← Quay lại trang sách

CHƯƠNG 71

Alex Barr ngủ mãi đến gần trưa, bị đánh thức bởi lần giao hoa đầu tiên tận nhà. Cuộc đi chơi đêm để ăn mừng thành công mới của Dinah Lawrence thực căng thẳng. Một bữa tối rất, rất đắt tiền ở Pavilion đã đưa tới một loạt những nơi ồn ào và đầy khói thuốc lá, bao gồm El Morocco (nơi Alex ghét cay ghét đắng vì nguyên tắc) và cuối cùng kết thúc ở Village tại nhà hát nhạc jazz Eddie Condon, nơi tóc gáy Alex dựng đứng cả lên mỗi lần Bill Davison quay lưng lại và thổi ra một hồi kèn. Lúc này đám tóc gáy đó vẫn còn hơi dựng đứng, khi anh nuốt hai viên aspirin rồi nhón chân xuống bếp tìm nước cà chua với một chút rượu gin để thuốc ngấm tốt. Chai nước cà chua cùng với nửa giờ dưới vòi hoa sen đã làm anh có can đảm phần nào để đối mặt với những gì sắp tới.

Máy bay phải đến vào lúc bốn giờ ba mươi phút chiều.

Alex cạo râu rất cẩn thận, và thong thả chọn quần áo. Chiếc áo len casơmia mềm màu xanh dương mà Amelia đặc biệt thích, đi với chiếc áo sơmi lụa màu kem Sulka và chiếc cà vạt màu hạt dẻ nhạt. Anh đã gắng có được cái đầu mới từ đầu tuần, và quyết định sẽ không ngắm mình trong gương, tìm kiếm bóng dáng kẻ thích nhậu nhẹt đã bỏ một nữ tác giả thành công lại nhà cô ta rồi lảo đảo lê về nhà lúc gần bốn giờ sáng.

Anh nhìn quanh nhà. Carl và Elsa, cặp vợ chồng đầu bếp - quản gia, đã vội vã bị gọi quay trở lại việc phục vụ cả ngày. Carl, người Đức gốc Thụy Sĩ to béo, mắt lồi với mái tóc vàng nghịch mắt, giáp mặt Alex trong phòng khách, và xin anh cho phép bày hoa. Có vẻ là Elsa, người có gương mặt luôn ửng đỏ (không phải do hơi bếp nóng mà nhiều phần là do chứng cao huyết áp) đã dành phần lớn những năm tháng lớn lên ở Basel cho việc học cách bày hoa để chuẩn bị cho trò chơi cút bắt đặc biệt này. Elsa, người không chịu yên miệng khi Alex đi tìm chai nước cà chua trong bếp, giờ đang phổng mũi khi anh nhận xét rằng so với người Thụy Sĩ sinh ở Basel thì người Nhật chỉ là những kẻ nghiệp dư vụng về trong việc cắm hoa.

“Ngài có dùng bữa sáng không ạ?” Elsa nói. (Alex từ lâu đã bất lực không xóa được từ “ngài” trong cách xưng hô trực tiếp của bà).

“Không,” Alex nói, “tôi đã có hẹn đi ăn trưa. Tôi chỉ cần lót dạ một chút thôi.” Anh gượng cười cố tỏ ra vui vẻ. “Bà hãy xem làm sao cho mọi thứ đểu ổn để đón bà chủ,” anh nói. Ông chồng và bà vợ nhìn anh với vẻ phản đối chính đáng.

“Chúng tôi luôn làm đúng mọi việc,” Carl nói.

“Đúng thế,” Elsa vừa nói vừa hình dung ra trong óc những cuộc chè chén bất tận.

Bà Withers tóm lấy Alex khi anh, áo vắt trên cánh tay, đang lao qua tiền sảnh, nhưng anh thoát được bà bằng một cái gạt và vẻ thành thật: “Mai mới phải vất vả cơ, bà Withers ạ, còn hôm nay xin cứ thoải mái”, rồi biến vào trong chiếc thang máy kêu lách cách được một thanh niên môi trề mặt đầy trứng cá chỉ có thể là một gã thoái hóa về giới tính điều khiển vào thời gian rỗi.

