← Quay lại trang sách

Chương 20 Chàng Giáo Sĩ Giữa Cung Mê

Mục sư Dimmesdale ra về trước Hester và bé Pearl, đi được một đoạn anh quay đầu nhìn lại, đầu óc nghi hoặc tưởng chừng mình sẽ chỉ nhận thấy một vài đường nét hư ảo hoặc hình bóng mờ nhạt của người mẹ và đứa con đang tan biến dần vào cõi mờ mịt của núi rừng. Một sự kiện đảo lộn to lớn nhường ấy trong cuộc sống của anh không thể nào ngay lập tức được anh chấp nhận là có thực. Nhưng kia kìa anh nhìn thấy rõ Hester, trong tấm áo màu xám, vẫn đứng bên khúc thân cây mà từ một thuở xa xưa một cơn gió dữ nào đó đã đánh đổ xuống, rồi thời gian đã dần dần phủ lên một lớp rêu dày, để mà giờ đây hai con người này do vận số tiền định, gánh trên vai nỗi bất hạnh nặng nề nhất của trần gian, đã có thể cùng nhau ngồi ở đấy, tìm thấy một giờ khắc duy nhất yên lòng và khuây khỏa, Và kia kìa, có cả bé Pearl nữa, đang nhẹ nhàng nhảy cẫng từ bờ suối đến – chả là bây giờ kẻ thứ ba xâm nhập vào cõi riêng tư của hai mẹ con đã đi rồi – và trở lại chiếm vị trí cũ của mình bên cạnh mẹ. Vậy thì đâu phải là chàng mục sư đã ngủ thiếp đi và đã nằm mơ?

Để giải thoát đầu óc mình khỏi cảm giác mơ hồ nửa hư nửa thực ấy khiến tâm trí anh căng thẳng khó chịu vì một nỗi băn khoăn khắc khoải lạ lùng, anh tự nhắc lại trong óc và vạch ra một cách hoàn bị hơn những kế hoặc mà Hester cùng anh đã phác họa cho cuộc hành trình của hai người rời khỏi đất này. Hai người đã xác định với nhau rằng thế giới Đông Bán cầu, với dân số đông đảo và những thành thị sầm uất, sẽ cho họ một nơi nương náu và mai danh ẩn tích thích hợp hơn những phương án chọn lựa ở vùng hoang vu của Niu Inglơn hoặc toàn châu Mỹ tại một khu lều trại nào đó của người da đỏ hoặc những khu định cư ít ỏi của người Âu nằm phân tán thưa thớt dọc bờ biển. Chưa nói đến sức khỏe của chàng giáo sĩ, quá kém để khó có thể chịu đựng nổi những gian khổ của cuộc sống giữa miền rừng núi, mà ngay những năng khiếu bẩm sinh của anh, trình độ văn hóa của anh và toàn bộ sự phát triển của anh sẽ chỉ bảo đảm cho anh khỏi bị lạc lõng nếu anh được sống giữa một môi trường văn minh và thanh lịch ; tính chất tao nhã này càng cao thì anh càng dễ thích hợp ứng với môi trường ấy hơn. Một nhân tố thúc đẩy thêm quyết tâm chọn lựa phương án này là sự tình cờ có mặt của một chiếc tàu đang nằm tại bến cảng ; một trong những con tàu giang hồ ngang dọc mà người ta thường gặp trong thời ấy, không phải chính cống là phường hải khấu sống ngoài vòng pháp luật giữa đại dương, nhưng cũng lang thang trên mặt biển với tính chất bất chấp, không chịu trách nhiệm với ai cả. Chiếc tàu này mới từ Spanish Main (1) đến đây trong thời gian vừa qua, và trong vài ba ngày nữa sẽ nhổ neo đi Bristol (2). Hester Prynne, với tính chất hoạt động như một bà phước tự nguyện, đã thành người quen biết của thuyền trưởng và đoàn thủy thủ, chị có thể đảm nhận việc kiếm ba chỗ đi tàu cho hai người lớn một trẻ em với tất cả sự bảo đảm bí mật mà tình huống đã khiến cho trở thành càng quan trong hơn cả mức cần thiết.

