← Quay lại trang sách

CHƯƠNG 125

Nhờ may mắn họ đã tìm được một căn hộ - khu kinh doanh, ngay gần công viên Gramercy. Đó là căn hộ cho thuê lại của một hợp tác xã, không quá lộng lẫy hoặc rộng rãi như căn hộ tầng mái cũ, nhưng sáng sủa, thoáng đãng và được bài trí trang nhã. Họ sẽ, Alex và Penny bảo nhau, sống ở đây trong một hai năm tới, cho đến khi tìm được một nơi nào đó thật sự của riêng họ, và họ có thể bắt đầu tích cóp đồ đạc cho nó từ sàn tới nóc. Alex thầm cảm ơn Chúa; ông đã phải trả tiền đồ đạc của hai ngôi nhà, và đã nhận thức được sự tốn phí cay đắng của gạt tàn và rèm cửa. Họ được chủ nhà, một phụ nữ mới goá chồng đang đi nước ngoài để quên đi người chồng cũ và tìm kiếm một người chồng mới, gia hạn cho thuê hai năm.

Việc quay trở lại sống ở thành phố, sau một năm trong rừng rậm châu Phi và một thời gian dài bên hồ nước ở New Jersey, có vẻ khá lạc lõng. Nó quá, quá ồn ào. Nó thô tục, và giao thông thì hình như luôn tắc nghẽn. Một hạt mưa cũng đủ làm giao thông bế tắc; một bông tuyết cũng khiến thành phố hoàn toàn đình trệ. Bạn không thể gọi được taxi, thậm chí là vào ngày đẹp trời trước mười giờ tối. Còn dòng người thử vận may vào lúc năm giờ, hoặc trong nhà hát thật điên rồ. New York đầy những con chim bồ câu xám xịt, những con người còn xám xịt hơn và bệnh cúm châu Á, đầy những cuộc bãi công, những vụ cãi lộn và những cuộc tuần hành. Alex nghĩ tới những tối bên đống lửa ở châu Phi, những ngày yên ả bên bờ hồ ở Jersey, và thầm thở dài. Nhưng ông sẵn sàng chịu đựng vết cứa vào hệ thần kinh ấy, vì cô dâu của ông có vẻ sung sướng vô ngần khi lại được ở gần hiệu làm đầu. Sống ở Jersey, Alex không còn cảm thấy lạ lẫm với việc cưới một cô gái chỉ bằng nửa tuổi ông. Sống ở New York có một sự khác biệt - một sự khác biệt rất rõ ràng. Ông không còn hay đi đây đi đó nữa, và khi ra khỏi căn hộ mới của mình, hiếm khi ông tới nhà những người quen biết - như nhà Hazaltine, ông giễu cợt nghĩ - mà chỉ đến những nơi công cộng. Sự chênh lệch tuổi tác đã tạo ra sự khác biệt. Những người mà ông vẫy tay chào hoặc gửi một cái hôn trong các quán ăn thường bằng tuổi ông hoặc già hơn. Họ nhìn bà Barr mới với vẻ đánh giá, và dừng lại bên bàn để chào, nhưng hiếm khi họ mời đi uống hoặc đi ăn. Sau hết, tất cả bọn họ ít nhất là già bằng hoặc đôi khi già hơn ông nhiều. Họ đã lập ra những nhóm cho mình ở Greenwich, Bucks và Hamptons. Alex nghĩ khá buồn rầu rằng họ quan tâm đến mối quan hệ thân thiết với vợ ông không nhiều hơn với con gái ông, nếu ông có một đứa con gái. Ở “21”, ở Colony hoặc (và nhất là) ở những chốn quen thuộc trên đại lộ số Ba như quán Clarke và Costello, ông cảm thấy hơi xấu hổ, như thể ông đã mang một đứa bé đến bữa tiệc dành cho người lớn. Những người hầu nhìn ông với vẻ chê trách “chậc chậc, nhìn ông Barr kìa!” Và Alex cảm thấy, ít nhất là Tim sắp khuyên ông đừng có, như Costelio thường gọi “quắc cần câu trong quán của tôi.”

