← Quay lại trang sách

CHƯƠNG 90

“Đây là nơi tôi đã bỏ nhiều tâm trí,” Sandy Lang nói. “Chính thức thì nơi đây thuộc quyền Nữ Hoàng. Không chính thức thì nó thuộc quyền tôi. Còn không chính thức hơn nữa thì nó thuộc quyền Meg, cộng với một con ngỗng lai Digan, vài con công nhập ngoại, ít gà lôi đem từ nơi khác tới, và con gà Nhật đã thuần, đủ chứ?”

“Tuyệt vời,” Alex nói. “Tôi chưa bao giờ muốn rời khỏi đây.”

“Tôi cũng không, trong một thời gian rất dài. Thỉnh thoảng Musoma hoặc Arhusa gọi và tôi phải lưu ý, nếu không sẽ mất việc, nhưng cơ bản đây là nhà tôi.”

Trong hai tuần họ đã đi một chặng đường dài, và giờ đang quay trở về boma - trạm gác khu săn bắn. Người askari nhanh nhẹn đầu đội mũ kêpi bằng vải kaki đứng nghiêm chào trước khi họ nâng chiếc sào dùng làm barie.

“Memsaab iko?” Sandy Lang hỏi viên trung sĩ askari.

Anh ta lắc đầu, đôi vòng tai đu đưa.

“Arusha. Cô ấy bảo, mai về.”

“Tốt rồi.” Sandy Lang nhả côn và quay sang Alex. “Chúng ta sẽ đi về nhà và tắm một trận ra trò.”

“Nếu trên kia có thiên đường thì tôi nghĩ chắc Chúa đã chơi đu ở đây một vài lần,” Alex nói khi họ vượt qua sông, rẽ vào con đường mòn độc đạo bằng đất sét. Những cái cây lớn - những thân cây lớn lốm đốm như da báo xanh nhợt nhạt với chùm quả lớn trên ngọn trông như đám bọt xà phòng vĩ đại, những cây bao báp đỏ tía mềm mại - vươn ra phía con sông. Một bầy gà Nhật ánh xanh bạc lóc tóc chạy qua đường, còn lũ chim câu thì bay lên, đậu xuống, chao lượn trước mặt họ. Có tiếng quang quác của lũ ngỗng Ai Cập ở chỗ vòng của con sông, còn bầy linh dương lông vàng óng ánh thì đứng không hề sợ hãi, nghiêm trang giương mắt nhìn cho đến khi cả đàn nhảy qua như một điệu vũ ba lê. Một con lợn lòi nái, ưỡn ẹo một cách lố bịch với cái đuôi dựng ngược, chạy lon ton vào bụi cây bên cạnh, theo sau là một đoàn bốn con lợn con. Một con hà mã đứng trang nghiêm trên lối mòn, sừng dài, cổ to và bộ lông bờm xờm.

“Nó đã được thuần hóa hoàn toàn,” Alex nói.

“Gần như là những thành viên trong một gia đình. Cậu đã thấy những dấu hiệu cấm săn bắn trong vòng năm dặm quanh boma. Cậu sẽ dễ dàng tìm thấy một hai con sư tử trên bãi cỏ. Meg nuôi chúng, và chúng theo cô ấy về nhà.”

Họ đi hết con đường mòn dẫn tới bãi cỏ màu ngọc lục nhẹ nhàng ôm lấy triền sông. Một ngôi nhà hình vuông xây bằng đá xám với mái bằng tôn đỏ cổ điển, náu mình dưới lùm keo gai vàng lớn. Ngôi nhà gần như vùi dưới lớp hoa - bị phủ kín bởi những đám dây leo vàng rực, bị vây quanh bởi những bụi chuối hoa đỏ pha vàng, căn nhà phụ chìm trong lùm hoa giấy đỏ tía. Những vồng cúc zinia quây gọn ranh giới của bãi cỏ. Hoa đại màu hồng và lan dạ hương mềm rủ cùng với ánh hồng vùng Nandi dát lên bãi cỏ mênh mông. Dâm bụt và trạng nguyên điểm những vệt màu đỏ chói trên giậu cây ba đậu bóng loáng. Một mẫu Anh hình như được dành riêng cho dã yên thảo.

