CHƯƠNG 46
Toàn bộ ý nghĩ về đám cưới đã mê hoặc Alex Barr - mê hoặc theo cái nghĩa đầy đủ của sự thông dâm hợp pháp, lòng kiêu hãnh được sở hữu, sự phô trương địa vị trước toàn thế giới, bao gồm cả cha và mẹ Amelia, với tấm biển đeo trước ngực trên đó viết rằng: “Tôi đã ngủ với một phụ nữ thượng lưu là vợ của tôi và là con đĩ của tôi.” Lớn lên trong bầu không khí ái tình vụng trộm, khoái cảm được làm tình dục trong một cuộc hôn nhân hợp pháp, đối với chàng thanh niên Alex Barr có sức khêu gợi hơn nhiều so với mọi cuộc tình bất chính trong bóng tối trước cửa nhà hoặc những lần gió trăng lãng mạn trên ghế ôtô. Alex Barr không muốn một chiếc giường trải sỏi; anh muốn một cuộc ái ân trên chiếc giường đôi phủ nệm sát liền nhà tắm kín đáo với khăn tắm sẵn sàng hoặc anh không muốn một cuộc ái ân nào nữa. Omar Khayyam đã không hình dung được trong dự kiến hôn lễ của anh; những mũi kim nhỏ thường làm người ta bị châm chích.
Có lẽ đã có sự quyến rũ mong manh trong cuối tuần vũ hội ở Chapel Hill. Hal Kemp đã chơi đặc biệt xuất sắc trong buổi vũ hội, Kemp cũng trở lại trong sự chiến thắng với Alma Mater. Kemp đã chơi hai bài tủ mà anh có bản quyền, và được đảm bảo là sẽ kích thích được cả những gã trong trắng nhất, cả hai đều do Skinnay Ennis hát: một là bài Trái tim đá và bài kia, Tôi có hẹn với thiên thần. Đó là thời kỳ mà người ta đến với một ban nhạc nổi tiếng để nghe, chứ không phải để nhảy. Người ta nắm tay người tình của mình và đu đưa trước sân khấu. Đối với Hal Kemp và các bạn của anh như Ennis, Maxine Grey, John Scott Trotter, Earl Geiger và Saxy Dowell, nhảy nhót bị xem thuần túy như tội báng bổ thánh thần - như sự báng bổ thành thần khi nhảy nhót trong lúc Kenny Sargen của ban nhạc Glen Grey hát Bên dưới nỗi buồn hoặc hét lên the thé bài Cho em.
Những năm đầu thập kỷ ba mươi nghèo đói đã đắm mình trong weltschemerz được nhận thức một cách rụt rè. Phim của Rogers và Astaire, phim của Crosby đã đẻ ra những bài balat bất hủ, để những Gershwin, Arlen, Porter, Mercer, Burke, Yager, Yellen và Van Heusen viết nên những giai điệu mà Sinatra vẫn còn hát mãi đến ba mươi năm sau. Tên ban nhạc chiếm vị trí hết sức thần thánh; Kemp, Artie Shaw, Ellington, Grey, Nichols, Weems. Lombardo, Ray Noble, Dorseys là những cái tên được xưng tụng, thậm chí được tôn thờ, và Blackhawk của Chicago là thánh đường chính để các tín đồ hành lễ. Sự kháng cự của phụ nữ gãy vụn trước bài hát của Al Bowlly, ban nhạc Noble Sự khao khát của anh, và bất kỳ ai hát bài Bão tố hay Thể xác và tâm hồn đều gây ra sự ham muốn rõ rệt như làm những lồng ngực trẻ phấp phồng. Đây là thời kỳ của những bản tình ca êm dịu; thời đại của âm nhạc để nghe, và môn thể dục mềm dẻo vẫn chưa xâm nhập vào sàn nhảy.
Alex Barr hoàn toàn không để ý đến sự bất diệt mà nghệ thuật gợi lên khi anh ôm trong tay cái thân thể mềm mại của Amelia mà đu đưa, cứng nhắc trong chiếc áo dạ tiệc màu trắng, hưng phấn một cách dễ chịu vì mấy cốc rượu mà họ uống bên ngoài Tin Can trong giờ giải lao, hãnh diện vì sự tiếp đón của người bạn cũ, giáo sư Henry, vênh vang vì có cô gái xinh đẹp nhất vũ hội. Những gã thanh niên, những người cùng hội và những người lạ đều giống nhau, hăm hở chen vào Amelia khi họ nhảy, vì thế hầu như họ không nhảy mà chỉ lắc lư và nghe nhạc.
