vì tôi không còn thẻ tín dụng nữa - nhưng từ lâu tôi đã quyết không đưa những thứ hóa chất như vậy vào cơ thể mình. Vì vậy, tôi gạt những ý tưởng đó ra khỏi đầu, cố gắng chấp nhận cảm giác khó chịu và bồn chồn. Ít nhất tôi biết những gì đang diễn ra xung quanh.

Các tòa nhà bằng thép của Đại học New York thật nổi bật trong ánh hoàng hôn. Trong khi lăn bánh qua quảng trường Washington, chúng tôi đi ngang bốn hoặc năm sinh viên mặc chiếc áo choàng jean, mỗi người tiến về một ngả. Quảng trường đầy cỏ dại mọc um tùm. Không có đài phun nước nào hoạt động.

Tôi yêu cầu xe buýt dừng lại trước thư viện.

Nó đây rồi, tòa nhà cũ gỉ sét gần phân nửa, nơi tôi từng làm việc trong kho lưu trữ và sống cùng Mary Lou. Tim tôi bắt đầu đập mạnh khi tôi nhìn thấy nó ở đó, giữa đám cỏ dại vây quanh và không có ai hiện diện trong tầm mắt.

Tôi đủ tỉnh táo để nhận ra rằng mình có thể bị mất xe buýt vào tay một người chỉ đơn thuần muốn điều nó đi đâu đó. Vì vậy, tôi lấy hộp dụng cụ của mình và tháo tấm che phía trước đầu xe, ngắt kết nối thứ mà Cẩm nang Audel gọi là “Bộ phận kích hoạt cửa mở”, rồi ra lệnh cho cửa mở. Nó không mở ra. Tôi cất hộp dụng cụ bên trong khoang chứa bộ não đang mở. Sẽ không có ai quấy rầy nó.

Tôi bước vào tòa nhà, đỡ run hơn một chút nhưng vẫn rất phấn khích. Không có ai ở đó. Các hành lang vắng tanh, những căn phòng tôi nhìn vào đều trống rỗng, không có âm thanh nào ngoại trừ tiếng vọng từ bước chân của tôi.

Tôi không cảm thấy, như có thể đã từng, nỗi sợ hãi hoặc sự bất ngờ trước tình trạng trống vắng của nơi này. Tôi đang mặc một trong những bộ quần áo mới của mình: Quần jeans bó màu xanh, áo cổ lọ màu đen và đôi giày mềm màu đen. Từ lúc ban ngày tôi đã xắn tay áo lên, vì nhiệt độ ấm áp, phô ra cẳng tay rám nắng, gầy và cơ bắp. Tôi thích vẻ ngoài của chúng, và tôi thích cảm giác chung trong cơ thể và tâm trí tôi mà chúng dường như truyền tải: Thanh xuân, căng tràn và mạnh mẽ. Tôi không còn bị ấn tượng với tòa nhà sắp chết này. Tôi chỉ đơn thuần đang tìm kiếm một người ở trong đó.

Căn phòng cũ của tôi trống trơn và không thay đổi gì so với lúc tôi ở đây, nhưng bộ sưu tập phim câm đã biến mất. Tôi khá thất vọng vì trong đầu đã định đem chúng theo tới bất cứ nơi nào tôi có thể đi trên chiếc xe buýt giao cảm của mình.

Vẫn nằm trên chiếc giường kiêm bàn làm việc cũ của tôi là quả xoài giả mà Mary Lou đã hái cho tôi ở sở thú.

Tôi cầm nó lên, nhét vào túi quần. Rồi tôi đưa mắt nhìn quanh phòng. Tôi không còn muốn thứ gì khác. Tôi bỏ đi, đóng sầm cánh cửa sau lưng. Tôi đã biết nơi cần đến.