Hai con chó rốt, một con chó chồn và một con chó cốc Tây Ban Nha chồm dậy sủa vang, một chú sư tử con lờ đờ rời khỏi chỗ nằm trong vồng hoa, uể oải tiến về phía chiếc xe. Lũ gà Nhật chạy lóc tóc, còn gã công đực thì vênh váo lại gần, cái đuôi xoè ra thành một chiếc quạt lớn. Bọn gà lôi Mông Cổ thì cẩu thả chạy lẫn vào đám gà chọi cổ vàng địa phương. Giữa bãi cỏ, như thể thách thức du khách bước vào, một loại ngỗng bán hoang dã đang đứng kiễng chân để hét lên tiếng thét xung trận. Gã được đáp lại bởi tiếng quàng quạc khàn khàn từ mé bờ sông.

“Thế con thuyền của ông đâu?” Alex hỏi. “Hình như ở đây ông đã có tất cả mọi thành tố của nó rồi, ông Bwana Nôê.”

“Chúng tôi đang dần dần tiến đến một cuộc sống hoang dã,” Sandy Lang nói. “Nhất là từ khi bọn trẻ lớn lên và nghĩ đến chuyện bỏ đi. Memsaab đã dành tất cả sức lực của cô ấy cho hoa và lũ vật nuôi.”

“Tôi sẽ không sai lắm khi đoán màu ưa thích của cô ấy,”

Alex nói. “Trong đời tôi chưa từng thấy nhiều hoa như thế này bao giờ. Lạy Chúa, kia có thực là hoa hồng không? Chúng to như bắp cải vậy.”

“Meggie luôn hãnh diện về khu vườn của cô ấy,” Sandy Lang nói. “Tôi thề là nếu cô ấy khoan lỗ vào đá hoa cương thì từ đó sẽ mọc ra một thứ gì đó. Công bằng mà nói thì cũng tốt, vì lũ linh dương địa phương đã bắt đầu khoái khẩu món cây cỏ ngoại nhập.”

Họ đi về phía ngôi nhà, nơi cậu bé giúp việc đi chân đất, đầu đội chiếc mũ không vành màu đỏ, mình mặc chiếc áo choàng dài màu trắng đang giữ cánh cửa mở. Chú sư tử non - không phải là non, Alex nghĩ, khi nó nhảy đùa vào chỗ thắt lưng anh - rõ ràng có ý định đi theo họ vào trong nhà, cùng với bốn con chó và gã ngỗng lai đang lạch bạch theo sau.

“Xùy, lũ chúng mày quá lắm rồi đấy!” Sandy Lang đá nhẹ vào mông con sư tử, và lấy tay xua xua lũ cho và ngỗng đang bám theo “Đi đi!”

Ông lắc đầu nhìn Alex.

“Bọn chết tiệt này sẽ theo tôi vào tận giường nếu tôi để mặc chúng,” ông nói. “Ở đây chúng chỉ dám nhờn với Mem, và cô ấy để chúng tự tung tự tác. Xin mời cậu vào thăm tòa lâu đài của tôi. Tôi đi xem Molo đã lấy đá ra chưa, chắc chắn là nó đã nghe thấy tiếng xe ôtô. Cậu uống gin chứ?”

“Hẳn rồi.” Alex nhìn quanh phòng, nơi ít nhiều mang dáng dấp một trang ấp vùng Đông Phi. Da báo phủ lên lưng những chiếc đivăng bọc da, và leo trên những bức tường lát ván gỗ tuyết tùng. Lò sưởi, đầu thú, ngà voi, sừng, da, sách, ca thiếc. Alex cười vui vẻ.