Alex không thấy người gác cổng ở cửa, có lẽ ông ta bỏ đi đánh cá ngựa, vì thế anh tự vẫy taxi và quyết định rằng một góc yên tĩnh ở Laurent sẽ có thể giữ anh xa mọi rắc rối thái quá với đám bạn bè mà anh rất dễ bắt gặp ở Shor hoặc “21”. Đây là chuyến bay anh không được muộn, mà người ta không bao giờ lường hết chuyện xe cộ. Nếu đi ngả Triborough thì có khả năng ai đó bị đâm xe giữa đường, còn xe cộ thì tắc nghẽn ở đầu kia. Còn theo đường hầm Midtown thì còn tồi tệ hơn. Anh quyết định đi tuyến đường xa hơn qua Triborough, và bảo một trong số những người phục vụ ở Laurent gọi cho Carey để đưa limousin đến đón anh vào lúc ba giờ chiều. Một tiếng rưỡi, anh thầm nghĩ, có thể đưa mình đến Philadelphia, mà Idlewild không xa đến thế.

Anh tự cho phép mình uống một chai nước cà chua nữa trước khi ăn, và cố làm ra vẻ chăm chú đọc mấy tờ báo buổi sáng để tránh mặt những người quen. Anh nhận ra Marc Mantell đang ngồi trong góc phía xa với một vài khách hàng và vẫy tay ra ý chào ông. Mantell biết hôm nay là ngày trọng đại; Alex đã gọi cho ông báo đã anh nhận được bức điện thứ nhất và thứ hai của Amelia.

Chuyến đi hóa ra lại dễ chịu. Lái xe không phải và người hay chuyện, và Alex được rảnh rang đọc hết ba tờ báo buổi chiều, hơi rùng mình khi nhìn giá cổ phiếu. Anh đến sớm; còn gần một tiếng nữa mới đến giờ. Anh bảo tài xế đánh xe ra bãi đỗ, cầm theo tờ Time và Newsweek rồi vào quầy bar để lo lắng chờ máy bay hạ cánh. Nhân viên sân bay đã thông báo rằng chuyến bay West Coast sẽ đến đúng giờ.

Alex chậm rãi nhấp từng ngụm Scotch pha nước và cố đọc tờ Time, nhưng hôm nay cấu trúc câu tiếng Anh ngớ ngẩn của nó không làm anh điên tiết. Anh giở những trang báo, đầu tiên là mục điểm sách, và thấy rằng vẫn như thông lệ các nhà phê bình không thích bất kỳ một cuốn sách nào. Anh mở sang trang Sân khấu Điện ảnh và đếm được hai mươi bảy chỗ chơi chữ trên hai trang. Rồi anh buồn bã nhìn chăm chăm vào ly rượu và thầm ước được ở đâu đó trong vùng phụ cận Marsabit, trên mặt trận Bắc Kenya hoặc thậm chí ở Garissa, nơi vẫn nằm ngoài tầm với của các tổ chức nhân quyền.

Ý nghĩ về phút đầu tiên giáp mặt Amelia khiến anh khiếp sợ. Tội lỗi day dứt anh tàn nhẫn và nặng nề. Sự không chắc chắn đã khiến anh phải cởi chiếc áo len casơmia màu xanh ra. Amelia sẽ không đánh anh, và anh không cho là cô sẽ li dị anh, nhưng ý nghĩ về vài giờ lúng túng khó xử đầu tiên làm anh thất kinh. Anh gọi một ly rượu nữa và nhanh chóng cảm thấy đôi chút nhẹ nhõm.

