← Quay lại trang sách

CHƯƠNG 89

Sandy Lang còn được người ta hay gọi là Lang Sandy vì số đo sáu feed tư từ đỉnh chiếc mũ vải bông xuống tới gót đôi chân to bè đang sải bước trên mảnh đất Đông Phi mà ông đã đi hàng triệu dặm - những khi ông không đo nó bằng cỗ xe bò, hay gần đây, bằng chiếc Land Rover. Trừ thời gian chiến tranh, Sandy đã sống ở châu Phi suốt năm mươi năm. Trong đó ngót nghét ba mươi năm được dành cho những khía cạnh khác nhau của Bộ chiến tranh. Ở Nam Tanganyika, nơi ông thống trị một vương quốc mở rộng ra vô tận, ông được cả thổ dân cũng như người da trắng gọi đơn giản là “Bwana Gác rừng”.

Ông đã lấy một phụ nữ nhỏ bé mắt xanh, cao bằng nửa ông, người chỉ dẻo dai hơn chồng một chút. Con cái đã lớn và đã tự lập; Sandy điều hành văn phòng chính thức của ông ở Musoma, nhưng hiếm khi ông có mặt ở văn phòng. Trên thực tế ông cai quản lãnh thổ rộng lớn của ông từ một boma nằm ngoài khu định cư bé xíu có tên là Ikoma, gần nơi pháo đài cũ của Đức hồi trước chiến tranh thế giới thứ nhất, ngay cạnh bờ sông Grummetti. Người bạn thân nhất của Sandy Lang là một bản sao gần như hoàn toàn của ông, người cũng được gọi là “Bwana Gác rừng”, kết quả của gần ba mươi năm làm thủ lĩnh vùng Nam Masai của Kenya, đã được sáp nhập vào vùng Tanganyika của Sandy Lang, ở đây hai người điều hành một vùng đất bằng cỡ Texas. Họ sống theo một bộ luật đơn giản; yêu thương thú vật và truy tố bọn săn trộm một cách không thương xót. Người ta nói rằng cả hai sẽ bỏ tù cả bà mẹ già yêu quí của mình nếu họ bắt được bà ta bắn lũ vịt già ở khoảng cách dưới 200 thước tối thiểu đã qui định một bước chân.

“Đường mà phiến quân Mau Mau thường đi qua,” lúc này Sandy Lang nói với Alex Barr trên hàng hiên mái nhà tranh kiểu Norfolk của Alex, “chúng ta nhất định sẽ đến gần Masai và là một vùng trong khu vực của tôi, tôi không hề nghi ngờ điều đó. Rất nhiều quân phiến loạn đang ẩn náu ở Masai và lọt vào nước ta. Đây không phải là những kẻ săn trộm mà chúng ta vẫn đang lùng sục từ khá sớm; lại là một trò mèo vờn chuột nữa.”

“Tôi cũng đoán thế,” Alex nói. “Ông có ý kiến gì không?”

“Không có gì thật quan trọng ngoại trừ tôi - và, xét theo bộ mã của cậu, thì có thể ngoại trừ cả cậu. Tôi nghĩ có lẽ cậu trông giống như một người nhìn lại thiên đường lần cuối cùng trước khi những tham vọng chính trị của cái thế giới bẩn thỉu này tàn phá nó hoàn toàn. Tôi có nhiều việc phải làm - phải đếm những con sư tử, phải phá tan mấy băng săn trộm, phải bắc lại mấy cây cầu đã trôi mất trong mùa mưa. Tôi nghĩ có lẽ cậu chỉ thích lang thang vài tuần với một cái túi ngủ, một kiểu đi săn không dựng lều.”

“Tôi không nghĩ ra được điều gì hơn thế để làm,” Alex nói và gấp tờ báo lại. “Một lời khen to lớn. Khá là ngoại lệ, phải không?”

“Lần dầu tiên trong vòng ba mươi năm,” Sandy Lang nói. “Ngoại trừ một vài nhân vật đặc biệt quan trọng và một số họ hàng của Thống đốc đôi khi đè đầu cưỡi cổ tôi trong kỳ nghỉ cuối tuần.”

“Hãy để tôi gửi lá thư cuối cùng và đánh một vài bức điện,” Alex nói. “Rồi tôi sẽ là người của ông. Thế một trợ lý gác rừng thường làm gì?”

“Anh ta thường uống rượu và bắn chim cùng với thợ gác rừng chính,” Sandy Lang cười. “Và nghe vô số điều dối trá về cuộc chiến ở Burma mà chẳng buồn quan tâm đến xác suất của chúng. Anh ta luôn đòi đổi lốp xe hoặc bắn một con voi già với thái độ cáu kỉnh và rất có tài trong việc giẫm nát những cánh đồng ngô. Nhưng chủ yếu anh ta đi chỉ để mà đi.”