“Tôi thấy mình như đang ở nhà,” anh nói. “Tôi cũng có một chỗ giống hệt thế này ở New Jersey song có hơi ít thú nuôi. Kể tôi nghe làm thế nào ông không cho lũ thú ăn thịt ở vùng này nhai sống nuốt tươi bọn thú cảnh của ông? Tôi nghĩ số bị chết hẳn là rất đáng kể.”

Sandy Lang đã pha xong hai cốc rượu, ông đưa một cho Alex.

“Không khó lắm. Có một thằng bé trông nom chúng. Việc ấy cũng dễ. Nó chỉ có mỗi một nhiệm vụ - lùa tất cả bọn lông vũ vào chuồng trước khi trời tối. Nếu không thì chồn, báo và chó rừng... Mấy con chó ngủ trong nhà, còn con sư tử - tên cô ả là Sheba - thì tự đi lang thang một mình. Những khi Meg ở đây thì con sư tử ngủ với cô ấy. Cô ấy không thích tôi cho lắm.”

Alex thả mình xuống chiếc ghế bọc da lốm đốm và duỗi đôi cẳng dài của anh về phía ngọn lửa mà Sandy Lang vừa nhóm lên.

“Trong đời tôi đã gặp vô khối người giàu,” Alex nói. “Nhưng sau mấy tuần vừa rồi...” anh lắc đầu, vẻ hoài nghi, “thì ông là người giàu nhất mà tôi từng biết.”

“Tôi khá đồng tình với cậu,” Sandy Lang hào hứng nói. “Ít nhất trong lãnh địa của tôi thì tôi là Chúa tể của tất cả những gì mà tôi tìm ra, mà ở đây lại có vô số thứ để tìm kiếm, khi cậu để ý đến việc tôi phải trả tiền mua xăng. Này, Molo, kuza hapa!”

Cậu bé giúp việc bước vào, đứng yên, hai tay gập chéo qua chiếc kanzu trắng.

“Bafu wawaile. Bwana Alex kwanza. Maji moto chết tiệt, sikia?”

Ông nhìn đồng hồ đeo tay.

“Tôi nghĩ chúng ta sẽ đi tắm trước khi ăn. Tôi đang đứng cuối hướng gió của chính tôi và không thích cái mùi ấy một tẹo nào.” Ông quay sang cậu bé giúp việc. “Na leti chakula saa nane.” Cậu bé cúi chào và ra khỏi phòng.

“Tôi hiểu lõm bõm chữ chết tiệt, moto và maji” Alex nói. “Nhưng về thời gian thì tôi luôn mù tịt… Ông vừa bảo cậu ấy là chúng ta sẽ ăn vào lúc nào?”

“Khoảng tiếng rưỡi nữa. Saa nane nghĩa là lúc hai giờ, vì kể từ lúc 6 giờ sáng thì đã được tám tiếng rồi. Một ngày nào đó, sau khi Bộ Tài chính huỷ bỏ việc buôn bán bằng đồng bảng, đồng shilling và penxơ, chúng tôi sẽ dạy cho mọi người cách tính toán theo một kiểu ít phức tạp hơn. Ta vẫn còn thời gian uống thêm một ly gin nữa trong khi thằng cu ấy đun nước bafu cho cậu.”

Alex ngồi lút sâu vào ghế, ngọ ngoạy một cách dễ chịu. Anh nhìn người bạn đang đổ angostua đắng cho tới khi nó tràn đầy ly. “Ông biết không,” anh nói, “kiểu sống này thật là tuyệt cho những người được hưởng.” Anh khoát tay chỉ bức tường đầy sách, phần lớn được bọc da, những trang giấy quăn tít ngả vàng do thời gian, trừ một dãy sách bìa mềm hiện đại. Anh hất cằm về phía ngọn lửa.