Alex thấy mình đang lặp lại những chuyến đi chơi ngày xưa tới vườn bách thú với Penny. Ông dẫn một đứa trẻ đì chơi: thu xếp cho cuộc picníc ngày thứ Bảy và bữa liên hoan cho ngày Chủ Nhật trời mưa, để đứa trẻ được thích thú. Đứa trẻ mà, theo cách nào đó, hoàn toàn không xứng là vợ ông.

Penny là khái niệm hoàn hảo về vợ của một nhà văn hiện đại. Cô rón rén đi lại trong ngôi nhà mới và hãnh diện không bao giờ đột nhập vào căn phòng nhỏ mà ông gọi là văn phòng. Một căn phòng chẳng rộng rãi gì (Alex lại thở dài khi nhớ đến phòng làm việc rộng thênh thang ở căn hộ tầng mái, với quầy rượu, giàn hifi, những dãy sách dài, một bộ Bách khoa toàn thư Anh, một hành lang dài cách xa những phần khác của căn nhà). Đây chỉ là một căn phòng, với một cái bàn, một cái máy chữ, vài giá sách ít ỏi, chiếc ghế bọc da màu xanh tiện lợi và chiếc đivăng màu đỏ vỏ quýt dễ thương. Nhưng căn phòng chẳng đủ chỗ để đi đi lại lại: chẳng đủ chỗ cho một thư ký hoặc, về mặt này, để đung đưa một con mèo.

Nó không có lò sưởi để đốt lửa, không có chỗ để vứt giấy lung tung. Và cả toà nhà đã được hiện đại hoá. Người ta có thể nghe thấy tiếng nước giội toilet ào ào ở khắp nơi, và chương trình tivi của người khác xen thẳng vào cuộc trò chuyện của bạn.

Đó là căn hộ để ra đi. Nó giống như cuộc phiêu lưu của mọi người để nếm mùi vị dễ chịu của Ngôi nhà và Vườn cây, và những chiếc gạt tàn quá nhỏ. Nếu bạn đứng lên và nhìn ra ngoài cửa sổ thì tất cả những gì bạn thấy là một chú chim bồ câu trên bậu cửa. Báo và tạp chí chất đống đến khó tin trên bàn cà phê. Căn hộ có một quầy bar nhỏ với những bức hình Stenberg ngộ nghĩnh trên giấy dán tường, và chẳng có chỗ để đặt ly và chai đúng tầm tay của người rót. Những bản sao tranh biếm họa tức cười được đóng khung lấy từ tờ The New Yorker vẫn còn trên tường. Căn hộ có tất cả mọi thứ trừ một chiếc ống nhỏ lớn bằng đồng để mang lại cho nó một không khí hội hè giả tạo.

Toàn bộ chỗ ở chết tiệt ấy khiến Alex bực dọc, và vì bực dọc, ông hoà nhập vào một cuộc sống mới xa lạ cùng với người vợ trung thành của ông. Đó là hình ảnh lặp lại, ông nghĩ, của Barbara Bayne - giờ đây ông đang trốn tránh vì cùng mục đích đã dẫn ông tới quá nhiểu quán rượu và đưa quá nhiều chất độc vào gan ông.

Đó là sự thật. Ông cảm thấy có trách nhiệm làm cho Penny vui vẻ vào những giờ buổi tối, sau một ngày bên máy chữ hoặc với chiếc bút chì. Thật không công bằng, ông nghĩ, khi để một cô gái phải rón rén quanh quẩn suốt ngày ở nhà, vì sợ quấy rầy công việc của một nhà văn vĩ đại, chỉ để nghe anh ta phàn nàn rằng cái lưng làm cho anh ta khốn khổ, rằng anh ta thường xuyên bị đau vai, và rằng điều anh ta muốn nhất bây giờ là nằm dài với một ly rượu, tờ báo buổi sáng và sau đó đi ngủ. Cũng thật không phải khi khoe khoang thành tích mới nhất trên mặt giấy - nhìn cô căng mắt khó nhọc đọc những bài viết mà cô không thể đánh giá được. Một nhà văn viết lách suốt ngày. Anh ta không phải nói chuyện về việc viết lách suốt đêm nếu anh ta có một cô vợ trẻ và đẹp.