Chàng mục sư đã hỏi Hester, với một sự quan tâm không nhỏ, là người ta dự kiến con tàu có thể khởi hành hôm nào? Chị bảo có nhiều khả năng nó sẽ ra đi vào ngày thứ tư kể từ hôm nay. “Hết sức may mắn!”, anh nghĩ thầm lúc nghe nói thế. Tại sao Đức Cha Dimmesdale lại coi điều đó là may mắn đến như vậy, chúng tôi cũng ngần ngừ không biết có nên tiết lộ ra không. Nhưng thôi, chẳng giấu gì các bạn dọc: sở dĩ như vậy là vì bào ngày thứ ba kể từ hôm nay, anh sẽ giảng bài “Thuyết giáo ngày Bầu cử” – chả là sắp sửa bầu cử thống đốc mới. – Và, vì một dịp như vậy sẽ là một cái mốc vinh dự trong cuộc đời một giáo sĩ miền Niu Inglơn, thật anh không thể nào tình cờ tìm thấy được một cách thức và thời điểm nào thích hợp hơn thế để kết thúc thời hạn làm mục sư của mình ở đây. “Ít nhất mọi người cũng sẽ phải nói về ta – Con người mẫu mực này thầm nghĩ - rằng ta không để lại một việc công nào không làm hoặc làm tồi!” Ôi quả thật đáng buồn, trong một cuộc tự xem xét nội tâm sâu sắc và gắt gao đến thế, chàng mục sư tội nghiệp này lại có thể bị lầm lẫn khốn khổ như vậy! Trước đây chúng ta đã, và sau này có thể vẫn sẽ còn nói đến những điều tệ hại hơn ở anh ; nhưng chúng tôi e rằng không có điều gì mềm yếu đáng thương đến thế ; không có một triệu chứng nào nhẹ lại vừa không thể phủ nhận được như thế của một bệnh hoạn tinh vi đã từ lâu đục phá thực chất của tính cách anh. Không có một ai, một bất cứ một thời kỳ kéo dài nào, lại có thể đeo một bộ mặt riêng với bản thân mình và một bộ mặt khác với quần chúng, mà cuối cùng không trở nên hoang mang rối trí chẳng biết bộ mặt nào là thật nữa.

Nhưng xúc động náo nức trong lòng Dimmesdale khi anh đi trở về sau cuộc gặp gỡ với Hester đã tiếp thêm cho cơ thể anh một sinh lực mới lạ khác thường, giục giã anh bước những bước nhanh về thành phố. Lối mòn đi qua giữa rừng nom có vẻ như hoang vu hơn, đầy những chướng ngại thiên nhiên rối rắm hơn, và ít có bước chân người đặt tới hơn, so với lúc anh ra đi. Nhưng anh nhảy phóc qua những chỗ lầy lội, băng mình len qua những cành lá thấp đan ngang dọc cứ níu kéo, leo lên những đoạn dốc, lao xuống các chỗ trũng, tóm lại vượt qua tất cả những khó khăn cản trở dọc đường đi với một sự hăng hái không biết mệt mỏi khiến bản thân anh cũng lấy làm lạ. Anh không thể không nhớ lại là, mới chỉ cách đây hai ngày thôi, anh đã lao khổ cực nhọc trên cùng một đoạn đường, cùng một địa hình ấy, một cách yếu đuối đến chừng nào, chốc chốc lại cứ phải dừng chân thở dốc. Khi về đến gần thành phố, anh sực cảm thấy như có sự thay đổi trong hàng loạt những cảnh vật quen thuộc đang bày ra trước mắt. Dường như không phải là anh mới rời xa chúng hôm qua, hoặc cách đây vài ba ngày, mà là đã nhiều ngày, thậm chí nhiều năm. Thực ra, kia kìa vẫn còn đó mọi vết tích cũ trước đây của đường phố mà anh đã nhớ trong óc, tất cả những nét riêng biệt của các ngôi nhà, với bấy nhiêu chỏm nhọn đầu hồi in lên nền trời, và vẫn y nguyên từng cái chong chóng chỉ chiều gió ở đúng mỗi nơi mà trí nhớ của anh dự kiến sẽ nhìn thấy. Tuy nhiên, không phải vì thế mà cái cảm giác bướng bỉnh nhận thấy có sự đổi thay ấy lại bớt ám vào anh. Anh cũng có cảm giác y như vậy khi nhìn thấy những kẻ quen biết mà anh gặp, khi nhìn thấy tất cả những dáng hình người mà anh thông thuộc trong cái thành phố nhỏ này. Đúng là bây giờ nom họ không già hơn cũng không trẻ hơn ; chòm râu của các ông lão không bạc hơn, mà đứa bé hôm trước đang bò thì nay cũng chưa thể đứng dậy đi lại ; không thể nào mô tả là họ đổi khác về điểm gì so với cũng những con người ấy mà vừa mới đây thôi anh đã ân cần đưa mắt chào tạm biệt để ra đi. Ấy thế mà một cảm giác ở chỗ sâu kín nhất trong lòng anh lại dường như báo cho anh biết là có sự đổi thay ở bọn họ. Cùng một cảm giác như vậy đã tác động đến anh một cách hết sức rõ rệt khi anh đi ngang qua dưới những bức tường của ngôi nhà thờ của anh. Ngôi nhà thờ có một vẻ thật xa lạ, tuy nhiên vẫn thật là quen, khiến cho đầu óc của Dimmesdale xao xuyến giữa hai ý nghĩ: hoặc là từ trước đến nay đã chỉ thấy nó trong giấc mơ hoặc là chính lúc này anh đang nằm mơ nhìn thấy nó.

