CHƯƠNG 69
Sau vài ngày đầu thèm được uống một ly lúc mặt trời lặn - một nghi lễ hơn là nhu cầu cần rượu thực sự - Alex bắt đầu cảm thấy thật sảng khoái. Anh thức dậy vào lúc bảy giờ, cạo râu và tắm, đi dạo một vòng quanh hồ hoặc xuống bể bơi, và đến tám giờ thì đã đói cồn cào. Anh ngấu nghiến bữa sáng khổng lồ gồm thịt lợn muối và trứng, bánh nướng và giăm bông, rồi uống đến cả lít cà phê.
Chưa đến chín giờ anh đã ngồi vào máy chữ và làm việc cần cù đến một giờ, là lúc Luke mang báo từ thành phố về. Anh đọc báo đến hai giờ, ăn bữa trưa nhẹ, và quay về với phần việc còn lại trong ngày. Khi viết tiểu thuyết dài, mỗi ngày Alex Barr cho ra được hai mươi trang, và anh bằng lòng với số lượng ít hơn khi viết truyện ngắn hoặc bài cho tạp chí chuyên ngành yêu cầu cấu trúc chặt chẽ hơn. Anh ăn bữa tối đơn giản với Luke vào lúc chập tối và trở lại công việc với cây bút chì vào lúc tám giờ. Hai giờ sửa chữa và gọt giũa đủ khiến anh mệt đờ để lên giường vào lúc mười rưỡi tối.
Alex thầm nhủ rằng giờ đây anh thật hạnh phúc, và chắc chắn là hào hứng. Có những buổi sáng anh chẻ củi suốt nửa tiếng, và luôn đi bộ cả dặm đường. Anh ăn ngon miệng như một con trăn. Anh chỉ lãng phí giờ làm việc khi giải vô địch thế giới diễn ra, đó là tuần đầu tiên lệnh cấm rượu bị vi phạm khi anh bật tivi khoảng một hai tiếng. Kể từ đó anh không xem tivi nữa trừ mục thời sự lúc bảy giờ. Thường anh mang một cuốn sách - một người bạn cũ quen thuộc không cần phải phân tích - vào giường, và nó luôn rơi khỏi tay anh chỉ sau một hai trang đầu.
Về tính trầm lặng thì Luke Germani có hầu hết năng khiếu của người Ý, tới mức những cuộc trò chuyện hầu như chỉ giới hạn ở những việc cốt yếu liên quan tới việc đánh máy hoặc việc vặt trong nhà. Luke có cách biến đi nhẹ nhàng công việc đã làm xong, cùng với chiếc cần câu hoặc cái rìu, và sự yên tĩnh chỉ bị phá vỡ bởi tiếng gõ máy chữ lách cách.
Vẫn có một rắc rối duy nhất trong ngôi nhà bình yên này, nơi những con chim ca hát suốt ngày, những con chim lặn gavia líu ríu trên mặt hồ, còn những con cú thì kêu suốt đêm. Ngón tay Alex dũng cảm gõ đều trên bàn phím, chiếc bút chì được gọt đi gọt lại trước lò sưởi. Hàng thước ruy băng được gài vào máy và chẳng có gì thay đổi. Những bản thảo sạch sẽ của Luke chẳng làm được gì để cải thiện chất văn. Những nhân vật cứng đơ đã hóa đá. Những cố gắng tuyệt vọng tìm điểm nút cho cốt truyện khiến Alex đờ đẫn - sự đờ đẫn được báo trước bởi hàng ngàn từ vô hồn. Những từ ngữ chỉ còn là tập hợp những chữ cái. Chúng không chỉ thiếu sự đam mê; chúng còn thiếu cả âm vang nữa.
Trong đời làm việc của một nhà văn chuyên nghiệp, khi anh ta may mắn, những nhân vật hư cấu bước ra khỏi trang sách và trở thành những con người bằng xương bằng thịt, với hình dạng vững chắc và tư duy của riêng họ. Họ làm những việc mà tác giả chưa bao giờ có ý định làm. Họ nói những điều mà tác giả chưa bao giờ mơ thấy. Một nhà văn hạnh phúc do đó chỉ còn đảm nhiệm vai trò thứ yếu của người đánh xe ngựa, không dùng roi da, mà chỉ còn điều khiển cỗ xe nhẹ nhàng bằng dây cương thả lỏng.