“Những người da đen nghèo khổ bị chà đạp mà ông đang áp bức phải chống lại cái chết, hằng ngày. Tất cả những bông hoa kinh tởm đó đang làm bừa bộn nơi mà lẽ ra chỉ là ximăng chứ không phải là cỏ. Sư tử đứng bên chó. Rượu nằm trong tủ buýt phê, nước tắm đã sẵn sàng, thức ăn sắp dọn. Chẳng còn việc gì phải làm ngoài việc ngồi ngắm nhìn cảnh vật và đếm lũ công sau khi đã đếm xong bầy sư tử. Mà ông lại còn được trả tiền để làm việc này.”

“Đừng có nói với ai đấy,” Sandy Lang mỉm cười. “Bao năm nay tôi mất ăn mất ngủ sợ họ phát hiện ra cách mưu sinh của tôi và lấy mất công việc ấy.”

Họ tắm trong dòng nước có mùi gỉ sắt, và ăn thịt gà gô nguội với salát, rồi Alex đi kiếm chỗ ngả lưng trong khi người bạn của anh tới văn phòng để làm nhiệm vụ của một phóng viên Chính phủ. Alex thức giấc vào lúc bốn giờ, và thấy Sandy Lang trên bãi cỏ, đang nói chuyện với một phái viên của bộ lạc Wa lkoma - người vẽ màu vàng, giống bộ lạc Masai, ngọn giáo dựng thẳng khi viên tộc trưởng ra hiệu. Mấy chiếc sọ bò, bốc mùi hôi hám và vẫn được che phủ phần nào trong đống thịt thối.

“Một rắc rối với người dân địa phương,“ Sandy Lang nói. ”Bọn giết trộm gia súc trong vùng. Tôi chẳng tin một lời nào cả.

Bây giờ họ đòi chính phủ bồi thường cho con vật đã bị giết chết. Tôi nghĩ thực ra chính họ đã giết rồi ăn thịt nó và mang đến cho tôi cái đầu cùng với cặp sừng, và đổ tất cả tội lỗi lên đầu một Simba già đáng thương nào đó. Được rồi, được rồi!“ Ông nói bằng tiếng Swahili với ông già tóc hoa râm. “Hãy chỉ cho tôi chỗ nó đã giết con bò cuối cùng, và đêm nay chúng tôi sẽ phục kích nó.”

Quay sang Alex, ông nhún vai.

“Hầu như lần nào tôi ở nhà cũng thế này cả. Lão già luôn giữ khư khư trong cái đầu không có óc của lão nỗi ám ảnh về một tên ăn trộm gia súc. Thế nên tôi - hay chúng ta, nếu cậu đồng ý - sẽ phải nằm phục quanh một cái xác đã bốc mùi và rình mò một con sư tử kém may mắn nào đó. Nếu không thì vị tù trưởng này sẽ làm om sòm ở chỗ ông quận trưởng, rồi ông này lại đưa vụ om sòm đó về Washington, và khi ở đó đạt được sự nhất trí thì họ sẽ trách mắng tôi thậm tệ bằng sáu nghị định mới về vấn đề này.”

Ông quay lại với vị tù trưởng, mỉm cười.

“Kwaheri, quỷ tha ma bắt đôi mắt ti hí đỏ ngầu của lão đi,” ông nói bằng một giọng rất lễ độ. “Biến đi, và ta hy vọng mụ vợ trẻ nhất của lão sẽ lấy được bệnh lậu từ gã nhân tình mới nhất và sẽ tặng nó cho lão.”

Viên tù trưởng mỉm cười sung sướng, cùi gập người chào và oai vệ bỏ đi, bước chân sải dài y như con cò trên đôi cẳng gầy guộc màu nâu đầy những vết mụn trắng, chiếc áo choàng đỏ bay phấp phới để lộ ra nửa thân trên.