Sau những giờ phút dài như hàng thế kỷ, loa phóng thanh đã oang oang thông báo chuyến bay của Amelia đang hạ cánh, và anh đi lên gác để đợi cô. Thủ tục hải quan sẽ mất khoảng nửa giờ, nếu may mắn, nhưng ít ra anh đã ở đó - trang trọng, đúng mực, và, điều này thì anh hoàn toàn chắc, trông không đến nỗi quá bê tha sau buổi tiệc mừng Dinah. Nhưng tất nhiên là anh đã quên khuấy đi mất việc kiểm tra hộ chiếu và khám sức khỏe, và anh tự trách mình đã không uống thêm ly Scotch thứ ba. Nét ửng hồng trong khoảnh khắc của lòng can đảm giả tạo lại nhanh chóng nhợt đi, và anh cảm thấy mình thật yếu đuốỉ và nhỏ bé.

Anh đi đi lại lại, châm thuốc hút, và cuối cùng những cánh cửa cũng mở ra, và kia, đích thực là cô ấy. Cô ấy đang nhìn lên ban công phía trên để tìm bóng anh, và anh điên cuồng vẫy cô, gần như không chống nổi sức cám dỗ phải hét lên “U hu” trong khi vẫn nhớ rằng người ta không còn nói “U hu!” nữa, nhưng cô không nghe thấy tiếng anh qua lớp kính chống đạn.

Đúng rồi, đó chính là cô, vẫn là mái tóc vàng rực rỡ - đây chính là cú sốc quyết định - vàng bằng hoặc hơn Barbara Bayne. vẫn cái dáng quá thon thả trong bộ đồ đi đường bằng vải garbadin màu be bó sát. Hai chiếc áo choàng lông vắt trên tay phải cô, một chiếc dài mới bằng lông báo và một chiếc cũ bằng lông chồn nâu. Tay kia cô mang chiếc túi xách bằng cỡ vali, và đó hình như là một phần của đống hành lý cao sáu phít phía trước có ghi chữ “B” đánh dấu bàn khai báo hải quan của cô. Cô đặt túi xách xuống, nhưng giữ mấy chiếc áo khoác trên tay.

Cô đã nhìn thấy anh, giơ tay vẫy, mỉm cười và, vâng - và nheo nheo mũi theo cái kiểu rất dễ thương mà cô có. Trông cô thật tuyệt vời và - như Alex có thể nhận thấy ở khoảng cách xa như thế - rám nắng (hay có lẽ đó là tóc bị bạc đi?); tất nhiên, cô đã quyết định bỏ dở chuyến đi dài ở Honolulu, và cô không có một chút dấu vết nào của chuyến đi. Cô bắt đầu tiến gần hơn về phía khu vực có chữ “B”.

Trông cô ấy không có vẻ giận dỗi, Alex nghĩ. Cô ấy có vẻ vui khi thấy mình. Và ơn Chúa, mình cũng mừng khi thấy cô ấy. Anh lại vẫy tay và gửi cho cô một cái hôn, rồi chỉ chỉ ngón tay xuống lối ra bên dưới. Cô gật đầu, rồi nhanh nhẹn quay lại chỗ nhân viên hải quan. Alex quyết định đi xuống, huýt sáo gọi chiếc Cadillac của anh, rồi đợi ở lối ra hải quan cho mãi đến khi cô bước ra. Cô quay lại, vì một lý do nào đó, và Alex cảm thấy sự hăng hái của anh hơi chùng xuống. Khoảng cách gần hơn hình như đem đến một sự căng thẳng nào đó, một sự nóng nảy nào đó không thể thấy rõ khi lần đầu tiên cô tiến qua cánh cửa phía xa.