Kỳ nghỉ cuối tuần đã bù lại tất cả cuộc sống thời sinh viên mà Alex Barr không được hưởng khi còn đi học. Tất cả những chiến thắng mà anh đã khao khát, tất cả những mong muốn nhỏ đã hình thành một nửa, tất cả những tình bạn mà anh quên, tràn đến trong cái kỳ nghỉ cuối tuần mà anh là khách danh dự của trường. Có một bài báo viết về sự trở về của người thổ dân trong tờ tuần báo địa phương; Skipper Henry đã dành một nửa cột báo trong chuyên mục Grits và Chitling của ông để nói về thành công của người học trò cũ; ngay cả tờ báo buổi sáng Raleigh cũng đăng bài viết về chàng trai đã thành công trong giới báo chí ở một thành phố lớn. Đó là thời gian của thịt, rượu, sữa, mật ong, hoa hồng và ánh trăng cho Alex Barr, người đang cảm thấy tuổi thanh niên mà anh chưa bao giờ được nếm trải như một thanh niên.
Họ đã say mà không cần uống - rượu pân pha sữa vào buổi sáng, khi họ la cà từ khu ký túc này đến khu ký túc khác; uống whissky bourbon với ông già Skipper Henry, người đã tiết lộ với Amelia và bất kỳ người nào muốn nghe rằng ông đã phát hiện ra tài năng của Alex Barr ngay khi ông nhìn thấy anh với cô gái người Injun khá xinh đẹp đã bỏ đi lấy chồng như thế nào (Amelia nhìn Alex dò hỏi, anh nhún vai với vẻ vô tâm của một diễn viên). Có hàng loạt cuộc nhậu nhẹt khi bóng đêm dâng cao hơn và họ mang rượu ra ngoài phòng tập thể dục, con trai tu rượu nguyên chất, còn con gái thì rót ra những phần nhỏ hơn từ những chiếc cốc lớn cũng chứa Coca Cola. Quần áo được thay đổi điên cuồng; một số ít các cô gái phát ốm và phải ôm lấy đầu; một ả gái điếm, được một trong số những gã hư hỏng hơn dẫn vào làm trò đùa, bị bầu không khí sinh viên khuất phục, đã tự bổ nhiệm mình làm quản gia cho những chú gà con đến từ Peace và St. Mary, và cương quyết từ chối ngủ với chàng vệ sĩ của ả trong suốt kỳ nghỉ.
Việc thay đổi quần áo tác động sâu sắc tới Alex Barr, người đã qua những năm Đại học trong bộ vét sờn, đôi giày nát, và vài chiếc áo lót đã vá ở khuỷu. Đó đơn thuần là sự xa xỉ thú vật khi mặc đúng thời trang với chiếc áo jacket thể thao và quần vải flanen để đi dạo buổi sáng, thay lần nữa với chiếc áo vét vải flanen màu xanh và quần màu trắng để dự tiệc trà, rồi sau bữa tối lại thay sang bộ smoking trắng và quần màu đen, với chiếc áo sơmi hồ cứng ngực cọ một cách dễ chịu lên làn da nóng rực vì xà phòng của lần tắm thứ ba trong ngày, chiếc áo khoác ôm khít lấy vai và giày khiêu vũ bóng loáng nhẹ như đôi găng bằng da dê ở chân.
Bờ vai tròn đầy đặn của các cô gái phô ra dưới vải tuyn và đôi khi là sa tanh - cô bạn gái của Jimmy James mặc sa tanh, và những đường cong mịn màng của cô thấp thoáng dưới đường xẻ của chiếc váy sa tanh màu rượu chát mang dáng vẻ của xirô pha kem và sođa. Khắp nơi là hương thơm của hoa dành dành gài ở thắt lưng, nước hoa và nước tắm của các cô gái, trong khi bọn con trai tỏa ra cái mùi sạch sẽ của xà phòng, mùi nghiêm nghị của kem cạo râu và mùi trưởng thành của whisky. Chẳng ai cần ngủ - đầu thuốc lá sáng lập lòe khắp các phòng của khu ký túc cho đến tận bình minh, đến khi có ai đó quyết định tổ chức một tiệc bơi ở Sparow's Pond và bữa sáng có rượu pân pha sữa sau đó. Không có sự gian dâm theo đúng nghĩa đen. Sự gian dâm là để cho những ngày trong tuần - còn đây là Kỳ nghỉ cuối tuần.