Và còn điều này nữa. Ông vẫn thường nói, nửa đùa nửa thật, rằng ông có thể viết hoặc có thể uống. Giờ đây ông buộc phải thừa nhận dứt khoát rằng ông có thể là nhà văn hoặc là người tình, nhưng là cả hai thì hầu như không thể được. Nếu đang viết, ông thường mang theo vào giường quá nhiều những nhân vật xa lạ. Nếu đang yêu, ông thường quên mất những nhân vật đó như thế nào - họ đang nghĩ, nói hoặc làm gì. Ông đã gặp vấn đề này với Barbara Bayne, người đã làm ông xao lãng. Giờ ông lại gặp chính vấn đề này với người vợ mới, người thậm chí còn làm ông xao lãng hơn, vì địa vị của cô, và cũng vì - lại thế rồi - sự chênh lệch đáng sợ về tuổi tác.

Sự thực là họ chẳng có gì nhiều để nói ngoại trừ nói về nhau, về mẹ cô, và về cuốn sách chết tiệt. Ông đã nhanh chóng cạn những câu chuyện gẫu hiện thời - và cô, không cô sẽ nói, thích đào bới quá khứ của người khác. Cuộc sống xã hội của họ gần như chỉ hạn chế trong bạn bè cô; bạn bè ông cũng là bạn bè của Amelia, và trong lúc họ còn đủ lịch sự... vâng, công bằng, thì họ lại không muốn lâm vào nguy cơ của một cuộc chạm trán đầy lúng túng với Amelia, và họ không mấy quan tâm đến một người vợ mới còn trẻ hơn con gái của họ.

Có lẽ Alex Barr đã phát khóc vì thất vọng, nếu ông là người dễ khóc. Vì ông không, ông phải bày trò chơi cho đứa bé không thể (ông nghĩ) hiểu được giá trị kiến thức của ông trong những cuộc trò chuyện bổ ích như ông đã có với Ben Lea, người đã chết, hoặc với Marc Mantell, người vẫn còn sống. Bạn phải giải thích dần dần, như tại sao Lou Gehrig lại được gọi là Ngựa sắt, và Damon Runyon là ai trước khi ông trở nên nổi tiếng sau khi chết theo phương pháp làm quen dần dần qua từng giai đoạn của Abe Burrows trong Người đẹp và Quái vật.

Khía cạnh sau này đã trở nên rõ ràng một cách đau đớn vào một tối khi Marc Mantell tạt vào uống một ly. Alex đang cảm thấy khá hoan hỉ. Người đại diện của ông đã đọc nửa đầu của dự án mới và rõ ràng là rất phấn khởi. Có lẽ hai ly martini đầu tiên đã làm cho ông vui vẻ hơn chút ít so với thường lệ, ông và Marc Mantell nói chuyện lan man về những ngày xưa tốt đẹp. Tất cả bắt đầu từ một lời bình luận vu vơ nào đó mà Marc Mantell buông ra về một số nhà văn cùng thời với họ - luôn là một chủ đề ưa thích - và nỗi khó khăn của việc chiều theo thị hiếu xuất bản của báo chí hiện nay.

“Đôi khi tôi cảm thấy như mình vẫn sống trong thời kỳ dầu gan cá moruy, ” Marc Mantell nói, “Hoặc giai đoạn Castoria của Fletcher. Bây giờ còn đứa trẻ nào được nuôi bằng dầu cá moruy hoặc khóc đòi Castoria của Fletcher nữa? Ngày nay có ai từng nghe nói về Máy hơi di động hay Mũi tên xuyên?”

Alex cười khoái trá.