“Cậu biết đấy,” Sandy Lang nói với Alex, “thực ra thì tôi không định nói những điều mà tôi đã nói bằng tiếng Anh. Họ là những người khá dễ chịu, những gã Ikoma đó, nhưng họ bắt đầu hỏng rồi - trở nên rất chính trị như tất cả những người khác. Những người già sẽ mặc quần và đội mũ trong một hai năm nữa, khi những câu chuyện bịa đặt về tiến triển chính trị lọt ra từ những người bạn của chúng ta ở bên kia dãy núi Kenya. Đồng thời, mẹ kiếp, tôi nghĩ là mình phải đi và bắn một cái gì đó để làm dịu lão già ấy, nếu không là lão sẽ cho trai tráng giết sạch lũ sư tử của tôi bằng giáo mác hoặc tên tẩm thuốc độc.”

“Tiếc là chúng ta không mang theo con sư tử già bị gãy lưng ấy,” Alex nói. “Chúng ta có thể đổ tội cho nó.”

“Đôi khi, rất hiếm tôi phạm sai lầm,” Sandy Lang nói. “Đi thôi, hãy mang cái torchi lớn đi và đừng có bỏ lỡ một cảnh bạo lực đấy.”

“Đèn pin? Nhưng như thế là trái luật.”

“Là trái luật nếu cậu dùng,” Sandy Lang nói. “Nhưng sẽ không trái luật nếu tôi dùng. Nếu cậu nghĩ tôi chỉ nói đùa chứ không bắn gục những người bạn của tôi thì cậu nhầm đấy. Chúng ta sẽ phục kích một cách khá dễ chịu quanh cái xác trên chiếc Rover. Con sư tử, nếu có, sẽ đến chỗ cái xác. Chúng ta sẽ chiếu đèn vào cái mặt con thú đáng thương ấy, làm nó lóa mắt, và bắn vào khoảng giữa hai mắt nó. Sau đó chúng ta mang xác nó đến chỗ viên tù trưởng, và đi về nhà - nếu chúng ta may mắn để uống một ly. Nếu rốt cục tôi phải làm việc này thì tôi cũng có thể làm nó một cách hợp lý chứ.”

Họ, hay đúng hơn, Sandy Lang - đã bắn con sư tử, và nó hóa ra lại là một con sư tử cái đã rụng hai cái răng nanh, còn hàm thì cứng đơ đầy mủ do bị mấy cái lông nhím cắm vào từ lâu. Nó đã già, và, như Sandy Lang nói, chỉ khoảng một tháng nữa là trở thành con thú ăn thịt người.

“Sẽ chẳng có nhiều thức ăn cho một con thú già,” Sady Lang nói trong khi chiếu chiếc đèn pin lớn lên cái xác. “Tôi ngạc nhiên thấy nó có thể giết được, cho dù là một con bê bé tí. Bước tiếp theo sẽ là người, và rồi chúng ta sẽ có thêm những chính kiến từ cư dân thành phố. May mà nó không phải là đực. Họ có thể làm một cái mũ mới cho ông già bằng cái bờm.”

Họ vượt qua bình nguyên, đi về nhà, sau khi đã quẳng xác con sư tử cái xuống trước cửa nhà viên tộc trưởng. Trăng lơ lửng trên cao, và Alex ngạc nhiên thấy người chủ nhà của anh hát khẽ, hoàn toàn sai nhạc.

“Ánh trăng khiến tôi muốn sủa,“ Sandy nói. ”Tôi cũng mừng vì chúng ta được về nhà sớm. Chúng ta có thể chợp mắt trước lúc nửa đêm, và sẽ thật đáng yêu và sạch sẽ để ra mắt nàng Mem bé nhỏ khi cô ấy đến đánh thức chúng ta dậy vào sáng mai.”

“Tôi đã kể với anh,” Alex nói, khi xe họ nảy chồm chồm băng qua cánh đồng đầy vết chân thú, “rằng ngôi nhà của ông gợi cho tôi nhớ đến ngôi nhà của tôi - một lãnh địa nằm ở Jersey. Tôi đã mất cả nửa cuộc đời để cố giải thích cho khách khứa rằng những thứ tôi treo trên tường hoàn toàn giống những thứ chúng ta đã bắn - những con vật già nua, bất hạnh, quá tuổi sinh sản, và nói chúng là khốn khổ. Nếu không thì chúng đã không tạo ra được một chiến tích. Phần lớn những người già đều cần một bức tường để lưu giữ lại chính họ cho hậu thế, hoặc là họ sẽ kết thúc giống như con sư tử gãy lưng, hoặc như con sư tử cái già khốn khổ tối nay.”