Lúc này, Alex Barr không thể giải thích rằng anh đã tìm kiếm, và cuối cùng đã tìm được, một mối tình đứng đắn và đức hạnh mà anh đã thèm khát trong suốt những ngày mài đũng quần trên ghế nhà trường. Đó là cách mà những người khác luôn sống, và Amelia chiếm một phần rất quan trọng trong đó. Mối tình lãng mạn và kinh nghiệm tình dục mơ hồ ngắn ngủi với Fran Mayfield đã diễn ra trong một khung cảnh rẻ tiền; khung cảnh ấy không bao gồm xe ô tô, whisky, tiêu tiền, quần áo đẹp và những buổi tiệc dễ dãi với nhiều may mắn hơn. Alex vẫn sống như một nhà tu hành cho đến khi tốt nghiệp. Anh là con mọt sách gày nhom mà trong mấy tuần cuối cùng của đời sinh viên đã may mắn hấp dẫn được một cô gái trẻ đẹp rõ ràng là có khuynh hướng cuồng dâm. Fran Mayfield đã khinh bỉ ném đồ bố thí cho một gã ăn mày.
Tất cả những cái đó không có gì giống với cái chiến thắng vang dội, cái hả hê của sự sở hữu mà lúc này Alex Barr đang nếm trải. Công việc thật sự của anh thời sinh viên bắt đầu vào ngày thứ ba và kết thúc vào trưa Chủ nhật, khi anh khởi hành chuyến đi dài trở về Washington, mắt cay xè vì thiếu ngủ và cái dư vị khó chịu của hai ngày nhậu nhẹt cạo lên thần kinh và châm vào dạ dày anh.
Thậm chí anh đã giữ được ảo tưởng về sự ngây thơ sinh viên sau vũ hội cuối cùng trong đêm thứ bảy - khi, sau bữa bánh săng uých nóng kẹp thịt bò hun khói và bia ở Greek, Jimmy James gợi ý cả bọn lấy xe đi Sparrow để tắm dưới ánh trăng. Nó được mọi người ngầm hiểu rằng việc tắm sẽ diễn ra khỏa thân; ít nhất, cả Amelia và cô bạn rượu Liz của Jimmy những người mà việc trò chuyện chỉ hạn chế ở những tiếng cười khúc khích, đều không đưa ra câu hỏi rụt rè nào về để tắm.
Mặt trăng tỏa sáng, chiếc bình khổng lồ rót lênh láng vào bể sữa ở Sparrow. Những chiếc ô tô đỗ đây đó; có tiếng reo hò, la hét, cười khúc khích và tiếng té nước. Rõ ràng là nhiều người khác cũng có chung ý tưởng như họ; khi tới nơi, ánh đèn pha của Alex đã bắt gặp thân hình trắng mờ của cô gái chạy ngang đường như một chú hươu.
Amelia và Liz dạt vào sau xe để cởi quần áo. Alex và Jimmy trút bộ đồ của mình sau một gốc cây. Hai cô gái tìm được khăn tắm, họ quấn quanh ngực và đùi cho đến khi chạm vào bờ nước, và rồi, lần đầu tiên, Alex nhìn thấy Amelia trần truồng - hoàn toàn trần truồng dưới ánh trăng lấp lánh. Anh thấy rõ bộ ngực phập phồng, mảng tối dưới bụng và ánh lấp loáng của cặp đùi khi hai cô gái chạy ào xuống nước, nhưng sự trần trụi đó chẳng gợi lên trong anh ham muốn nhục dục nào. Ham muốn chỉ được đánh thức một cách tự nhiên trong làn nước ấm áp, khi anh bơi lại gần và ôm lấy Amelia trần truồng trong vòng tay. Cô mở rộng đùi khi bước đi trong nước và anh thận trọng đưa người vào giữa hai đùi cô từ phía sau, hai tay úp chặt lên ngực cô. Cô quay đầu lại, nhẹ nhàng hôn anh, rồi toài người ra khỏi tay anh và bơi đi trong ánh xao động của làn nước bạc.