“Ông, tôi và John O'Hara. John đã làm sống lại tất cả, và ông ấy làm cho độc giả vẫn nhớ về điểu đó.”

“Đúng, nhưng anh ta chủ tâm viết theo kiểu thời kỳ ấy, và anh ta đủ khôn để phô phang nó bằng cách gọi giày cao su là ”ủng bao“ và cho người đàn bà của anh ta mặc áo khoác kiểu hải quân và cắt tóc ngắn. Chế độ kỹ trị vẫn là một thực tế đối với Jawn.”

Penny ngồi lặng lẽ trong góc, theo dõi từng người nói như khán giả trong một trận tennis. Tay cô khoanh lại để trong lòng, đầu gối chụm vào nhau, như một đứa trẻ ngoan khi có mặt những bậc cha chú. Cô giữ tư thế này trong một nỗ lực dũng cảm, cố ngậm chặt miệng.

“Lạy Chúa, đôi khi tôi cảm thấy mình thật là già,” Alex nói.

“Và tôi đã khoảng 15 năm làm việc với cậu,” Marc Mantell nói. “Chiếc xe đầu tiên của tôi là chiếc Stanley Steamer, và khi Gene Austin bắt đầu hát Thiên đường màu xanh của tôi thì tôi còn là một cậu bé mới lớn. Tôi nhớ những bữa trưa miễn phí trong quán rượu, trong trạm KDKA một Grover Cleveland Alexander như một chàng trai miệng còn hơi sữa. Chứ không phải như một người bạn ăn nói ba láp”.

“Ông có nhớ Doodlesockers, Amosn Ande, Two Black Crows và Gooper, cả John và Hare nữa? Tôi là một đứa trẻ, tất nhiên, nhưng Bab Calloway lúc đó cũng chỉ vừa mới nổi và Little Jack Nhỏ bé cũng thế”.

Marc Mantell cười phá lên.

“Quỷ thật, tôi thường coi họ là những kẻ xâm nhập láo xược, sản phẩm của Luật cấm rượu. Và đám đó bao gồm cả Jack Benny và Rudy Vallce. Tôi là gã Jean Goldkette gài, Kẻ đánh bóng ranh ma, và tôi vẫn có thể đánh bóng Bunny Hug nếu có ai đó thách tôi. Hay ít nhất là cái gốc Charleston”.

“Mọi chuyện hình như còn thật là gần, song đều đã hơn tuổi Penny.”

“Và tôi nhận ra rằng chúng ta rất khiếm nhã với Penny. Hai ông già ngồi nhớ lại những cảm giác cũ. Cô có hiểu câu chuyện vô nghĩa uỷ mị mà chúng ta đang nói không, cô bé?”

Penny mỉm cười hơi lưỡng lự.

“Cháu e là không, nhưng bác đừng để ý. Cháu đang đọc. Cháu đã đọc lại nhiều sách của anh Alex, và cháu biết về AI Capone, Luật cấm ruợu và một số khía cạnh bi thảm hơn của cuộc Đại suy thoái”.

“Cô ấy biết tất cả về Đại suy thoái, thật đấy.” Alex vỗ vỗ vào đầu gối vợ. “Tôi thường quấy rầy cô ấy bằng những câu chuyện nhắc đi nhắc lại về điều gì đã xảy đến với tôi trên đường tới Ngôi trường nhỏ màu đỏ. Cô bé đáng thương. Cô ấy rất dũng cảm. Dù sao mẹ cô ấy cũng sẽ sớm từ châu Âu trở về và tôi sẽ có một thính giả già dặn cho những gì xảy ra Trước chiến tranh”.

“Cháu thật sự rất thích mà,” Penny nói. “Anh Alex cũng khá dè dặt khi nhắc lại mọi chuyện. Với cháu dường như có một số mệnh kinh khủng diễn ra trên thế giới trước khi cháu thoát khỏi Mary Janes. Cháu cảm thấy mình thật ngốc nghếch vì không biết gì hơn.”

