← Quay lại trang sách

Chương 21 Ngày Hội Miền Niu Inglơn

Vào buổi sáng cái hôm mà ngài Thống đốc mới sẽ nhận nhiệm vụ nhân dân giao phó, từ sớm Hester Prynne và bé Pearl đã tới quảng trường họp chợ. Bãi rộng đã đông nghịt những thợ thủ công và những thị dân khác thuộc tầng lớp hạ lưu của thành phố, và chen lấn giữa bọn họ là nhiều người dáng vẻ thô lỗ khoác áo bằng da hươu, đặc điểm chứng tỏ số này là cư dân vài khu đất mới nào đó trong vùng rừng núi bao quanh thủ phủ nhỏ của miền định cư.

Trong ngày lễ công cộng này, cũng như vào tất cả các dịp hội hè khác trong bảy năm qua, Hester vẫn mặc một bộ quần áo bằng vải thô màu xám. Không phải chỉ vì màu sắc mà còn vì một tính riêng biệt nào đấy khó tả trong kiểu cắt may, bộ quần áo này đã khiến chị lu mờ đi, mất hút vào đám đông, khuất cả hình dáng ; trong khi đó thì chữ A màu đỏ lại lôi chị từ trong cõi mập mờ tranh tối tranh sáng đó trở ra, bộc lộ chị dưới sự soi sáng đặc thù về mặt tinh thần của nó. Gương mặt của chị, đã từ lâu dân trong thành phố chẳng lạ gì, thể hiện một vẻ bình thản lạnh lùng như cẩm thạch mà người ta đã quen nhìn thấy. Diện mạo ấy giống như chiếc mặt nạ ; hay nói cho đúng hơn, giống như vẻ lặng yên lạnh cứng trên mặt một xác chết. Sở dĩ có sự tương tự buồn thảm ấy là vì có thể coi như Hester thực sự đã chết, chết về phương diện bất kỳ một quyền yêu sách nào của con người đòi hỏi sự đồng cảm, và chị đã từ giã cõi thế gian, nơi mà dường như chị vẫn còn hòa lẫn vào làm một tế bào sống.

Có thể rằng, trong ngày hôm nay có một nét biểu hiện nào đó trước kia chưa hề thấy, nhưng quả thực cũng không đủ nổi bật để người ta có thể phát hiện được ; trừ phi có một kẻ quan sát có tài năng siêu phàm đọc được trái tim của chị trước đã, rồi sau đó mới tìm một biểu hiện tương ứng trên sắc mặt và phong thái chị. Kẻ đó có thể hiểu được rằng sau khi đã chịu đựng cái nhìn chằm chặp của quần chúng trong suốt bấy nhiêu năm trời khốn khổ như là một điều tất yếu, một biện pháp tự hành xác để hối lỗi, một điều mà tín ngưỡng nghiêm khắc buộc phải gánh chịu, thì bây giờ đây chị thoải mái và tự nguyện đương đầu với cái nhìn ấy một lần cuối cùng này nữa, chỉ một lần nữa thôi, nhằm biến đổi nỗi thống khổ kéo dài bao lâu nay thành một thứ niềm vui chiến thắng. Hester, nạn nhân của xã hội, kẻ nô lệ suốt đời của họ, như họ vẫn tưởng, có thể nói với họ rằng: “Hãy nhìn kỹ một lần cuối chữ A màu đỏ này và người đàn bà đeo nó. Chỉ còn một thời gian ngắn nữa thôi, rồi chị sẽ đi xa khỏi tầm tay của các người. Một vài tiếng đồng hồ nữa, rồi đại dương sâu thẳm và huyền bí sẽ dập tắt và nhận chìm đi mãi mãi cái biểu tượng bốc lửa mà các người đã đặt lên ngực chị ta để thiêu đốt!” Mà giá như chúng ta giả định rằng Hester bỗng cảm thấy một sự nuối tiếc vào đúng cái lúc mà chị sắp được giải thoát khỏi nổi đau khổ lâu nay gắn liền vào sự sống của chị một cách sâu sắc đến như vậy, thì điều giả định ấy cũng không phải là một sự mâu thuẫn quá ư huyền hoặc mà chúng ta gán cho bản chất con người. Phải chăng có thể có ở chị lúc này một sự khát khao không cưỡng nổi muốn nín thở nốc một hơi dài cuối cùng chén rượu khổ ngải và lô hội mà mùi vị đắng cay đã thường xuyên thấm đẫm vào hầu như toàn bộ những năm tháng của thời kỳ phụ nữ trưởng thành của chị. Thứ rượu cuộc đời từ nay trở đi nâng lên môi chị phải thật sự là thứ rượu nồng đậm ngọt ngào và tạo niềm phấn chấn, đựng trong chiếc cốc bằng vàng dát ngọc ; nếu không được thế thì chị sẽ lại rơi vào tình trạng suy sụp rã rời không thể tránh khỏi sau khi phải nuốt hết cả cặn của chén tận khổ mà lâu nay người ta đã chuốc cho chị như thể chuốc thứ rượu bổ cực kỳ hiệu nghiệm.