Vì thế Alex đã lao vào cuộc hành trình, và hình như anh chưa từng thích thú điều gì nhiều như những ngày rực rỡ ánh mặt trời trên những bình nguyên mát rượi - người ta không thể gọi chúng là đồng bằng - của những trảng cỏ vàng và những rừng cây bụi trông như những khu vườn ẩn giấu hàng triệu triệu sinh vật. Vùng Ikoma nối giữa một bên là Masai của Kenya, và bên kia là đồng bằng Serengeti của Tanganyika. Nó là đường đi tự nhiên của ngựa vằn và những bầy thú lớn thường kéo đi tìm cỏ non, là thứ luôn bị ăn cụt ở vùng Ikoma. Lũ hổ báo đi thành đàn, và Alex đã đi đến chỗ coi một số con sư tử là bạn bè.

Chẳng có ham muốn giết chóc, mặc dù hằng ngày vẫn cần đến một số phát súng nhất định để kiếm thực phẩm cho trại. Sandy Lang đã đi thám thính vùng phụ cận cùng với đội gác rừng chừng nửa tá của mình, tất cả đều là những cựu thợ săn trộm, những người canh gác tận tụy này đã được bảo lãnh thoát khỏi trát bắt giam của nhà tù Kingi Georgi Hoteli. Alex và Sandy bắn gà gô và gà Nhật để chén, và đôi khi kiếm cho những người đi cùng một súc thịt lớn. Nhưng chủ yếu là họ đi lang thang một cách hạnh phúc, bắc lại một cây cầu đã mục, khơi thông những đám củi mục làm tắc dòng suối, luôn để mắt canh chừng lều của bọn săn trộm.

Sinh vật đáng kể duy nhất mà Alex đã bắn trong chuyến đi này là một con sư tử. Họ đi theo mấy con linh cẩu, và vòng bay chậm rãi của lũ kền kền, rồi họ thình lình bắt gặp con sư tử trên trảng cỏ nhỏ râm mát. Anh đã thèm muốn, quả thực là như thế, khi nằm im giữa đám ruồi dưới tán lá lốm đốm vàng. Chỗ nấp của anh lơ lửng giữa những hốc núi, còn trống ngực thì đập thình thình dưới lớp da bị gai cào rách tướp. Tai anh ong ong tiếng của bầy linh cẩu - lũ linh cẩu đang ngồi, giống bầy chó, liếm mép thèm thuồng trong khi chờ đợi. Thỉnh thoảng một con linh cẩu đánh bạo tiến lại gần, và con sư tử già lại cố lê mình đi bằng cách thò chiếc chân trước có móng sắc về phía bầy linh cẩu. Sandy Lang thả rơi chiếc ống nhòm có quai da lên ngực ông.

“Con vật già nua khốn khổ,” ông nói. “Đấy là Brutus. Tại sao ta lại không nhìn thấy nó nhỉ. Cậu có biết chuyện gì đã diễn ra trong cái hoạt cảnh này không?”

“Theo tôi thì nó bị gãy lưng, còn bọn hải cẩu thì đang cố làm cho nó kiệt sức, đợi đến khi nó yếu đi để xâu xé nó nhanh chóng.”

“Cậu rất có lý. Cứ thế mà suy ra thì nhất định mai kia chúng ta sẽ nhìn thấy một gã sư tử đực trẻ trung đẹp trai nằm liếm láp vết thương. Rõ ràng là một cuộc tử chiến. Gã trai trẻ đã đá bật được lòng kiêu hãnh của đức ông già, và làm đức ông gãy lưng. Mặc dù vậy, đức ông vẫn là vua ở đây. Nhìn kìa.”

Một con linh cẩu khác mon men lại gần, con sư tử già gầm gừ yếu ớt, khom vai trong một nỗ lực không mấy hiệu quả nhằm tóm lấy kẻ ăn xác chết to gan. Con linh cẩu vội rút lui.

“Bunduki,” Sandy Lang khoát tay ra hiệu cho một trong những người gác rừng của mình. “Bunduki ya Bxvana”. Ông quay sang Alex “Tôi hình dung dáng vẻ nó là của một ông già đã một tuần nay không có cái gì cho vào bụng, và sống lay lắt bằng những hạt sương trên cỏ. Nó không thể lê đến chỗ nguồn nước. Cậu có muốn giải thoát cho nó hộ tôi không, Alex? Nó còn hơn là một người bạn cũ của tôi - một thứ tình cảm ủy mị, tôi xin thừa nhận, nhưng tôi biết nó đã mười lăm năm rồi.”