“Không đâu. Chúng ta là hai lão già thích nói chuyện vớ vẩn. Bác không biết liệu cháu có muốn rót cho lão vớ vẩn này một ly martini nữa không? Chứng đau xương của một lão già.” Marc Mantell mỉm cười với cô.

“Cháu rất vui lòng. Và bác ở lại đây ăn tối nhé. Cô giúp việc về rồi, nhưng ngoài bít tết ra cháu đã học được cách nấu một số món khác, phải không, anh Alex?”

“Gordon Bleu,” Alex nói và tặng cho cô một cái phát âu yếm vào mông. “Với sự giúp đỡ của Fanny Farmer em cũng có thể rót đầy ly cho lão già này nữa, em yêu, trong khi em vẫn còn trẻ và khoẻ mạnh.”

Penny mang tới hai ly rượu rồi cáo lỗi để đi vào bếp. Alex nhướn mày hơi giễu cợt với người đại diện của ông.

“Có vấn đề à?”

“Hơi hơi,” Alex nói. “tối nay là khá điển hình. Penny đang cường điệu hoá việc làm người vợ dễ thương của một nhà văn. Cô ấy cố không đụng đến một sợi tóc của tôi song chính vì vậy cô ấy lại đánh thẳng vào đó. Cô ấy rón rén đi lại và không làm nhiều việc gây ồn ào hơn nếu cô ấy thực sự làm chúng. Và cô ấy luôn quá biết điều về những thứ như tối nay, khi tôi quên mất rằng phần lớn những chuyện mà chúng ta nói đến đã xảy ra khi cô ấy còn chưa ra đời. Đôi khi tôi cứ mong cô ấy gào thét, chửi rủa hoặc ném cái gì đó lúc tôi nhắc lại chiến tranh hoặc WPA.”

“Đó là điểm chưa ổn. Nhưng cô ấy yêu cậu và cô ấy còn chưa quen với công việc, cô ấy đang khó nhọc cố làm quen. Có lẽ cô ấy đã cố gắng quá mức. Cô ấy sẽ vượt qua được. Cô ấy sẽ đuổi kịp cậu, và cậu có thể lùi lại một chút. ”

Alex gãi gãi đầu.

“Ông đừng cho là tôi hoàn toàn sai. Cô ấy rất tuyệt. Có điều là khi cô ấy có bạn bè xung quanh - không thường xuyên lắm - thì nói chung tôi chẳng biết mô tê gì về chuyện bọn họ nói. Tôi biết một số thứ như Nouvelle Vagues và Brigite Bardot và nhạc jazz - ông cũng biết đấy, nó rất lôi cuốn - nhưng biểu tượng tình dục của tôi là Jean Harlow và thần tượng của tôi là Frank Capra, chứ không phải con ếch có tên là Roger Vadim. Tôi chẳng biết Francoise Sagan đang viết về cái quái quỉ gì, và những nghệ sỹ piano mới lên lên xuống xuống đó đã làm tôi thua cuộc. Giống như hồi ngày xưa khi tôi chạy rông trong thành phố với Barbara, thấy mình như Alice lạc vào xứ thần tiên. Bây giờ tôi lại thấy mình như Alice ở xứ thần tiên, nhưng theo chiều ngược lại.”

“Thế cậu nghĩ cô ấy cảm thấy ra sao, mỗi khi có một gã lính già nào đó như tôi tạt vào và bắt đầu nói về Lefty Grove, Ray Noble và John Gibert? Trừ phi cô ấy nhìn thấy ông ta ở Viện bảo tàng nghệ thuật hiện đại, cô ấy vẫn hơi trẻ đối với W.C.Fields. Đối với cô ấy Frank Sinatra là một chuyên gia lớn, còn Bing Grosby chỉ là một tay chơi golf giàu có.”

“Ồ, tôi hy vọng là Bing nói chuyện với Kathy dễ dàng hơn là tôi với cô thiếu nữ của tôi,” Alex nói. “Nhưng điều nghiêm trọng là nó ngáng trở cuộc trò chuyện của tôi. Tôi luôn cảm thấy cần phải giải thích tôi đang nói gì, nếu không sẽ là thô lỗ đối với cô vợ bé bỏng. Và tôi yêu cô vợ bé bỏng. Điều đó khiến tôi bức bối, thế đấy.”