Pearl hôm nay diện bộ cánh thật rực rỡ tươi tắn. Làm sao có thể đoán được rằng cái hình biểu hiện sáng ngời và hớn hở như nắng tươi này lại do chính cái bóng xám xịt ảm đạm kia sinh ra? Cũng không thể nào đoán được rằng một đầu óc tưởng tượng có biệt tài sáng tạo ra những thứ vừa thật là lộng lẫy vừa thật là tinh xảo như bộ quần áo này của đứa bé lại cũng chính là cái đầu ông cụ tưởng tượng đã hoàn thành một công trình có lẽ còn khó khăn hơn, là tạo ra một nét riêng khác biệt đến thế cho tấm áo bình dị kia của người mẹ. Bộ trang phục của Pearl, tuyệt vời xứng hợp với nó, dường như là một sự phát tiết ra, hoặc một sự phát triển và biểu hiện tất yếu của tính cách đứa bé, không thể tách rời khỏi nó, chẳng khác gì không thể tách vẻ rực rỡ nhiều màu khỏi một cánh bướm, hay tách sắc tươi thắm mịn màng khỏi một cánh hoa. Đối với những vật ấy như thế nào, thì đối với đứa bé cũng như thế ấy ; bộ cánh của bé cùng với bản chất của bé nằm trong một ý niệm thống nhất. Thêm vào đó, hôm nay, trong ngày có nhiều sự kiện quan trọng này, lại xôn xao một nỗi bồn chồn và kích động khác thường trong tâm thần của bé, nó giống như cái ánh lung linh của một hạt kim cương lấp lánh và lóe sáng theo những nhịp đập rộn ràng giữa lồng ngực người đeo hạt ngọc ấy. Trẻ con bao giờ cũng có một sự đồng cảm với những xúc động của những người thân thuộc, đặc biệt là bao giờ cũng có một khả năng cảm nhận thấy bất kỳ một sự rối loạn hoặc một biến động nào sắp xảy đến trong tình hình gia đình mình ; và bởi vậy bé Pearl, với tính chất hạt ngọc đeo trên lồng ngực bồn chồn của người mẹ, đã để lộ ra, bằng chính sự rộn rực trong thái độ của bé, những xúc động mà không ai có thể phát hiện ra được trong cái vẻ thụ động giá lạnh như cẩm thạch trên vừng trán của Hester.

Tâm trạng xốn xang ấy khiến bé Pearl nhảy nhót như con chim chuyền cành chứ không chịu bước từ tốn bên cạnh mẹ, liên tục la hét những tiếng man rỡ, vô nghĩa, thỉnh thoảng rú lên chói tai nhức óc. Lúc hai mẹ con tới quảng trường họp chợ, bé lại càng trở lên bồn chồn không yên khi nhìn thấy cảnh tượng náo động rộn ràng ở đây ; bởi vì thường ngày quảng trường này giống một bãi cỏ khoáng đãng vắng vẻ trước một ngôi nhà thờ làng hơn một trung tâm hoạt động của thành phố.