Hiện tượng này, dưới mọi dạng khác nhau của nó, không phải là biểu thị một sự thay đổi nào ở khách quan, mà biểu thị một sự thay đổi ở ngay kẻ mục kích khung cảnh quen thuộc đó, một sự thay đổi đột ngột và quan trọng đến nỗi khoảng cách xen giữa hai thời điểm chỉ là một ngày thôi mà đối với ý thức của anh lại trở thành như cả một khoảng thời gian nhiều năm dài. Nguyện vọng của bản thân anh và nguyện vọng của Hester, cùng với vận mệnh đã phát triển đến một bước mới giữa hai con người này, đã tạo nên sự thay đổi ấy. Vẫn là cái thành phố xưa kia đó, như từ trước đến nay, nhưng chàng mục sư xưa kia thì đã ở lại trong rừng không trở về nữa! Với những người bạn chào hỏi anh, anh có thể nói rằng: “Tôi không phải là người mà các bạn nhầm tưởng! Tôi đã để lại người đó trong rừng, giữa một thung lũng nhỏ khuất nẻo, bên một khúc thân cây đầy rêu và cạnh một con suối u sầu! Các bạn hãy đi mà tìm vị mục sư của các bạn, và xem có phải là cái hình dáng gầy mòn của anh ta, với đôi má hốc hác, vầng trán tái xanh, u buồn, đầy nếp nhăn đau khổ, đã bị quẳng xuống đó như một cái áo vứt đi không?” Nhưng chắc chắn là những người bạn của anh sẽ cứ khăng khăng nói rằng: “Không! Chính anh là người đó!” Thế nhưng kẻ nhầm lẫn vẫn sẽ chính là họ, chứ không phải là anh.

Trước khi Dimmesdale về tới nhà, con người bên trong anh lại cho anh thấy thêm những dấu hiệu khác của một cuộc cách mạng trong lĩnh vực tư tưởng và cảm xúc của anh. Lúc này bên trong chàng mục sư bất hạnh đang rộn lên những cơn bốc đồng thôi thúc tệ hại khiến anh giật mình hoảng sợ. Quả thực không có nguyên nhân gì khác thỏa đáng để giải thích cho những thôi thúc đó, nếu không phải là do đã xảy ra một cuộc đổi thay toàn bộ triều đại và luân thường đạo lý trong cái vương quốc nội tâm ấy. Cứ mỗi bước đi tới anh lại cảm thấy một sự kích động xui anh làm một điều gì đó kỳ quặc, ngông cuồng, tai quái, anh biết rằng điều đó sẽ vừa là vô tình, vừa là cố ý, dù anh không muốn nhưng nó lại nảy sinh ra từ một bản ngã khác nằm sâu hơn cái bản ngã muốn chống lại sự thôi thúc ấy.

Sau đây là một trường hợp đã xảy ra. anh gặp một trong những người trợ tế của anh. Ông già đức hạnh này đứng nói chuyện cùng anh với một thứ tình cảm cha con và tư thế một bậc lão trượng. Tuổi tác đáng tôn kính của ông, tư cách chính trực và thánh thiện của ông, cùng với cương vị của ông trong giáo hội cho ông được quyền có tác phong, tư thế ấy. Nhưng kết hợp vào đó là một thái độ kính trọng sâu sắc, gần như là tôn sùng, mà nghề nghiệp cũng như nhân phẩm của chàng mục sư đòi hỏi ông phải bày tỏ với anh. Chưa bao giờ có một ví dụ đẹp đẽ hơn về một sự kết hợp như vậy, sao cho vẻ tôn nghiêm của tuổi già và sự lịch lãm ở một con người có thể xứng hợp được với thái độ cung kính mà người đó buộc phải có, với tư cách là một kẻ ở địa vị xã hội thấp hơn và tài năng kém hơn, đối với một kẻ có địa vị và tài năng cao hơn. Thế mà, trong cuộc nói chuyện khoảng vài ba phút giữa Đức Cha Dimmesdale với vị trợ tế ưu tú có chòm râu bạc ấy, đột nhiên nảy ra trong óc chàng mục sư một ý báng bổ khủng khiếp đối với Lễ ban thánh thể. Chỉ nhờ một sự kiềm chế vô cùng quyết liệt, anh mới có thể dằn mình lại khỏi thốt ra ý kiến xúc phạm ấy. Anh run bắn người, mặt tái xạm đi, sợ rằng cái lưỡi của mình vun vít phun ra điều ghê tởm ấy, mà sẽ lại còn biện hộ cho việc mình tán thành sự phát ngôn của nó, mặc dù anh đã không đồng tình. Và ngay cả giữa lúc trong lòng anh khiếp đảm như vậy, anh cũng hầu như không thể tránh khỏi bật cười khi hình dung ra cảnh tượng người trợ tế già cả thánh thiện ấy sẽ chết điếng đờ người ra như thế nào trước những lời lẽ nghịch đạo bất kính của vị mục sư phụ trách giáo khu của mình.