Ôi, Chúa ơi, Alex nghĩ, mình lo lắng. Có lẽ cô ấy vẫn đang sôi sục và để dành đến khi về nhà mới nổ tung, vì thế mình và cô ấy có thể có một cuộc trò chuyện thân tình trên xe. Mình hy vọng là Di đoán đúng. Điều mình không muốn nhất bây giờ là một cuộc trò chuyện thân tình, cũng như một cuộc trò chuyện giữa hai người, và điều đó chỉ tốt cho anh thôi. Ítra là cô ấy không bắt đầu cuộc chiến nặng nề cho đến khi xuống xe và vào nhà. Mình có nên hôn cô ấy không, hay là chỉ chạm nhẹ vào má cô ấy? Mình sẽ ôm cô ấy trong tay, hay chỉ lịch sự đứng cách xa và đề nghị mang hộ mấy chiếc áo khoác? Ước gì mình mang Marc hoặc Ben hay ai đó cùng đi, nhưng mình dám chắc là điều đó sẽ làm cô ấy tức giận. Ô, được rồi, anh nghĩ, mình sẽ đi gọi xe, ít ra thì đấy là một chỗ để đứng, nếu như đội cảnh sát sân bay chưa hốt nó đi.

Anh đứng, hơi xuống tấn để chống đõ cuộc xung đột, trước lối ra dành cho những người đã xong thủ tục hải quan. Và lúc này, anh nghĩ, là khoảnh khắc của sự thật. Đây là nơi con bò tót sẽ lao ra khỏi trường đấu.

Cô đã bước ra, mỉm cười, cùng với một nhân viên khuân vác da đen đẩy xe hành lý theo sau. Cô đã nhìn thấy anh, nhưng không rảo bước nhanh hơn. Anh vội vã bước tới chỗ cô, và nói, vì không biết làm gì hơn:

“Chào em. Chúc mừng em đã trở về nhà, em yêu.”

“Thật dễ chịu là được trở về nhà, anh yêu,” cô nói và chìa má ra lạnh nhạt đón cái hôn của anh.

“Cho anh ngắm em nào,” anh nói và lùi lại một bước. “Trông em thật tuyệt vời - kể cả mái tóc mới nữa. Lúc đầu nó đã làm anh choáng váng đấy.”

“Em mừng vì anh đã nghĩ thế - em cũng mừng vì anh thích kiểu tóc này. Em đã phát chán cái màu cũ rồi. Trông anh cũng rất tuyệt, có lẽ hơi gầy đi. À, trên xe đẩy của cậu chàng kia em có một ít túi xách,” cô nói. “Hay là anh đuổi theo cậu ta. Chúng mình có xe chứ?”

“Tất nhiên,“ anh nói. ”Đưa anh cầm hộ mấy cái áo, rồi đi sau nhé. Anh sẽ đuổi kịp cậu chàng của em. Xe đỗ ở ngay phía trước ấy.”

“Em sẽ đợi anh,” cô nói nhã nhặn, và Alex vội vã theo sau người nhân viên khuân vác. Ơn Chúa, anh nghĩ, vậy là thoát. Bây giờ nếu mình có thể đi về nhà mà không phải diễn kịch. Nếu mình có linh cảm là Chúa đã ban tặng quả táo dại thì mình đã mua một chai rượu để trong xe.

“Đây rồi, anh,” anh nói với người nhân viên. “Xe đây rồi,” và đưa cho anh ta năm đôla. Amelia có vẻ thất vọng với khoản tiền thưởng, nhưng cô không nói gì.

Chuyến đi là sự ngớ ngẩn vô nghĩa của cả hai phía. Amelia dò xét Alex, tìm ở anh dấu vết của kẻ giết người, hay chí ít là dấu hoa huệ ô nhục bất thần hiện ra trên lông mày anh.

“Em đã đi những đâu?” Cuối cùng anh nói, trong sự tuyệt vọng, suýt nữa thì thêm: “Và tại sao em không gửi bưu ảnh cho anh?” Song anh đã kíp cắn vào lưỡi mình.

“À, phần lớn châu Âu,” Amelia đáp.“Bọn em - Francis Hopkins có qua đó vài tuần - bọn em đã làm một cuộc hành hương ở Pháp, tất nhiên là ở Paris, sau đó em đã tới rất nhiều nhà thờ ở Ý. Đến lúc ấy thì Francis phải quay về, và em đi cùng với Nancy Patton, anh còn nhớ Nancy không, cô ấy đã cưới Charlie Lyons hồi trước chiến tranh. Em và Nancy tới Tây Ban Nha một thời gian, xem vài trận đấu bò, Prado và vài buổi Flamenco. Nancy biết một người nuôi bò và bọn em đã có một kỳ nghỉ cuối tuần thú vị ở trại nuôi bò.”