Họ mặc quần áo, hơi run rẩy, và uống rượu trong chiếc chai để trên xe trước khi quay về thị trấn. Khi họ về tới khu ký túc thì trăng đã lặn và bầu trời đã ửng hồng, còn một nhóm bạn thì đã tụ tập ở hàng hiên để dự bữa rượu pân pha sữa buổi sớm. Đi ngủ lúc này hình như là rất ngớ ngẩn, và cũng sẽ ngớ ngẩn y như vậy nếu vẫn mặc bộ đồ của buổi tối hôm qua. Các cô gái chạy lên gác thay áo váy, còn các chàng trai thì đứng lại ở hiên, uống và nghe nhạc, tự đắc một cách trẻ con về cái ngực áo nhàu nhĩ và những vệt son trên cổ.
Alex và Amelia đến muộn bữa ăn giữa buổi của giáo sư Henry. Jimmy và cô bạn tinh thần Liz của anh ta không được mời. Thay vào đó, Skipper Henry đã mời một số bạn cánh hẩu của ông trong trường - Van Gelder khoa Triết, Maxwell khoa Khảo cổ, Carson khoa Kinh tế và Merriweather khoa Lịch sử Cổ đại - tất cả đều là những ông già râu tóc bù xù, quần áo nhăn nhúm, thân hình phì nộn với những cặp lông mày chổi xể, lông mũi rậm rạp và bộ ria mép vểnh lên ngộ nghĩnh. Amelia là cô gái duy nhất có mặt, và tự cô cũng thấy sự ngưỡng mộ mà những ông già, toàn là các giáo sư, dành cho chàng trai vị hôn phu của cô. Đối với Amelia thì sự kính trọng này thật khó hiểu; dù sao Alex cũng chỉ là phóng viên mới vào nghề của một tờ báo nhỏ nhất Washington, chưa có gì hữu hình thể hiện những nỗ lực của anh ngoài vài bài viết nhỏ thỉnh thoảng chen được lên trang nhất. Amelia biết là Alex đang làm việc, làm việc miệt mài, và cô cũng biết là anh đang viết, nhưng cô không hiểu tại sao những người đàn ông lôi thôi cẩu thả, mà tất cả đều có học vị Tiến sỹ này lại xem điều đó quan trọng đến như vậy.
“Cậu sẽ ra trận chứ?” Là một trong những câu hỏi đầu tiên mà Skipper Henry dành cho Alex, như thể ông hỏi anh liệu có muốn một ly nữa thứ rượu bourbon nấu lấy có mùi chua chua mà người đàn ông già ấy thết các vị khách của mình.
“Không như một nhà văn,” Alex nói. Amelia ngạc nhiên nhìn hết người này đến người khác. Làm gì có cuộc chiến tranh nào, ngoại trừ câu chuyện vô nghĩa về người Trung Quốc và người Nhật ở nửa bên kia thế giới.
“Tôi nghĩ cậu có lý,” Van Gelder, giáo sư triết nói. “Đó là một trải nghiệm quá lớn để được đánh giá từ bên ngoài. Một cuộc chiến tranh cần phải được nhìn từ bên trong. Nó không phải là cảnh để những vị khách lạ thờ ơ nhìn từ xa. Chiến tranh còn thân tình hơn cả đám cưới.”
Amelia nói rụt rè:
“Nhưng làm gì có cuộc chiến tranh nào. Xin tha lỗi cho cháu, nhưng các bác nói như thể là có một cuộc chiến tranh và nước Mỹ đã vào trận rồi.”
Ông già Skipper Henry mỉm cười.
“Nhưng tất nhiên là đang có chiến tranh”, ông nói. “Ông bạn Van Gelder của chúng ta có thể giải thích điều đó cho cháu trên quan điểm thuần tuý và mơ hồ theo cách rắc rối rất Hy Lạp, nhưng bác sẽ không đề nghị ông ấy làm điều đó. Chúng ta đã sống trong chiến tranh kể từ khi Hitler rời bỏ Quốc hội. Vấn đề chỉ là khi nào chúng ta ra tuyên bố chính thức thôi.”
“Thế thầy nghĩ là khi nào?” Alex hỏi. “Ý em là bản tuyên bố ấy?”