Lại một sự kiện khác cùng tính chất như vậy. Trong khi anh đang bước vội trên đường phố, Đức Cha Dimmesdale gặp người phụ nữ già nhất giáo khu, một bà lão ngoan đạo nhất và mẫu mực nhất, góa bụa, nghèo khổ, cô đơn, trong lòng đầy những kỷ niệm về chồng về con đã chết, về nhiều bạn bè khuất bóng từ lâu, như một nghĩa trang đầy những tấm mộ chí ghi lại thân phận bao cuộc đời. Lẽ ra cảnh ngộ đó đã làm cõi lòng bà trĩu nặng đau buồn. Thế nhưng những niềm an ủi trong đức tin và những chân lý của Kinh thánh liên tục nuôi dưỡng tinh thần bà trong hơn ba mươi năm trời đã biến tất cả những điều sầu não ấy thành gần như là một niềm vui thiêng liêng cho tâm hồn già nua thành kính mộ đạo của bà. Và từ khi mục sư Dimmesdale chịu trách nhiệm trông nom phần hồn của bà, thì nguồn an ủi chủ yếu giữa trần gian cho bà lão đức hạnh là được gặp mặt vị mục sư của mình, hoặc ngẫu nhiên, hoặc cố ý, và trong cuộc gặp gỡ ấy thấy tâm hồn mình khoan khoái tươi tỉnh lại vì được hấp thụ một lời chân lý của sách Phúc âm truyền ra nồng hậu, thơm ngát, mang hơi thở của Thượng đế, từ đôi môi người giáo sĩ thân yêu, thấm vào lòng bà qua đôi tai già nghễnh ngãng nhưng say mê chăm chú lắng nghe. Nhưng hôm nay, cho đến lúc Dimmesdale cúi sát vào tai bà để nói đôi điều, anh như bị quỷ dữ khống chế, không thể nhớ được một đoạn nào trong Kinh Thánh, cũng không nhớ được một lời hay ý đẹp nào khác, mà trong óc chỉ nảy ra một lập luận ngắn gọn phản đối tính bất tử của linh hồn con người, lập luận này lúc đó đối với anh tự nhiên có vẻ như là một lý lẽ không thể bác được. Giọt tư tưởng ghê gớm ấy mà truyền vào đầu óc bà già đáng kính này thì sẽ có thể làm cho bà ngã xuống chết tươi ngay lập tức, như thể bị tiêm một thứ thuốc độc cực mạnh. Anh đã thực sự thì thầm vào tai bà điều gì, về sau anh cũng không bao giờ có thể nhớ lại được nữa. Nhưng có lẽ may thay cách nói của anh lại lộn xộn rắc rối, nên những lời anh phát biểu không đưa được một ý niệm rõ rệt nào vào đầu óc bà cụ, hoặc là Thượng đế đã giải thích những lời ấy cho lòng bà theo một cách thức của riêng mình. Chẳng biết vì sao, nhưng khi chàng mục sư ngoái lại, anh yên trí nhìn thấy trên gương mặt nhăn nheo và xanh xao của bà một vẻ biết ơn và vui sướng ngây ngất đầy sùng kính thiêng liêng như được soi rạng ánh sáng của thiên đường.