Alex Barr lúc này, tỉnh táo, hào hứng, hăm hở làm việc, lại thấy mình trong vai một thuyền trưỏng tàu galê cố quất roi lên lưng nô lệ - chửa rủa, đánh đập, hy vọng nhịp chèo nhiệt tình hơn. Dưới ngọn roi của Alex, những nô lệ chèo thuyền đã làm việc cần cù, nhưng là trong sự phục tùng rầu rĩ, và chiếc thuyền galê vẫn nặng nề đầm mình trong nước.
Anh đã viết lại truyện dài tới ba lần, và thấy nó càng ngày càng xám xịt hơn. Anh lại bỏ dở cuốn tiểu thuyết, vì những nhân vật của nó thay đổi từ những hình nhân cắt bằng bìa cứng sang thành những mẩu giấy vụn, còn cấu trúc cốt truyện thì bị bóp nghẹt trong vũng cát lầy. Cuối cùng, trong cơn tuyệt vọng, anh gọi điện cho Marc Mantell.
“Đừng tới đây,” Marc Mantell nói. “Tôi sẽ đến đấy. Có lẽ cậu mụ người đi rồi. Chuyện như thế có thể xảy ra với tất cả mọi người.”
Mantell tới vào kỳ nghỉ cuối tuần, vẻ lạc lõng trong bộ đồ thành thị. Ông mất cả tối thứ sáu và ngày thứ bảy để đọc bản thảo của Alex, ghi những chú ý vào tập giấy dài màu vàng mà đã có lần Alex gọi là “cuốn sổ đáng ghét”.
Lúc trời chạng vạng, Marc Mantell pha một ly Scotch nhỏ và ngồi xuống trước lò sưởi.
“Tôi không biết cậu muốn tôi nói với cậu điều gì,” ông nói, mắt mở to sau cặp kính.
“Bác có thể nói cho cháu biết sự thật,” Alex nói và rót cho mình một ly cà phê. “Cháu đã mất nó, phải không bác Marc? Có phải tất cả đã đi mất rồi không? Cái này”, anh chỉ vào tập bản thảo, “chỉ là một mớ rác rưởi. Và cháu càng cố làm lại thì nó càng tệ hại hơn. Và cái đống kia còn dở hơn khi cháu viết lần đầu. Không đào xới. Không gợi mở. Không thật. Cháu không tin bất kỳ người nào trong đó, hoặc bất kỳ lời nào mà những người trong đó nói.”
“Đó chính là những gì tôi muốn nói. Hình như cậu đã có một bộ khung được trau chuốt của cái mà cậu có thể thực sự viết ra một khi cậu ngồi xuống và bắt tay vào việc.”
“Nhưng cháu đã ngồi xuống và bắt tay vào việc.” Giọng Alex đầy vẻ thất vọng. “Trong đời cháu chưa bao giờ làm việc nghiêm túc đến thế! Và tất cả chỉ đem lại một mớ rác rưởi!”
Marc Mantell xoa trán và nhấp ngụm rượu. Giọng ông thốt ra mơ màng sau lưng Alex.
“Nhà văn,” ông nói, “là một sinh vật bí ẩn và mong manh. Không ai biết cái gì đã tạo ra một nhà văn. Nỗi đau và sự nghèo đói có thể rèn luyện người này, nhưng cũng có thể dễ dàng làm hỏng người khác. Một số nhà văn làm việc tốt nhất trong cảnh ẩn dật; một số người khác lại không thể viết nổi một dòng nếu phải xa tiếng huyên náo của quảng trường Time. Sự giàu có làm hư một số người và hoàn thiện một số người khác. Một số cần những giới hạn - số khác lại cần thời gian vô hạn. Một số cần đến Tây Ban Nha hoặc một hòn đảo ở phương Nam; số kia lại khổ sở khi phải xa căn phòng cáu ghét ở khách sạn hoặc tầng gác mái lạnh buốt.”
“Thế cháu thuộc loại nào?” Alex hỏi thẳng thắn. “Cháu đã nghèo và cháu đã giàu. Cháu đã từng viết trong thành phố, trên thuyền, trong lều, ở tầng gác mái và tác phẩm hay nhất cháu đã từng viết đã ra đời trong căn phòng này - căn phòng mà giờ đây thậm chí cháu không thể viết nổi một từ xin chào mà không thấy nó thật giả tạo. Vậy bác cho là cháu thuộc loại nào, thưa giáo sư?”
Giọng Marc Mantell vẫn tiếp tục mơ màng.
“Một điều nữa về các nhà văn mà tôi đã đau đớn nhận ra sau bốn mươi năm làm việc trong công ty của họ, là họ rất mẫn cảm với những lời chỉ trích cá nhân. Tôi không trách cứ cậu vì lỗi lầm đó, Alex. Tôi chỉ đơn thuần nhắc thế thôi. Tất cả các nhà văn đều là những kẻ ích kỷ - những diễn viên nghiệp dư - hoặc họ không còn là nhà văn. Rất ít người đủ dũng cảm đối mặt với một sự thật đơn giản, nếu nó đi ngược với cái tôi của họ.”