⚝ ✽ ⚝

Tôi đang kết nối lại mấy sợi dây điện của chiếc xe buýt dưới ánh đèn đường thì đột nhiên ngẩng lên và thấy một người đàn ông béo mập, hói đầu đang nhìn mình chằm chằm. Anh ta hẳn đã tiếp cận trong khi tôi đang mải mê làm việc. Anh ta có một khuôn mặt phì nộn vô cảm, với một sự hướng nội trơ lì thật đáng sợ khi nhìn vào. Sau vài giây, tôi nhận ra rằng người đàn ông này không khác gì hàng trăm người mà tôi từng thấy trước đây, nhưng có hai điều đã thay đổi trong cách tôi nhìn nhận anh ta. Trước hết, tôi không còn quan tâm đến Quyền Riêng tư nữa, vì vậy tôi cho phép mình xem xét anh ta cẩn thận hơn nhiều so với những gì tôi đã cho phép mình làm cách đây một năm. Kế đến, tôi từng tiếp xúc gần với người nhà Baleen, và mặc dù họ cũng dùng ma túy, khuôn mặt của họ không có sự đần độn ngạo mạn mà hầu hết mọi người đều có.

Sau khi bị tôi nhìn chằm chằm một lúc, người đàn ông cụp mắt và bắt đầu nhìn vào chân mình. Tôi quay lại với mấy sợi dây điện đang nối dở, và nghe thấy giọng nói khàn khàn của anh ta vang lên sau lưng.

- Chuyện này bất hợp pháp. - Anh ta nói. - Việc phá phách tài sản của chính phủ bị nghiêm cấm.

Tôi thậm chí không thèm quay lại.

- Chính phủ nào? - Tôi hỏi.

Anh ta im lặng một lúc rồi đáp:

- Anh đang đụng vào tài sản của chính phủ. Đó là một lỗi vi phạm. Anh có thể bị đi tù.

Lần này thì tôi quay lại. Tôi đang cầm mỏ lết trên tay và có một chút mồ hôi trên người. Tôi nhìn thẳng vào mắt anh ta, nhìn vào khuôn mặt đần độn, vô hồn, nhão nhoẹt.

- Biến đi ngay nếu không tôi sẽ giết anh. - Tôi nói với anh ta.

Người đàn ông há hốc mồm và trố mắt nhìn tôi.

- Cút đi, đồ ngu. - Tôi nói. - Ngay lập tức.

Người đàn ông quay gót bỏ đi. Tôi thấy anh ta thò tay vào trong túi lấy ra vài viên thuốc và cho vào miệng, ngửa cổ nuốt chửng. Tôi chỉ muốn ném cái mỏ lết vào anh ta.

Sau khi nối dây điện xong, tôi mở cửa bước lên xe và yêu cầu nó chạy tới quán Burger Chef trên Đại lộ số Năm.

Mary Lou không có mặt tại quán Burger Chef, nhưng tôi cũng không thực sự mong đợi điều đó. Quán ăn giờ đây trông có vẻ như đã đổi khác, và tôi nhận ra nguyên nhân do đâu. Hai trong số các ô ngồi đã bị dẹp bỏ, và những ô còn lại hầu hết đều cháy đen. Hẳn là đã có nhiều vụ tự thiêu xảy ra kể từ lần cuối cùng tôi vào đây.

Tôi bước tới quầy, yêu cầu nữ robot Lớp Hai làm cho mình hai cái burger rong biển và rót một ly trà từ ấm samovar. Cô ta làm theo, hơi chậm chạp một chút, rồi đặt tất cả xuống mặt quầy, chờ đợi. Tôi chợt nhận ra cô ta đang đợi tôi đưa thẻ tín dụng. Và tôi đã quên bẵng chi tiết đó.

- Tôi không có thẻ tín dụng. - Tôi bảo cô ta.

Nữ phục vụ nhìn tôi với vẻ mặt ngu ngốc của một con robot hệt như đám lính canh ở trại tù trước khi bê cái khay thức ăn lên, quay người đi về phía một thùng rác lớn.

Tôi hét lên:

- Khoan đã! Đem lại đây!