Lại một sự kiện thứ ba. Sau khi chia tay với bà lão cao tuổi nhất, anh đã gặp người nữ giáo dân trẻ nhất. Đây là một cô gái đồng trinh vừa mới được thu phục vào cõi huyền diệu của đức tin – thu phục bởi chính bài giảng đạo ấy của Đức Cha Dimmesdale trong buổi lễ chủ nhật ngay sau đêm thức của người, - đức tin đã khiến nàng sẵn sàng đánh đổi những điều vui thú trần tục nhất thời lấy niềm hy vọng vào tương lai vĩnh cửu tươi sáng hơn trong khi cuộc sống trở nên tăm tối xung quanh nàng, niềm hy vọng này cuối cùng sẽ rọi vào bóng tối mịt mù những ánh hào quang huy hoàng rạng rỡ. Nàng xinh đẹp và trong trắng như một bông hoa huệ nở giữa thiên đường. Chàng mục sư biết rõ rằng chính anh được trân trọng tôn thờ trong cõi thiêng liêng không một tì vết của lòng nàng, rằng trái tim nàng gìn giữ hình ảnh anh sau những bức màn trinh bạch như tuyết, truyền vào tôn giáo hơi ấm của tình yêu và truyền vào tình yêu sự thanh khiết của tôn giáo. Chiều hôm đó, chắc chắn là quỷ Xa tăng đã dắt dẫn cô gái trẻ tội nghiệp rời xa khỏi bà mẹ của nàng và đưa nàng đến giữa đường đi của con người bị ma quỷ cám dỗ một cách tai ác này, hay – phải chăng nên nói cho đúng hơn – con người lỗi lầm và tuyệt vọng này. Trong khi nàng đi tới gần, quỷ dữ đã thì thầm xui anh hãy gieo vào nàng một mầm hư đốn, cô thành giọt đặc nhỏ vào trong tâm hồn non trẻ của nàng, mầm ấy chắc chắn sẽ chóng trổ hoa đen và sớm kết trái độc. Chàng mục sư biết rõ ảnh hưởng của mình đối với linh hồn trinh trắng này mạnh mẽ biết chừng nào, khi mà nàng hết lòng tin cậy anh làm vậy, mạnh mẽ đến nỗi anh cảm thấy chỉ cần một cái nhìn xấu xa của anh thôi là đủ hiệu lực làm vẩn đục toàn bộ một cõi lòng thơ ngây, chỉ cần một lời bậy bạ của anh thôi là đủ để làm ô nhiễm cả cõi lòng ấy. Bởi vậy – với một sự đấu tranh bản thân mạnh mẽ hơn cả mấy trường hợp vừa qua – anh kéo mép chiếc áo choàng lên che trước mặt và hối hả bước tới, không tỏ vẻ nhận ra ai bên đường, để lại cô gái trẻ đứng đấy mặc sức hứng chịu sự khiếm nhã của anh. Cô gái tội nghiệp đã lo âu rà soát kỹ lưỡng lương tâm mình – trong đó chỉ có rặt những thứ nhỏ nhặt vô hại, giống như trong túi áo hoặc túi đồ khâu của nàng thôi – rồi tự quở trách mình về hàng ngàn lỗi lầm tưởng tượng, và sáng hôm sau thức dậy bắt tay vào công việc nội trợ của mình với đôi mắt đỏ hoe sưng húp.

Trước khi chàng mục sư kịp vui mừng vì đã chiến thắng được sự cám dỗ này, anh lại đã nhận thấy một sự thôi thúc khác trong lòng, càng lố lăng hơn, và không kém phần đáng ghê sợ. Sự thôi thúc ấy – thật là xấu hổ! – xui anh dừng lại giữa đường để dạy một số lời lẽ rất hư hỏng cho một tốp trẻ con Thanh giáo mới biết bập bẹ đang chơi đùa ở đấy. Hết sức tự kiềm chế không cho phép mình làm điều quái đản ấy, một điều bỉ ổi đối với con người khoác tấm áo thầy tu, Dimmesdale lại giáp mặt một chàng thủy thủ say mềm, một người trong đám trai bạn trên chiếc tàu từ Spanish Main tới. Thế là đến lúc này, bởi lẽ anh đã dũng cảm tự đấu tranh giữ được khỏi phạm phải mọi điều tồi tệ khác, chàng mục sư tội nghiệp ao ước là ít nhất mình cũng được phép bắt tay một cái với anh chàng thô tục nhem nhuốc này, và được tiêu khiển bằng vài lời bông đùa suồng sã, theo cung cách cười cợt rất phổ biến của các thủy thủ chơi bời phóng đãng, và thoải mái tuôn ra một tràng tiếng rủa vui nhộn, thẳng thắn, thỏa thuê, thách thức cả Thượng đế. Điều đã giúp anh may mắn thoát được an toàn ra khỏi cơn khủng hoảng này không phải chủ yếu là tính nguyên tắc, mà một phần là tính phong nhã bẩm sinh của anh và phần lớn hơn là thói quen cứng nhắc giữ tư cách nghiêm trang của giới tăng lữ.

- Trời oi! Cái gì đã ám vào ta và đã cám dỗ ta làm vậy? – Cuối cùng chàng mục sư phải dừng lại giữa đường, vò bàn tay vào trán và kêu lên với mình – Ta điên rồi sao? Hay ta đã hoàn toàn nộp mình cho ma quỷ? Phải chăng ta đã làm một bản giao ước với quỷ trong rừng, và ký vào đó bằng máu của mình? Và có phải là bây giờ hắn đòi ta thi hành giao ước ấy, bằng cách gợi ý cho ta làm mọi điều đồi bại mà trí tưởng tượng hết sức kinh tởm của hắn có thể hình dung ra?

Ngay giữa lúc Đức Cha Dimmesdale đang trầm ngâm, vỗ vào trán mình tự vấn như vậy, thì theo lời người ta kể lại, mụ già Hibbins, con mụ phù thủy mà ai cũng biết tiếng, đi ngang qua. Hôm nay mụ diện bộ cánh rất là sang trọng, đầu đội mũ cao, mình mặc chiếc áo dài bằng nhung lộng lẫy, với chiếc cổ áo xếp nếp hồ bằng thứ bột màu vàng trứ danh mà Anne Turner, người bạn độc đáo của mụ, đã dạy cho mụ bí quyết sử dụng, trước khi vị phu nhân cừ khôi này bị treo cổ vì vụ ám sát Ngài Thomas Overbury. Không biết mụ phù thủy có đọc được những ý nghĩ của chàng mục sư hay không, nhưng mụ dừng hẳn hại, nhìn xoáy vào giữa mặt anh, mỉm cười xảo quyệt, và – mặc dù ít có khuynh hướng muốn truyện trò với các giáo sĩ – mụ bắt đầu khơi chuyện.