“Thích thật,” Alex lịch sự nói và ngọ ngoạy trên ghế, may làm sao là chúng ta không quen cùng một người nuôi bò. “Em đã sang phương Đông như thế nào?”

“Nancy biết một số người ở Beirut, vì thế bọn em đã đến đó và quyết định từ đó đi sang phương Đông. Nước Nhật khá là buồn, em nghĩ thế. Có lẽ chỗ ấy tốt cho nam giới - phụ nữ thì cũng xinh và ngoan ngoãn - nhưng đàn ông Nhật thì thật đáng ghét. Thậm chí trông họ người ta không nghĩ là họ thuộc cùng một chủng tộc với những người phụ nữ, họ râu ria và thô lỗ kinh khủng mặc dù người ta đã nghe nhiều về tính lịch sự của người Nhật.”

“Rồi từ đó em đi Hồng Kông?”

“Vâng. Em thích Hồng Kông. Đó là nơi mua hàng tốt nhất thế giới. Mọi thứ đều rẻ kinh khủng. Em sợ là em đã tiêu mất kha khá tiền ở Hồng Kông.” Amelia nhìn anh vẻ thách thức.

“Tốt thôi,” Alex nói rồ dại. “Làm thế nào em tìm ra thức ăn?”

“Thức ăn ở Pháp thì quá phong phú, chẳng có gì ngoài sốt và Guide Michelin. Ở Ý thì quá béo, toàn là pasta và pasta. Ở Tây Ban Nha thì thật kinh khủng, cả em và Nancy đều đi té re, chắc là vì đồ biển. Em cứ nghe người ta bảo đồ ăn Tây Ban Nha rất cay, nhưng em chẳng thấy thế. Nó nhạt phèo. Thậm chí họ còn cho cả mayonnaise vào cơm. Ở Nhật em tìm được một quán ăn Trung Quốc tuyệt vời và sau đó em không đụng đũa vào đồ ăn Nhật. Tất nhiên là đồ ăn Tàu ở Hồng Kông cũng rất tuyệt. Nếu em mà viết sách về du lịch thì em sẽ khuyên những người đi đến những nơi lạ không nên ăn gì ngoài món ăn Trung Quốc.”

“Thế còn Bangkok? Singapore? Có gì hay không? Em có gặp người nào thú vị không?”

“Bangkok chẳng có gì ngoài kênh đào, chùa chiền và nóng. Chúa ơi, ở đây thật là nóng. Mọi người cũng dễ chịu nhưng những con kênh thì bốc mùi kinh khủng hơn cả Venice. Khách sạn Raffles ở Singapore thì đúng là Cựu Thế giới, theo nghĩa thuộc địa, tối tăm và trì trệ. Em không biết là mình mong đợi điều gì, nhưng Singapore giống những gì mà em hình dung về Trung Hoa lục địa hơn là một phần của Malaya. Người lang thang, thợ thuyền, xích lô và tất nhiên là cả những người Anh tụ tập uống rượu gin hồng và tán gẫu như trước khi quân Nhật chiếm đóng. Hình như một nửa số đàn ông người Anh ở Singapore đã trải qua chiến tranh trong trường đua ngựa mà họ đã xây nên bằng chính đôi tay của họ.”

Lúc này họ đang vòng qua bùng binh Triborough và hướng về nhà, ơn Chúa, Alex nghĩ khi đưa cho Amelia một điếu thuốc và châm lửa. (Chúa ơi! Anh đã kìm được! Suýt nữa thì anh tự động châm hai điếu thuốc!“)”

“Suốt hai tháng qua chắc là em đã đi thăm thú nhiều nơi,” Alex nói sau khi im lặng.