Nữ phục vụ khựng lại, hơi quay người, nhưng rồi lại quay về phía thùng rác. Cô ta di chuyển tới đó, nhưng chậm rãi hơn.

- Dừng lại, đồ ngu! - Tôi quát to.

Kế đó, không buồn suy nghĩ, tôi leo qua quầy, nhanh chóng tiến đến bên nữ phục vụ và đặt tay lên vai cô ta. Tôi xoay người cô ta lại đối diện với mình rồi cầm lấy cái khay trên tay cô ta. Nữ phục vụ ngờ nghệch nhìn tôi trong giây lát, rồi từ đâu đó trên trần nhà, chuông báo động bắt đầu réo inh ỏi.

Tôi nhanh chóng leo trở ra ngoài và bỏ đi đúng lúc một robot ngu ngốc đồ sộ mặc đồng phục xanh từ buồng trong xuất hiện, lao tới. Cũng giống như robot bảo vệ ở vườn thú, anh ta tuyên bố:

- Anh đã bị bắt. Anh có quyền giữ im lặng...

- Biến đi, robot. - Tôi bảo anh ta. - Biến vào trong bếp trở lại và để cho khách ăn được yên thân.

- Anh đã bị bắt. - Anh ta lặp lại, nhưng với giọng yếu ớt hơn. Anh ta không di chuyển nữa.

Tôi tiến đến chỗ robot bảo vệ và nhìn thẳng vào đôi mắt trống rỗng, vô nhân tính của anh ta. Trước đây tôi chưa bao giờ nhìn vào một robot ở khoảng cách gần như thế, vì sợ hãi và cũng vì tôn trọng họ. Và khi nhìn vào khuôn mặt nhân tạo ngu ngốc của anh ta, lần đầu tiên tôi nhận ra cái thứ nhại lại con người ngớ ngẩn này thật vô nghĩa, hết sức vô nghĩa. Xét cho cùng, robot chỉ được phát minh từ tình yêu mù quáng đối với thứ công nghệ cho phép tạo ra chúng. Chúng đã từng được chế tạo và trao cho nhân loại như những món vũ khí suýt nữa đã hủy diệt thế giới từng được ban tặng, giống như một “sự cần thiết”. Và, sâu xa hơn nữa, phía sau khuôn mặt trống rỗng, vô cảm như hàng ngàn khuôn mặt khác của các robot cùng lớp, tôi đọc được sự khinh miệt - sự khinh miệt cuộc sống tầm thường của con người, mà các kĩ sư thiết kế robot từng cảm thấy. Họ đã trao các robot cho thế giới cùng một lời nói dối rằng chúng sẽ giải phóng chúng ta khỏi sự lao động, giải phóng chúng ta khỏi những công việc vất vả, để chúng ta có thể phát huy và phát triển bản thân. Người nào đó hẳn phải cực kì căm ghét sự tồn tại của con người nên mới tạo ra một thứ như vậy - một nỗi ghê tởm trong mắt Chúa.

Giờ thì tôi nói với anh ta - với nó - bằng giọng giận dữ:

- Biến đi cho khuất mắt tao, robot. - Tôi kêu lên. - Ngay lập tức!

Con robot quay lại và bỏ đi.

Tôi liếc về hướng bốn năm người khách đang ngồi tách biệt trong ô của họ. Ai cũng so vai, nhắm mắt, rút vào trong sự riêng tư của mình.

Tôi bỏ đi ngay lập tức và nhẹ cả người khi thấy chiếc xe buýt giao cảm của mình. Tôi yêu cầu nó đưa tôi đến vườn thú Bronx, khu Nhà Bò sát.

- Rất sẵn lòng. - Chiếc xe buýt nói.

⚝ ✽ ⚝

Vườn thú đã tắt hết đèn. Mặt trăng đang bắt đầu mọc lên. Tôi thắp chiếc đèn dầu của mình khi chiếc xe buýt dừng lại trước cửa Nhà Bò sát. Không khí mát lạnh phả vào da thịt, nhưng tôi không mặc áo khoác.