“Tất nhiên.” Alex nâng khẩu súng trong tay. Họ bước tới gần trảng cỏ nhỏ, và khi họ tới nơi, lũ linh cẩu nhảy lùi ra xa, những bước chân sau khập khiễng bẩm sinh của chúng nhại lại một cách ghê tởm dáng vẻ của con sư tử già bị gãy lưng. Lũ kền kền, đậu trên bụi cây gai và trên mặt đất sau bọn linh cẩu, phần phật vỗ cánh bay lên.

Con sư tử già lúc lắc cái đầu có bộ lông bờm vĩ đại khi họ bước tới, và hướng cặp mắt vàng buồn rầu về phía mấy người đàn ông. Sandy Lang phát ra những tiếng nghe như tiếng gầm gừ cùa sư tử trong cổ họng. “Brutus già đáng thương, lão già tội nghiệp,” ông nói, kết hợp các từ với kiểu nói của sư tử. “Ông bạn già đáng thương. Vĩnh biệt. Bắn lão vào tai ấy, Alex,” ông nói và bỏ ra xa cho đến khi nghe thấy tiếng tạch đơn điệu của phát đạn. Ông đứng lại, và quay người.

“Làm tốt đấy,” ông nói. “Còn bây giờ ta sẽ để nó lại cho lũ linh cẩu và bọn chim. Không!” Ông nói với một người trong nhóm đang tiến về phía con sư tử chết, tay lăm lăm con dao. “Hapana kata ndefu! Để bộ ria của nó lại!”

“Bọn họ sẽ lột sạch nó nếu tôi để mặc,“ Sandy Lang nói. Bọn họ sẽ cắt phăng của quý của nó - pín sư tử nướng cho người ta lòng can đảm. Bọn họ cũng thích ria của nó - ria sư tử tán nhỏ cho vào trà chữa khỏi liệt dương, giống như bột sừng tê giác. Nếu nó có tí mỡ nào trên người thì bọn họ cũng xẻo luôn - để bán cho người Wahindi - vì mỡ sư tử chữa khỏi bệnh lậu, còn vuốt và răng thì làm đồ trang sức. Để nó lại!“ Ông lại nói với đám thợ săn. ”Tôi thà để nó lại nguyên vẹn cho lũ linh cẩu và kền kền, còn hơn để cho những gã da đen dukahwalah khốn nạn xâu xé từng phần của nó.”

Họ quay về chỗ chiếc Land Rover. Ngoái lại sau, Alex nhìn thấy lũ linh cẩu bắt đầu tiến lại, đàn kền kền vừa kêu quang quác vừa đậu xuống sau lũ linh cẩu. Sandy Lang nhìn chăm chăm ra phía trước; và gần như tự nói với mình.

“Tôi không biết,” ông nói. “Tôi thực sự không biết phải giải thích điều này như thế nào. Cậu ở trên đồi một tuần nữa khi chúng tôi khá tuỳ tiện giải phóng thế giới khỏi vài chục quí ngài địa phương. Đừng lo cho tôi, mặc dù cậu cũng sẽ nhớ lại rằng tôi đã yêu cầu. Nhưng tôi luôn thấy buồn khủng khiếp mỗi khi phải tiễn đưa một trong những người bạn của tôi, giống như ông bạn già đang nằm sau lưng chúng ta kia. Đấy là điều phiền muộn chính trong cái đất nước tuyệt diệu chết tiệt này. Chẳng có gì giống như một kết thúc có hậu, cho động vật cũng như cho người. Những sinh vật hoang dã duy nhất được lợi từ cái chết là lũ linh cẩu và kền kền, mà bọn chúng cũng tóm được cái chết khá đúng lúc. Thậm chí linh cẩu có thể ăn thịt chính nó. Chúa trên trời cao hẳn phải rất độc ác khi tạo ra fisi - lũ quái vật lưỡng tính có cái hàm sư tử và cái lưng què quặt. Có bao giờ cậu tự hỏi về điều đó không?”

“Tôi nghĩ tốt hơn ta nên mở một chai và rưới chút gin lên kỷ niệm về ông bạn già của ông,“ Alex nói. ”Thức canh người chết là phong tục ở hầu hết các vùng trên thế giới.”

Sandy Lang lại mỉm cười.

“Có lẽ tôi đã quá quan trọng hóa vấn đề,” ông nói. “Rốt cuộc thì ai chẳng phải chui vào bụng linh cẩu. Cách này hay cách khác thì chúng ta cũng sẽ mất cả của quí lẫn nanh vuốt thậm chí cả râu ria. Tôi nói đây là một ngày buồn. Có lẽ ta nên quên phát súng đó đi và tự an ủi bằng mấy con gà gô bị bắn ở vũng nước gần đây nhất. Dù sao thì tiếng súng cũng thường làm mọi người hưng phấn.”