“Phần lớn bọn em không ở lâu một nơi,” Amelia đáp. “Nói chung một tuần là đủ, Những bữa tiệc cocktail thì đâu cũng giống nhau. Thật may là em tình cờ gặp được Nancy. Hình như cô ấy có thư cho tất cả mọi người. Sau một thời gian thì tất cả bọn họ trông đều giống nhau. Và thật sự là rồi anh sẽ phát ốm vì hết đóng gói hành lý vào rồi lại dỡ hành lý ra. Quần áo thì bốc mùi, cho dù anh có giặt ướt và giặt khô bao nhiêu lần đi nữa. Dọc đường đi em đã thử mua vài món đồ mới, nhưng kết cục là chúng cũng bốc mùi y như thế.”

Chúa ơi, Alex nghĩ, những lợi ích văn hóa của một chuyến du lịch trong thời đại hàng không. Những bữa tiệc cocktail đều giống nhau; những con người đều như nhau, và kết cục là tất cả quần áo đều bốc mùi. Trong khi đó thì người ta bị ỉa chảy và kiết lị, với chi phí khoảng một đôla một dặm đường.

“... em đi?” Cô đang nói gì đó.

Alex giật mình trở lại hiện tại.

“Hả? Ồ, xin lỗi. Anh hơi lơ đễnh, lại là chuyện viết lách ấy mà. Em vừa hỏi anh cái gì?”

“Em hỏi là liệu anh có chuyện gì vui trong khi em đi không, hay anh làm việc suốt thời gian ấy?”

“Anh làm việc suốt. Chỉ có điều là chẳng đạt được kết quả gì cả. Anh mất một tháng ở nông thôn, chỉ có anh và Luke, và đã lao động miền miệt, nhưng kết quả thì vô vị y như mùn cưa vậy. Căn hộ thì quá trống trải để làm việc trong đó. Nó làm anh sợ.” Anh mỉm cười. “Anh e là anh cần có em để biến căn nhà thành một tổ ấm. Một người nào đó để kê dọn đồ đạc.”

Amelia không có biểu hiện gì trước lời nịnh nọt đó.

“Phải nói là em vui mừng được trở về. New York thật tuyệt vời. Và cũng thật tuyệt khi được mặc lại những bộ quần áo mà em không mặc hai mươi lăm lần trong năm mươi ngày qua. Thế còn những chương trình biểu diễn thì sao? Có gì hay không?”

“Em yêu, anh thực sự không biết,” Alex nói. “Anh không đọc những bài tổng kết, và phần nào anh đợi em về để chọn.”

“Được rồi. Anh có gặp ai khi em đi không?” Cô ném vào anh câu hỏi cuối cùng.

“Gặp à? Ờ, chẳng có mấy. Ở Jersey thì không có ai. Trong thành phố, đám ở Toots-21 như mọi khi. Marc, tất nhiên. Một hai tổng biên tập ở đây đó. Đi xem vài trận bóng chày với Ben. Xuống Codon một vài lần. Chẳng có gì - chẳng có ai. Tháng Chín tẻ ngắt, còn tháng Mười thì anh làm việc suốt.”

“Anh không tổ chức liên hoan hay cái gì đó ở nhà à?”

Alex lắc đầu.

“Không. Không tiệc tùng. Không khách khứa. Thực ra anh mới dọn về nhà khoảng mười ngày trước. Anh ở Jersey, như anh đã nói đấy, còn khi em ở châu Âu, căn hộ khá buồn, nên anh đã ở Ritz một thời gian.”

“Thế thì tốn khá tiền đấy anh nhỉ,” Amelia nói châm chọc, và dây thần kinh của Alex căng lên vì mấy từ khá tiền.

“Không đến nỗi,” anh nói nhẹ nhàng. “Lúc đó không phải là mùa du lịch, và họ dành cho anh một mức giá phải chăng. Dù sao thì cũng chỉ khoảng một tháng thôi mà.” Chúng ta sẽ quên đi chuyến đi nhỏ của anh tới Tây Ban Nha.