Mặt Alex hơi tái đi, anh đứng dậy và bước ra chỗ quầy rượu.
“Cháu nghĩ một tháng sống khổ hạnh chẳng giúp được gì - không làm giãn được những bắp cơ co cứng. Cháu sẽ bắt chước bác làm một ngụm Scotch.”
“Cho tôi một ly nữa trong khi cậu pha ly của cậu,” Marc Mantell nói dễ dãi. “Có lẽ cậu đã đưa cuộc sống kỷ luật đi quá xa rồi.”
Alex rót rượu, hớp một ngụm lớn, rồi nói:
“Được rồi. Giờ thì bác hãy tặng cháu lời tồi tệ nhất đi.”
“Cậu là một cơ chế kỳ lạ và đặc biệt dễ vỡ, Alex. Cậu cần lương tâm; một của chính cậu, còn cái kia là của một người nào đó khác. Cậu cần áo vải gai để châm chích vào khả năng sáng tạo của cậu. Suốt đời cậu sẽ chạy trốn khỏi nhà. Đó là căn bệnh mãn tính. Nhưng cậu không thể chạy trốn nếu không có một ai đó hoặc một cái gì đó để chạy trốn. Không có tiếng cằn nhằn, không có áo vải gai, không có gông trên cổ... sẽ không có sự cân bằng để nâng cậu lên sức sáng tạo hàng đầu. Tôi nghĩ đây là một dạng thông dâm văn học. Cậu chỉ đẻ ra những tác phẩm hàng đầu khi cậu thấy mình bị cưỡng bức. Cậu thích cái mà cậu luôn xem là hòn đá đeo trên cổ, và cậu hoan hỉ khi thấy mình đã làm việc tốt, bất chấp.”
“Bác nói tiếp đi,” Alex nói. “Cháu đang nghe đây. Cháu thích cái từ bất chấp của bác. Cháu hẳn phải là loại sâu bọ.”
“Cậu thực sự là loại sâu bọ,” Marc Mantell nói. “Tất cả nhà văn đều là những kẻ khùng. Tôi sẽ nói ngắn gon. Cậu cần có ai đó để chạy trốn, và cậu cần có ai đó để tìm về.”
Marc Mantell ngừng lời.
“Tôi không cần vẽ ra cho cậu bức tranh, phải không? Cậu cần Amelia!”
Alex đã mở miệng định phản đối, nhưng anh lại đột ngột im lặng. Anh nhún vai và thở dài. Tay anh hơi run khi cẩn thận đặt ly rượu lên bàn.
“Cháu biết,” Alex khổ sở thú nhận. “Có Chúa giúp, cháu biết là thế. Cháu nghĩ là cháu đã biết thế từ lâu và không muốn thừa nhận.”
“Vậy là,” Marc Mantell nói, “vì Chúa đã đem cô ấy trở về. Cậu không phải là kẻ đầu tiên leo qua đỉnh núi. Điều dễ nhất mà người phụ nữ làm được là tha thứ, mặc dù, giống như con voi, cô ta không bao giờ quên, và không bao giờ quên nhắc cậu rằng cô ta không tha thứ.”
Alex thở dài và đỏ mặt. Anh nhấp một ngụm nữa, rồi lại thở dài với vẻ hài lòng.
“Quái quỷ, ngon thật đấy. Cháu hầu như đã quên mất là nó ngon đến thế. Bác có gợi ý gì không?”
“Cậu có biết bây giờ cô ấy ở đâu không?”
“Có. Cháu nghĩ vậy. Gần như là biết.”
“Tốt,” Marc Mantell nói và đứng lên, “vì Chúa Hãy đón chuyến bay đầu tiên và đưa cô ấy về nhà. Cậu vẫn có thẻ Air Travel đấy. Hãy thu dọn quần áo và quay về New York với tôi. Chúng ta có thể ăn tối ở Stock Club và để cậu hít vài hơi thuốc lá.”
Alex đặt tay lên vai Marc Mantell.
“Amelia luôn hỏi cháu là một nhà văn thành công thực sự cần gì ở người đại diện,” anh nói. “Cháu luôn thấy rất khó giải thích.”
“Mười phần trăm hoa hồng cho vô số dịch vụ,” Marc Mantell nói cộc lốc. “Nhanh lên. Cái không khí thôn quê này khiến tôi buồn ngủ.”