“Ồ, tôi chẳng có lời khuyên nào cả,” Marc Mantell nói. “Bing đã để Kathy mang bầu trong một thời gian kha khá. Hay cậu thử làm theo giải pháp đó xem. Hoặc hãy trói chặt cô ấy vào việc bếp núc. Xét theo thứ mùi vị mà cô ấy đã thông thạo ở nhà. Vào bữa tối, hãy cố đừng nói nhiều về Libby Holman, Harry Richman và người đã chiến thắng giải vô địch thế giới năm 1924. Chúng ta cũng gác cuốn sách qua một bên.”

Alex cười.

“Ở đây ông lại động đến một vấn đề nhạy cảm. Một nhà văn còn biết nói về chuyện gì khi anh ta đang viết một tác phẩm? Nghiêm chỉnh mà nói thì thật sự ông nghĩ gì.”

“Lạy Chúa, cậu cũng tệ như tất cả những người khác. Tôi đã bảo rồi. Theo những gì tôi thấy thì tôi nghĩ nó rất vĩ đại. Nếu cậu có thể duy trì được nhịp độ này thì cậu sẽ có một cuốn sách tuyệt vời. Đề tài rất tuyệt, gia đình rất tuyệt, đất nước rất tuyệt và thời gian đang chín muồi. Tôi còn có thể nói gì với cậu hơn nữa khi cậu chưa viết xong nó?”

“Khiển trách sự chây lười của tôi. Ngày mai tôi sẽ trở lại công việc với một nhiệt tình mới. Đồng thời, có thời gian làm thêm một ly martini khai vị nữa trước khi vào bàn.”

“Tôi là kẻ bị săn lùng, nhưng tôi không phải là nhà văn, Một người đại diện có thể uống và về nhà. Trong những ngày này cậu đã xài bao nhiêu thứ rượu mạnh đó rồi?”

Alex nhún vai.

“Không nhiều. Đây là một dịp đặc biệt. Tôi không uống gì trong khi làm việc - ồ, có lẽ là một ly trước bữa trưa - và một chút xíu nữa vào buổi tối khi tôi thật thích. Nhưng chúng ta đi lạc đề quá mất rồi, và người ta không thể ngồi trong quán rượu với một ly sữa được. Ai chứ tôi thì không.”

“Penny có thích đi chơi lắm không?”

“Thực ra tôi không rõ. Nhưng cô ấy còn trẻ, Marc, và hầu như cả ngày thật buồn chán đối với cô ấy. Tôi thấy mình phải đem lại cho cô ấy một chút vui vẻ, dù chỉ là để tỏ lòng biết ơn cho...”

Marc Mantell giơ tay lên.

“Thôi đi cậu. Cô ấy đã có cái mà cô ấy muốn. Vì Chúa đừng có thủ thế vì cô ấy đã dành cho cậu tình yêu to lớn này. Cô ấy không bao giờ muốn điều đó, tôi cam đoan với cậu. Cô ấy không lấy một kẻ vô công rồi nghề, cậu biết đấy. Cô ấy là một cô gái chín chắn. Và cậu thì cũng đâu đã già.”

“Tôi biết,” giọng Alex ngượng ngùng. “Thôi đừng nói nữa, cô ấy đang ra, mặc tạp dề và vân vân”.

Khuôn mặt Penny ửng hồng vì bếp lửa, và trông cô rất giống một cô gái Pháp quyến rũ trong chiếc tạp dề nhỏ có diềm xếp nếp choàng ngoài chiếc áo sặc sỡ.

“Bữa tối,” cô nói, “đã dọn xong. Nếu mọi người cho tôi sửa sang lại khuôn mặt một chút.”

“Tôi chẳng thấy có gì trên khuôn mặt ấy cần sửa sang cả,” Marc Mantell nói.