- Vậy là, thưa Đức Cha đáng kính, ngài vừa đi một chuyến thăm rừng về! – Mụ già quý tộc phù thủy nhận xét, đầu mụ lắc lư, chỏm chiếc mũ cao gật gù về phía chàng mục sư – Lần sau tôi chỉ xin ngài vui lòng báo cho tôi biết trước sớm, và tôi sẽ rất hãnh diện được cùng đi với ngài. Chẳng dám cam kết gì quá nhiều, chỉ xin nói là một lời của tôi sẽ có tác dụng bảo đảm cho bất kỳ một vị khách lạ nào cũng đều được sự đón tiếp ân cần của vị Chúa tể ở đấy, mà ngài đã biết.

- Thưa bà, tôi xin nói rõ – Người giáo sĩ trả lời, với một thái độ kính cẩn trang nghiêm theo đúng đòi hỏi đối với địa vị cao sang của người đàn bà kia cũng như đòi hỏi tư cách con người được giáo dục cao như anh – Tôi xin nói rõ, với danh dự và lương tâm của tôi, rằng tôi hoàn toàn ngạc nhiên không hiểu ý bà muốn nói gì! Tôi không hề đi vào rừng tìm một vị chúa tể nào cả, mà bất kỳ lúc nào sau này tôi cũng sẽ không hề có ý định tới đó nhằm tranh thủ ân huệ của một nhân vật nào như vậy. Mục đích duy nhất của tôi chỉ là đi thăm hỏi người bạn ngoan đạo của tôi. Sứ đồ Eliot, và cùng vui với ông ta về việc ông ta đã cứu được nhiều linh hồn quý giá thoát khỏi vòng tà giáo.

- Ha, ha, ha! – Mụ già phù thủy cười ngặt nghẽo, chóp chiếc mũ cao lại gật gật về phía chàng mục sư – Hay! Hay lắm! Ban ngày ban mặt, nhất thiết chúng ta phải nói như vậy thôi! Ngài đối ứng vững vàng như một tay lão luyện! Nhưng giữa đêm khuya, trong rừng, chúng ta sẽ nói chuyện với nhau khác chứ nhỉ?

Đoạn mụ tiếp tục đi qua với phong thái trang nghiêm của người già, nhưng thỉnh thoảng lại quay đầu nhìn lại mỉm cười với anh, như kẻ muốn nhìn nhận một mối quan hệ thân tình thầm kín nào đó.

- Phải chăng thế là ta đã bán mình cho quỷ sứ - Chàng mục sư nghĩ thầm, - cho chính thứ ma quỷ mà nếu lời người ta đồn là có thực, mà mụ già phù thủy khoác nhung lụa và cổ áo hồ bột vàng kia đã chọn làm chúa và thầy?

Rõ khốn khổ cho anh! Chính anh đã tiến hành xong một cuộc thỏa thuận mua bán kiểu như vậy. Bị một giấc mơ hạnh phúc cám dỗ, anh đã chịu khuất phục trước một ý đồ mà anh biết là một tội lỗi lớn. Trước đây anh chưa hề bao giờ cố tình lựa chọn một phương sách đầu hàng như thế. Và vậy là chất độc của tội lỗi ấy nhanh chóng lây nhiễm ra khắp toàn bộ hệ thống tinh thần của anh. Nó làm cho mọi ham muốn tốt đẹp thần thánh bị mê mụ đờ đẫn đi, và đánh thức làm sống động trở lại toàn bộ những thứ thôi thúc xấu xa. Lòng khinh rẻ, sự chua cay, ý muốn chơi ác và làm hại vô bờ, thái độ nhạo báng bất kỳ cái gì tốt và thánh thiện, tất cả những thứ đó đều được khơi dậy, cám dỗ anh, dù đồng thời lại làm anh hoảng sợ. Và nếu như cuộc gặp giữa anh với mụ già Hibbins là có thực, thì nó chỉ tỏ rõ sự đồng cảm và tính chất cùng hội cùng phường giữa kẻ mang ý đồ tội lỗi với những người trần hư đốn và thế giới của những thần linh ác độc.