“Em thích là hai tháng hơn,” Amelia nói.

“Anh cũng nghĩ thế. Đây rồi“, Alex nhấn nút hạ tấm kính ngăn xuống”, đây rồi, lái xe, rẽ phải và đi vòng từ số 50. Được rồi,“ anh nói với Amelia, ”chúc mừng em trở về nhà. Chúng ta đã đến nơi rồi.”

Amelia mím môi và không nói gì.

Lúc này thì người gác cửa có mặt đúng vị trí.

“Mang mấy cái túi cẩn thận nhé, Mike,” Alex nói và trả tiền cho lái xe.

“Mừng bà đã về, bà Barr,” người gác cửa nói và đưa tay lên mũ.

“Cảm ơn,” Amelia nói không chút nhiệt tình và bước vào sảnh. Họ lên thang máy trong im lặng. Người điều khiển nhấn nút chuông riêng của họ, và khi cánh cửa mở ra, Carl và Elsa đang đứng đợi trong phòng chờ đã bóng đến mức soi gương được.

“Mừng bà đã trở về,” Carl nói và cúi chào.

“Mừng bà chủ,” Elsa nói và cúi chào giống hệt ông chồng.

Sau đó cả hai nhìn Alex với vẻ để xem liệu tự ông có thể ngăn người bạn đời của mình đánh giá cao cách trang trí này không?

Amelia bước lên trước Alex và nhìn khắp phòng khách tràn ngập hoa tươi.

“Đẹp quá,” cô nói, chẳng hào hứng hơn chút nào. “Hoa đẹp thật. Anh chu đáo quá, Alex. Em thích bình này”, cô chỉ vào bó ba mươi sáu bông hồng nhà kính màu vàng cắm trong chiếc bình bạc. “Đúng là loại mà em ưa thích.”

“Nhưng anh không... đúng, chúng rất đẹp,” Alex nói và để ý đến tấm thiệp đặt cạnh bình hoa. “Nhưng anh e là chúng thuộc về một người hâm mộ khác. Thiệp kia kìa.”

Amelia vứt áo khoác lên góc đivăng và bước đến chỗ cây đàn piano. Cô mở phong bì và đọc tấm thiệp.

“Anh ấy mới thật dễ thương làm sao,” cô nói. “Chúng là của Francis. Đây này.” Cô đưa tấm thiệp cho anh. Nó viết: Em đừng bao giờ đi xa lâu như thế nữa. Vắng em thành phố thật cô quạnh, và buồn tẻ. Mừng em đã trở về. Yêu em, Francis.

“Anh ta tử tế thật,” Alex nói và đưa trả cô tấm thiệp. “Rất chu đáo. Nhưng làm thế nào mà anh ta biết là em sẽ về ngày hôm nay?”

“Ồ, khi quyết định đi về, em có nhắn cho anh ấy, và nhờ anh ấy xem lại hộ mấy hãng máy bay. Francis cực kỳ thông minh trong những việc như thế này,” Amelia nói khẽ. “Em tự hỏi liệu anh có lòng tốt mà pha cho em một cốc whisky với nước thật lớn không, Alex? Em khát khô cả cổ rồi.”

“Scotch hay bourbon?” Alex ngớ ngẩn hỏi.

Giọng cười của Amelia có tiếng lanh lảnh giả tạo.

“Ồ, tha lỗi cho em. Em chỉ vừa mới xa những người Anh thôi. Có lẽ anh đã quên, nhưng với người Anh thì whisky chỉ có một - đó là Scotch.”

“Xin lỗi vì anh lại thành một tên thực dân đáng ghét đến thế,” Alex lẩm bẩm trong khi đi đến tủ rượu. “Anh quên mất là chúng ta đã đổi vai trò; em thì đi du lịch còn anh ở nhà nấu bếp. Anh sẽ đem whisky của em đến ngay, thưa quý bà.”