Cửa không khóa. Khi tôi mở nó ra và bước vào bên trong, tôi gần như không thể nhận ra xung quanh mình. Điều đó một phần là do ánh sáng leo lét chập chờn của ngọn đèn dầu, nhưng cũng bởi thực tế là có những tấm vải trắng hoặc khăn mặt nào đó đã được treo lên nóc những cái chuồng ở bức tường cuối phòng.

Tôi nhìn chiếc ghế dài nơi Mary Lou đã ngủ. Nàng không còn ở đó. Gian phòng có một cái mùi kì lạ - ấm cúng và ngọt ngào. Bản thân nó thì ấm áp và thiếu không khí, như thể nhiệt độ đã được tăng lên. Tôi đứng lặng một lúc, cố gắng quen với nơi chốn đã thay đổi trong ánh sáng mờ tối. Tôi không thể quan sát thấy bất kì loài bò sát nào trong các chuồng nuôi. Chuồng trăn trông rất lạ, và có khối gì đó u lên ở giữa.

Tôi tìm thấy một công tắc trên tường, bật đèn lên rồi đứng đó chớp chớp cho quen mắt.

Thế rồi một giọng nói cất lên trước mặt tôi:

- Cái quái gì vậy....

Giọng nói của Mary Lou. Cái khối dưới sàn chuồng trăn tự thu lại và tôi nhận ra đó là Mary Lou. Tóc nàng hơi bết và đôi mắt hơi nheo lại. Nom nàng giống hệt như vào cái đêm cách đây đã lâu, khi trong cơn kích động tôi tới đây đánh thức nàng dậy và cùng nhau trò chuyện.

Tôi mở miệng định nói, nhưng không thốt nên lời. Lúc này nàng đang ngồi ở mép chuồng, với hai chân buông thõng. Trong chuồng không còn mảnh kính nữa - và chắc chắn cũng không có con trăn nào. Mary Lou đã đặt một tấm nệm vào đó để làm giường ngủ, thứ mà nàng đang ngồi bên trên. Mary Lou đưa tay dụi mắt và cố gắng tập trung nhìn tôi.

Cuối cùng tôi thốt lên:

- Mary Lou!

Nàng ngừng dụi mắt và nhìn tôi chăm chú.

- Chính là anh, Paul! - Nàng khẽ nói. - Có phải anh không?

- Phải. - Tôi đáp.

Mary Lou thả chân xuống sàn và bắt đầu chậm rãi tiến về phía tôi. Trên người nàng là một chiếc áo ngủ dài màu trắng nhăn nhúm, còn khuôn mặt thì sưng húp vì ngủ. Đôi chân trần không tạo ra tiếng động trong lúc bước đi. Khi nàng đến bên tôi và dừng lại, ngước lên nhìn tôi từ dưới mái tóc bết với ánh mắt ngái ngủ nhưng vẫn nguyên vẹn sự mãnh liệt như trước đây, tôi cảm thấy có gì đó nghẹn lại trong cổ họng.

Mary Lou nhìn kĩ tôi từ đầu đến chân, rồi thốt lên:

- Chúa ơi, Paul. Anh đã thay đổi.

Tôi không nói gì, chỉ gật đầu.

Nàng lắc đầu, ngắm nghía.

- Trông anh... trông anh giống như kẻ sẵn sàng làm mọi chuyện.

Bỗng dưng tôi bật ra được thành lời:

- Đúng vậy.

Tôi bước tới và vòng tay ôm nàng vào lòng, ghì thật chặt. Tôi lập tức cảm thấy đôi tay nàng ôm quanh lưng, ghì tôi thậm chí còn chặt hơn. Tim tôi dường như vỡ òa khi tôi ôm ghì cơ thể săn chắc của Mary Lou, hít hà mùi tóc và mùi xà phòng tỏa ra từ chiếc cổ trắng ngần của nàng, cảm nhận bộ ngực của nàng chạm vào ngực tôi, bụng nàng áp vào bụng tôi, và bàn tay nàng vuốt ve lớp tóc sau gáy của tôi.