Lúc này anh đã về tới nhà mình, bên bãi tha ma. Vội vàng leo lên thang gác, anh chui tọt vào lánh mình trong phòng làm việc. Chàng mục sư rất hài lòng đã kịp về tới nơi ẩn náu này mà chưa bị lộ chân tướng ra trước thiên hạ vì một biểu hiện nào của những điều lập dị kỳ quặc và xấu xa mà anh cứ liên tục thấy thôi thúc muốn làm trong khi đi trên đường. Vào giữa căn phòng quen thuộc, anh đảo mắt ra xung quanh mình. Nhìn những cuốn sách, các cửa sổ, cái lò sưởi, các bức tường trang trí bằng thảm, anh cũng lại có cảm giác là mọi thứ đều khác lạ, vẫn cái cảm giác đã ám vào anh suốt trong thời gian anh đi từ thung lũng nhỏ trong rừng trở về thành phố cho đến đây. Nơi đây anh đã từng ngồi nghiên cứu và viết lách ; nơi đây anh đã trải qua những buổi nhịn ăn và thức đêm, sau đó chỉ còn dở sống dở chết ; nơi đây anh đã ra sức cầu nguyện ; nơi đây anh đã chịu đựng ngàn vạn cơn thống khổ quằn quại. Kia là cuốn Kinh Thánh, bằng thứ tiếng Hêbrơ cổ giàu ý nghĩa, truyền đến tai anh những lời của Moise và các giáo đồ, và qua tất cả những lời đó là tiếng nói thiêng liêng của Chúa. Kia, ở trên bàn, bên cạnh cây bút ngòi còn ngấn mực, là bài thuyết giảng viết chưa xong, với một câu dang dở đứt đoạn nửa chừng hai hôm về trước, khi mà luồng tư duy của anh tắc lại không buông ra được thêm ý nào trên trang giấy. Anh biết kẻ đã ngồi đó chính là anh, chàng mục sư gầy gò với đôi má xanh tái, kẻ đã thực hiện bấy nhiêu điều nói trên, kẻ đã chịu đựng bấy nhiêu nỗi thống khổ, kẻ đã viết bản “Thuyết giảng ngày Bầu cử” đến dòng chữ ấy thì dừng lại. Thế nhưng lúc này dường như anh lại đứng tách ra một bên, nhìn cái tôi hôm kia đó của anh với một vẻ tò mò mang tính thương hại khinh bỉ nhưng có pha chút ghen tị. Cái tôi đó không còn nữa. Một con người khác đã từ trong rừng trở về - một con người khôn ngoan hơn – với một trình độ hiểu biết về những điều huyền bí ẩn kín mà con người mộc mạc xưa kia không bao giờ có thể đạt tới được. Một thứ hiểu biết đến là chua xót!

Đang trầm ngâm trong dòng suy tưởng ấy, chàng mục sư nghe có tiếng gõ cửa. Anh lên tiếng “Mời vào!” mà trong óc không khỏi thoáng nghĩ là có thể anh sẽ nhìn thấy một con quỷ ác ló ra. Và quả thế thực! Kẻ bước vào buồng là lão Roger Chillingworth. Chàng mục sư đứng lặng, mặt trắng bệch, một bàn tay đặt lên cuốn sách kinh bằng tiếng Hêbrơ, bàn tay kia mở rộng đè lên tim.

- Kính chào, ngài đã về, thưa Đức Cha! – Lão thầy lang nói – Sứ đồ Eliot, con người ngoan đạo ấy, cô được mọi sự tốt lành không ạ? Nhưng hình như, thưa ngài kính mến, trông ngài xanh đi nhiều, phải chăng vì chuyến đi qua vùng rừng núi hoang vu đã quá gian khổ đối với ngài? Liệu ngài có cần sự giúp đỡ của tôi để ngài được khỏe khoắn và phấn chấn mà giảng bài Thuyết giáo ngày Bầu cử sắp tới không?

- Không, không cần đâu, thưa ngài. – Đức Cha Dimmesdale trả lời – Cuộc đi bộ đường dài, niềm vui được gặp vị sứ đồ thánh thiện ớ đấy, cùng với không khí khoáng đãng mà tôi được hít thở, bấy nhiêu điều đã làm cho tôi phấn chấn sảng khoải ra sau một thời gian quá dài giam hãm mình trong buồng làm việc. Tôi nghĩ là tôi sẽ không cần đến những thuốc thang của ngài nữa, thưa ngài bác sĩ thân mến, dù rằng đó là những thuốc tốt, do một bàn tay bạn bè thân thiết cho uống.