“Đúng đấy, cậu biết không,” Sandy Lang nói. “Mỗi năm tôi đã bắn chừng nửa ngàn con thú để bảo tồn. Cậu có những con voi di cư, tất cả mọi đường từ Addis tới Rhodesias, và một số con bò đực già bị ruồng bỏ luôn phát điên, một số con bò cái già hết sữa phát cuồng. Cậu có những con thú ốm đau què quặt khập khiễng mù lòa, và tất cả chúng đều muốn được kết liễu.”

“May là chúng ta không có những người gác rừng cho con người,” Alex nói. “Trừ một vài ngoại lệ, thì ai lại muốn sang thế giới bên kia vì lợi ích của chính mình?”

“Không phải tôi,” Sandy Lang nói. “Sẽ không thể có ai đó dành cho tôi ơn huệ to lớn ấy.”

“Tôi cũng không,” Alex nói. “Ô hô, Bwana Gác rừng. Hình như có chuyện ở boma.”

“Lại rắc rối, lúc nào cũng rắc rối,” Sandy Lang nói.

Họ nhanh chóng lái xe tới chỗ barie, và viên askari đầy kích động nói bằng một thứ ngôn ngữ lạ mà sau đó Alex nhận ra là tiếng Wa Chagga. Sandy nguyền rủa và nhấn ga, xoay mạnh vô lăng khi người lính gác nhảy lùi ra xa.

“Anh ta nói gì vậy? Mới năm phút trước đây ông còn rất hồ hởi cơ mà.” Câu hỏi của Alex được đáp lại bằng một tràng chửi rủa. “Hãy giúp tôi giết nó, chính tay tôi sẽ chặt nó ra từng khúc!”

“Ai kia? Ông đang nói về chuyện gì vậy?”

Sandy Lang nghiến răng.

“Chờ đã. Trước tiên tôi muốn xem mức độ tàn phá.” Ông lái ngoặt chiếc Rover vào sân sau, và nhảy bổ ra ngoài, mặc cho chiếc xe vẫn lăn bánh. Alex nhoài người sang tắt khoá điện.

Cậu bé giúp việc, Molo, đang đứng ở cửa, nhưng lúc này tay cậu ta không khoanh trước ngực. Hai tay cậu vặn vào nhau, và dưới ánh sáng phát ra từ chiếc đèn khí mà cậu bé đang cầm, Alex suýt thề rằng khuôn mặt nâu của cậu ta tái xanh như chàm đổ.

Sandy Lang giật lấy chiếc đèn khỏi tay cậu bé.

“Hãy nhìn bãi chiến trường này,” ông rít qua kẽ răng. “Chúa ơi, tôi biết ăn nói làm sao với Meg khi cô ấy về. Tất cả chúng nó.”

Alex vội vã chạy lại, cố theo kịp sải chân dài của người đàn ông cao lớn. Anh kéo mạnh tay áo Sandy.

“Anh không phiền nếu phải cho tôi biết điều gì đã làm anh nổi trận lôi đình chứ?”

“Không,” Sandy cắn cảu nói, “tôi không phiền đâu, nhưng giá như tôi không phải giải thích thì hơn. Chuyện đã xảy ra, theo như tôi hiểu, là thằng chăn gà đó đã say khướt hoặc hút quá nhiều bhang rồi quên khóa cửa chuồng. Một con chồn mật đã phá được cửa và giết mất khá nhiều, mọi người nói thế.”

Sandy Lang đặt phịch cái đèn xuống trước cửa chuồng gà mái và nhìn những vết cào.

“Ratel, được rồi. Lũ súc vật khốn nạn đó có thể đào cả đường hầm qua một cái lỗ bé xíu. Vuốt như vuốt gấu.”