Tôi bắt đầu cảm thấy một sự rạo rực chưa từng có trước đây trỗi dậy trong toàn bộ cơ thể. Tôi trượt hai bàn tay dọc theo sống lưng cho đến khi chúng ở trên hông của nàng. Tôi hôn lên cổ Mary Lou.

- Anh Paul. - Nàng khẽ nói với giọng hơi lo lắng. - Em vừa mới thức dậy. Em cần phải rửa mặt, chải tóc...

- Không, không cần. - Tôi nói và đan hai tay vào nhau, ghì nàng sát vào mình hơn.

Mary Lou áp lòng bàn tay vào má tôi.

- Chúa ơi, Paul! - Nàng dịu dàng thốt lên.

Tôi nắm tay nàng dẫn lại chỗ chiếc giường mà nàng đã tự làm cho mình trong chuồng trăn. Chúng tôi cởi quần áo mà không rời mắt khỏi nhau. Tôi cảm thấy mạnh mẽ và tự tin hơn bao giờ hết.

Tôi nhẹ nhàng đặt nàng xuống nệm và hôn khắp cơ thể trần truồng - mặt trong cánh tay, khe hõm giữa hai bầu ngực, chiếc bụng, mặt trong đùi, cho đến khi nàng rên lên vì sung sướng. Tim tôi đập điên cuồng nhưng đôi tay tôi không hề run rẩy.

Thế rồi, tôi từ từ đi vào bên trong nàng, dừng lại một chút trước khi dấn sâu hơn. Tôi bị cuốn đi trong ngây ngất. Tôi không thể nói được bất cứ điều gì.

Không rời mắt khỏi khuôn mặt của nhau, chúng tôi tiếp tục chuyển động cơ thể một cách nhịp nhàng. Càng nhìn Mary Lou tôi càng thấy nàng xinh đẹp. Khoái cảm mà chúng tôi có được từ việc chúng tôi đang làm thật đáng kinh ngạc, không thể tin nổi. Nó không giống như cách quan hệ tình dục mà tôi từng biết và từng được dạy. Tôi chưa bao giờ nghĩ rằng con người có thể làm tình như thế này. Khi cơn cực khoái ập đến, nó thật sự choáng ngợp. Tôi rú lên và ghì chặt lấy Mary Lou.

- Chúa ơi. - Mary Lou thì thầm. - Chúa ơi, Paul.

Tôi chống một khuỷu tay và nhỏm dậy, nhìn nàng một lúc lâu. Mọi thứ dường như khác hẳn. Tốt hơn. Và rõ nét hơn.

Cuối cùng tôi nói:

- Anh yêu em, Mary Lou.

Nàng nhìn tôi và gật đầu. Rồi nàng mỉm cười.

Chúng tôi im lặng nằm cạnh nhau suốt một lúc lâu. Sau đó, Mary Lou mặc lại váy và nói khẽ:

- Em ra đài phun nước rửa mặt đây.

Nói đoạn nàng bỏ ra ngoài.

Tôi nằm yên tại chỗ trong vài phút, cảm thấy thư thái, hạnh phúc và bình thản. Sau đó, tôi đứng dậy, mặc quần áo và đi ra ngoài để gặp Mary Lou.

Trời tối đen, nhưng chắc Mary Lou đã bật một công tắc nào đó, vì đài phun nước sáng đèn và tiếng nhạc vui tươi bắt đầu vang lên.

Tôi men theo lối đi tiến về phía ánh sáng. Mary Lou đang cúi xuống hồ và dùng tay vốc nước rửa mặt. Tôi tiến đến cách đó vài bước mà nàng vẫn không nhận ra sự hiện diện của tôi. Nàng ngừng ta