Suốt từ nãy đến giờ, Roger Chillingworth nhìn anh với cái nhìn nghiêm cách và chăm chú của một người thầy thuốc xem xét bệnh nhân của mình. Nhưng, dù vẻ bề ngoài của lão là vậy, chàng mục sư vẫn hầu như khẳng định được rằng lão đã biết, hoặc ít nhất lão cũng đã chắc mẩm là Hester Prynne đã nói chuyện với anh về lão. Vậy thì hẳn lão biết rằng trước mắt anh lão không còn là người bạn để trông cậy nữa, mà là kẻ thù quyết liệt nhất. Đã biết được như vậy, thì lẽ tự nhiên phải có một phần nào đó trong sự nhận biết ấy biểu lộ ra ngoài. Ấy thế nhưng trong sự đời có những điều thật đặc biệt, là thời gian thường trôi qua khá lâu trước khi các sự việc được thể hiện cụ thể trong lời nói, và khi mà hai con người cùng muốn tránh một vấn đề nào đó, thì có một ranh giới an toàn mà họ có thể tiến đến ngay sát mép nhưng rồi lại rút ra chứ không hề chạm tới. Và bởi vậy, chàng mục sư không cảm thấy e sợ rằng Roger Chillingworth sẽ nói toạc ra điều gì đủ động đến cái thế đối đầu giữa hai người trong thực tế. Tuy nhiên lão thầy lang, theo cung cách nham hiểm của lão, đã bò đến sát điều thầm kín ấy một cách thật dễ sợ.

- Phải chăng tốt hơn là – Lão nói – ngài nên dùng cái tài mọn của tôi tối hôm nay? Quả thực, thưa ngài, chúng tôi phải cố gắng làm sao cho ngài được khỏe mạnh để giảng bài thuyết giáo trong dịp bầu cử ấy. Dân chúng đang mong đợi ở ngài những điều lớn lao, sợ rằng năm sắp tới vị mục sư quý mến của họ sẽ đi mất.

- Vâng! Đi sang thế giới bên kia – Chàng mục sư trả lời, với thái độ nhẫn nhục thành kính – Nhờ ơn Thượng đế phù hộ, đó là một thế giới tốt đẹp hơn. Thật đúng như vậy, tôi nghĩ mình khó mà nán lại được với đàn chiên của mình qua hết bốn mùa của thêm một năm nữa. Nhưng còn về các thuốc thang của ngài, thưa ngài kính mến, thì xét thể trạng của tôi hiện nay tôi không cần đến nữa.

- Tôi vui mừng được nghe ngài cho biết như vậy – Lão thầy lang đáp – Có thể là những phương thuốc của tôi, bấy lâu nay chẳng nên công cán gì, nhưng bây giờ thì bắt đầu có hiệu lực. Ôi tôi thật là con người sung sướng, và có công đối với miền Niu Inglơn, nếu tôi quả đã có thể thành đạt được trong tường hợp điều trị này.

- Tôi xin hết lòng cám ơn ngài, người bạn vô cùng chu đáo quan tâm theo dõi chăm sóc tôi – Dimmesdale nói với một nụ cười trịnh trọng – Tôi xin cám ơn ngài, và chỉ có thể đền đáp lại công ơn ngài bằng những lời cầu nguyện.

- Những lời cầu nguyện của con người đức hạnh là phần thưởng bằng vàng – lão Roger Chillingworth vừa đáp vừa nghiêng đầu chào từ biệt – Vâng, đó là những đồng tiền vàng lưu hành ở cõi Thiên đường, có dấu đóng của chính Thượng đế.

Còn lại một mình, chàng mục sư gọi một người hầu trong nhà, yêu cầu dọn cho anh bữa cơm tối. Anh ngồi vào ăn ngấu nghiến, ngon miệng tuyệt vời. Ăn xong, anh vứt vào lửa những trang của bản “Thuyết giảng ngày Bầu cử” đã viết dở, và ngay tức khắc bắt đầu viết một bản khác. Đầu ngòi bút của anh một dòng tư duy và xúc cảm thôi thúc tuôn chảy dạt dào đến nỗi anh tưởng chừng như có thần linh đang mớm cho mình ; và anh chỉ lấy làm lạ là sao Thượng đế lại có thể sẵn lòng truyền tiếng nhạc vĩ đại và trân trọng của những lời dạy bảo của Người qua một thứ nhạc cụ thiếu tư cách đến tồi tệ như anh. Nhưng thôi mặc điều bí ẩn ấy tự phân giải lấy, hoặc cứ mãi mãi là bí ẩn không bao giờ giải được, còn anh thì vẫn tiếp tục việc của mình một cách gấp rút sôi nổi và say mê ngây ngất.

Đêm dài cứ thế trôi qua, thời gian như bóng câu bay vụt ; bình minh đã rạng, ánh hồng hé ra ửng qua màn cửa ; và cuối cùng mặt trời lên xiên một tia nắng rực vàng vào phòng làm việc chiếu thẳng vào đôi mắt sửng sốt của chàng mục sư chói lóa. Anh vẫn ngồi đó, cây bút vẫn trong tay, với bao la mặt giấy chi chít chữ bên cạnh mình.

Chú thích:

(1) Spanish Main: khu vực ở vùng biển Ca-ri-bê tiếp giáp với bờ biển phía bắc của lục địa Nam Mỹ.

(2) Bristol: một thành phố cảng nước Anh.