Ông lại nhặt đèn lên và chiếu nó và trong chuồng. Khắp nơi nồng nặc mùi máu, lông và phân. Chẳng còn con vật nào sống sót, song đều không hề bị ăn thịt. Chúng nằm thành đống, nào công, nào gà lôi, nào gà Nhật, nào ngỗng, nào gà gô, nào vịt. Những cái cổ họng bị xé toang.

Sandy Lang lấy tay che mắt.

“Đi thôi,” ông nói. “Chúng ta vào nhà uống một ly mừng mười năm nỗ lực đã thành công cốc.” Ông giơ cái đèn lên cao, và Alex có thể nhìn thấy nước mắt ông đang chảy.

“Nhìn. Chỉ nhìn thôi. Con thú khốn nạn ấy không buồn ăn những kẻ mà nó đã giết. Nó chỉ giết chóc cho vui rồi lẩn đi chỗ khác. Giống như người. Đi thôi nào! Tôi không tin là đêm nay mình có thể nói chuyện với cái thằng chăn gà đó. Tôi nghĩ mình có thể nện chết nó.”

Tay Sandy Lang run bần bật khi ông rót rượu Scotch nguyên chất vào hai cái ly.

“Xin lỗi cậu vì vở bi hài kịch vừa rồi, Alex,” Ông nói, giọng đã bình tĩnh. “Đây không phải là chuyện mấy con gà bị chết, mặc dù có Chúa biết là Meg sẽ tan nát cõi lòng khi tôi kể với bà ấy là tất cả công sức, tất cả thời gian của bà ấy đã đổ ra sông ra biển chỉ trong một đêm. Quỉ tha ma bắt những kẻ đã đưa tôi đến bước đường cùng. Cái thằng nugu ngu ngốc đó chỉ có mỗi một việc, là khóa lũ gà lại, thế mà nó đã hút thêm một điếu gai dầu hoặc nốc pombe say khướt và quên sạch mọi mục đích của đời nó.”

Sandy Lang ngồi phịch xuống ghế.

“Thực ra, cậu không thể hiểu được đâu - cái tâm trạng chán chường khi phải làm việc với người Phi. Tôi nghĩ chẳng có ai ngoài dân bản xứ làm được. Nhưng cậu không thể giao phó cho họ bất kỳ việc gì cần đến một ý thức thông thường. Cậu nhờ một người đi tìm cái mũ hộ cậu, nhưng rồi gã lại đi lang thang hái hoa bắt bướm. Việc duy nhất mà người châu Phi thành thạo là ngồi chờ. À, quỉ bắt...”

Ông vỗ tay. Cậu bé giúp việc xuất hiện, vẫn có vẻ hoảng sợ.

“Mambia askari leti đặt bẫy,” ông nói. “Upese!”

“Nó sẽ quay lại. Nó chưa thỏa cơn say máu đâu.”

“Này,” Alex nói, sau khi viên askari đã mang bẫy đến và nghe hướng dẫn. “Chỉ là một vụ ẩu đả nhỏ thôi mà. Vài con gà chết.”

“Năm mươi tám con bị chết, và tôi còn phải giải thích vụ tai nạn đó cho Memsaab nữa chứ,” Sandy lại nghiến chặt răng.

“Tôi cần được bổ túc một chút về tự nhiên. Thế cái giống chồn mật ấy chính xác là thứ quái quỷ gì vậy?”

“Đúng ra nó được gọi là ratel. Một loài chồn lớn. Sống ở châu Phi và Ấn Độ. Nó thích mật ong - và mọi loài lông vũ. Nó không to lắm - cỡ bằng giống chồn gulô. Có chung một số đặc điểm - vuốt dài, răng sắc, da dai. Và lỳ lợm, thật lỳ lợm. Như một kẻ máu lạnh giết người để giải trí,” Sandy Lang nói, và nhe hàm răng ra. “Giống như tôi và cậu. Trừ tính lỳ lợm của nó.”