Ông già nhún vai
“Có lẽ phải sau hai, ba hoặc năm năm nữa. Sự giận dữ của công chúng còn chưa bùng lên. Chúng ta vẫn đang trong giai đoạn đặc biệt ảo tưởng - nghe Peter the Hermit nhưng vẫn chưa sẵn sàng cho một cuộc Thập Tự chinh. Khi cuộc chiến xảy ra nó sẽ là một cuộc chiến tranh vĩ đại. Tôi chỉ tiếc là tôi đã quá già mất rồi. Nhưng hãy nhớ một điều, Alex: không có nhà văn nào lại bỏ qua chiến tranh cả. Nhất là nếu anh ta có ý định viết sách. Đó là nghiên cứu cơ bản nhất.”
“Henry bảo tôi là cô cậu sắp đám cưới?” Merriweather của khoa Lịch sử cổ đại quay sang Amelia hỏi. Alex trả lời hộ cô.
“Việc ấy còn cần một vài điều kiện, thưa thầy Merriweather. Amelia vừa mới học xong - cô ấy sắp làm lễ tốt nghiệp, và em thì mới đi những bước đầu tiên trong nghề báo.”
“Tôi nghĩ lấy vợ là điều tốt cho một nhà văn”. Tiến sỹ Merriweather nói. “Để anh ta đứng vững. Không có gì bằng người vợ và một hai đứa con để giữ cho ngòi bút dính vào tờ giấy. Vấn đề với các nhà văn là họ hầu như không bao giờ hình thành được một thói quen đều đặn trừ phi họ phải gánh trên vai trách nhiệm về cơm áo. Và, tôi chắc ông bạn Henry đây cũng sẽ nói với anh giống như vậy, viết lách không phải là món hàng có thể mặc cả được, bất kỳ ngành sáng tạo nào cũng thế, bao gồm cả nghệ thuật.” Ông quay sang Maxwell, nhà khảo cổ học. “Ông sẽ nói là người Hy Lạp học đòi phải không, ông bạn già?”
“Không,” nhà khảo cổ học nói. “Chẳng hơn gì tôi kết tội người Ai cập lười biếng khi họ gắn các kim tự tháp lại với nhau. Kiến tha lâu đầy tổ mà”.
Alex cảm thấy hơi khó chịu - gần như là bức bối. Những câu nói hoa mỹ bay qua bay lại, mà ý nghĩa của phần lớn những câu nói đó là chẳng có gì giúp người đàn ông có năng lực sáng tạo bằng tình yêu của một người đàn bà tử tế. Cái khiến anh bực bội hơn cả là phần lớn những gì anh khao khát cho một cuộc sống ổn định, sự tôn trọng, một cuộc sống vợ chồng bình lặng, tám giờ ngủ và tình dục đều đặn và không phức tạp, những bữa cơm ngon lành, sự điềm đạm, những buổi tối quanh bếp lửa, nhưng cái phần không chịu ngồi yên trong anh lại khao khát cuộc chiến tranh mà họ đang bàn luận một cách bình thản đến thế - cuộc chiến tranh đang thai nghén này sẽ lôi tuột anh xa khỏi tất cả những thứ mà anh ao ước.
Anh biết, tuần nghỉ ngơi đã hết. Anh đã bó tròn đời sinh viên của mình trong khoảng thời gian từ chiều thứ ba tới trưa Chủ nhật. Anh thấy Amelia giật nhẹ tay áo anh. Mấy ông già đang nói chuyện về cuộc chiến tranh sắp tới, người Nhật, người Đức, sự quả cảm của người Anh và sự nhu nhược của người Pháp. Tổng thống Roosevelt và chính sách Kinh tế mới vẫn còn chưa được đề cập tới, mặc dù đây là năm 1935.
“Có lẽ chúng cháu phải xin phép về sớm,” Amelia ấp úng. “Cháu đã bảo với mẹ là chúng cháu sẽ cố về nhà trước khi trời tối. Các bác biết đấy, thể nào bà cũng đợi chúng cháu về ăn tối.”
“Em cũng nghĩ thế,” Alex nói. “Em đã có một tuần lễ nghỉ dài, và ngày mai em phải đi làm.”
Họ chào, và ông giáo sư báo chí già ôm lấy Alex thân thiết như một người cha.
“Tôi đã bảo là cậu sẽ làm được” ông nói. “Cậu đã đi đúng hướng. Khi nào có dịp hãy quay lại đây thăm lại chúng tôi.”
“Em sẽ trở lại,” Alex nói. “Em sẽ trở lại khi nào có dịp”. Và khi nói câu đó anh đã biết rằng rất có khả năng sẽ chẳng bao giờ anh quay lại con đường này nữa. Thậm chí không đột ngột, anh biết rằng anh đã ra trường.