“Cái gì đã làm nó lỳ lợm như vậy?”

“Tôi không biết. Thổ dân có truyền thuyết kể rằng da nó dai đến mức khi mò vào tổ ong không một con ong nào có thể đốt được nó. Họ còn nói nó có một khối xạ trong ruột cho phép nó xả ra hơi độc khi mò vào tổ ong và làm lũ ong mê đi bằng hơi thở của nó. Điều này thì tôi không biết; tất cả những gì tôi biết là nó có thể và sẽ phá tan một bầy ong đốt chết được một con sư tử.”

“Táo tợn thật, con thú bé nhỏ này. Sao nữa?”

“Nếu so sánh theo cân lạng thì có lẽ nó là giống vật khỏe nhất và độc ác nhất thế giới, Và nó khác hầu hết những con thú khác ở cái cách nó tấn công con mồi. Bọn thú ăn thịt bình thường, bị dồn vào đường cùng và phải chiến đấu để sinh tồn, sẽ tấn công vào cổ đối phương. Nhưng những con chồn mật bé nhỏ thì không. Chúng sẽ nhằm thẳng vào của quý của cậu. Người Wog cực kỳ khiếp sợ nó chính là vì lý do này. Dù sao thì họ cũng hơi coi trọng quá mức cái ấy”.

“Xem ra khó có cảm tình được với cái con chồn mật của ông. Nó gợi cho tôi nhớ đến một vài người mà tôi biết,” Alex nói. “Còn gì nữa không?”

“Ít lắm. Tôi sẽ chẳng bận tâm đến chuyện con vật nhỏ bé ấy đã làm gì, mặc cho nguy cơ bị thiến, nếu nó giết để kiếm thức ăn. Nhưng nó lại giết chóc để giải trí và hoàn toàn chỉ vì độc ác.”

“Tôi đã thấy chuyện này xảy ra với lũ sóc, ở Mỹ,” Alex nói. “Sóc đực luôn tuân thủ rạch ròi kỹ thuật cắt xẻo. Tôi nghĩ chồn và sóc - và có lẽ cả giới phụ nữ Mỹ hiện nay - có điểm gì đó chung. Mẹ tôi đã thực hiện thật hoàn hảo công việc đối với người cha già của tôi, còn trước đó là mẹ của mẹ tôi với ông tôi.”

“Tôi chẳng biết gì về chuyện ấy,” Sandy Lang nói. “Điều mà tôi biết là cái này.” Ông bước tới chỗ lò sưởi và lấy ra từ cái hòm bằng đồng thau cũ kiểu Đức một chiếc gậy đi dạo, kiểu gậy đánh gôn có nhiều mấu.

“Tôi sẽ không đập vào cái ấy của nó khi chúng tôi tóm được nó,” Sandy Lang nói. “Tôi sẽ đập phọt óc nó ra bằng cái rungu này. Đấy sẽ là niềm an ủi nhỏ nhoi cho việc phải nhìn thấy khuôn mặt của Meggie khi bà ấy biết tin vào ngày mai, nhưng thà ít còn hơn không có gì. Ít ra thì việc đó cũng làm tôi cảm thấy nhẹ nhõm hơn.”

Ông dựng cái gậy cạnh ghế.

“Nếu muốn cậu có thể đi ngủ đi, Alex,” ông nói. “Nhưng tôi sẽ ngồi đợi cho đến khi nghe thấy tiếng bẫy sập xuống và tiếng gầm thét của con vật mắc bẫy. Nếu cậu thích được nhìn một con vật độc ác bị dồn vào đường cùng, thì tôi khuyên cậu nên đợi cùng với tôi.”

“Tôi sẽ đợi,” Alex Barr đáp. “Về mặt này thì ông có thể yên trí. Những ngày mà người ta có thể đánh bẫy một con vật ghê tởm và tự tay đập vỡ sọ nó thật rất hiếm hoi.”