- Có chuyện gì thế hả mẹ? – Con bé kêu lên – Tại sao hôm nay mọi người lại nghỉ việc? Có phải là một ngày vui chơi cho toàn thế giới không mẹ? Mẹ trông kìa, bác thợ rèn! Bác ấy đã rửa sạch cái mặt nhem nhuốc, mặc bộ quần áo ngày lễ, và trông cứ như thể bác ấy sẵn lòng vui thả sức nếu như cô ai đó tốt bụng bày cho bác ấy cách vui đùa như thế nào! Và kia kìa lão Brackett, ông cai ngục già, ông ấy đang gật đầu và mỉm cười với con. Tại sao ông ta lại có thái độ như thế với con hả mẹ?

- Ông ấy nhớ lại con hồi còn bé tí đấy! – Hester trả lời.

- Mặc dù thế, ông ta cũng không được gật đầu và mỉm cười với con! – Pearl nói – Cái ông già đen đủi, dữ tợn, con mắt trông phát khiếp! Ông taa có thể gật đầu với mẹ, nếu ông ta muốn, vì mẹ mặc đồ xám và mẹ đeo chữ A màu đỏ. Nhưng mẹ xem kìa, không biết cơ man nào là người lạ mặt, trong đó ối người da đỏ, và thủy thủ nữa. Họ đến chỗ họp chợ này làm gì thế hở mẹ?

- Họ chờ xem đám rước đấy! – Hester nói – Vì ngài thống đốc và các quan chức sẽ đi qua đây, bởi các vị giáo sĩ và với tất cả những ông lớn, các vị quý tộc, có đội nhạc và lính diễu hành đi trước.

- Thế có ông mục sư trong đám rước ấy không? – Pearl hỏi – Rồi ông ta có giơ cả hai tay ra đón con, như khi mẹ đưa con từ bên bờ suối đến trước mặt ông ta hôm ấy không?

- Ông ta sẽ có trong đám rước, con ạ! – Người mẹ trả lời – Nhưng hôm nay ông ta sẽ không chào hỏi con, mà con cũng đừng chào hỏi ông ta.

- Cái ông ấy là một con người buồn bã thật kỳ quặc! – Đứa bé lầm bầm, như thể một phần nào nói với chính mình – Ban đêm tối mịt thì ông ấy gọi mẹ con mình lại, nắm tay mẹ, nắm tay con, như cái đêm chúng mình đứng với ông ấy trên cái bục bêu đằng kia! Và trong rừng sâu, nơi chỉ có những cây già nghe tiếng, chỉ có một mảnh trời nhìn thấy, thì ông ấy nói chuyện với mẹ, cùng với mẹ ngồi trên đống rêu ấy. Rồi ông ấy hôn lên trán con nữa, làm con phải lấy nước suối rửa mãi mà không chắc đã sạch. Nhưng còn ở đây, giữa ban ngày, giữa tất cả mọi người, thì ông ấy lại không biết đến chúng mình, và chúng mình cũng không được biết đến ông ấy. Một con người buồn bã thật kỳ quặc, bàn tay lúc nào cũng đặt lên tim!

- Im đi con, Pearl! Con không hiểu được những điều ấy đâu – Người mẹ nói – Thôi con đừng nghĩ gì về ông mục sư nữa. Hãy nhìn xung quanh con mà xem kìa, hôm nay nét mặt mọi người vui vẻ biết chừng nào! Trẻ con từ các trường, người lớn từ xưởng máy và đồng ruộng, tất cả đều kéo tới đây để mà vui sướng, vì hôm nay có một nhà cầm quyền mới bắt đầu lên lãnh đạo họ, và bởi vậy, - theo tục lệ của loài người kể từ khi hình thành quốc gia đầu tiên – họ liên hoan và vui mừng, như thể một năm mới tốt lành và thịnh vượng đang đến với cõi trần già cỗi tội nghiệp này.

Đúng như Hester nói, khuôn mặt mọi người rạng ngời lên một niềm hoan hỉ khác thường. Những người Thanh giáo tập trung dồn hết vào ngày hội này trong năm mọi niềm hân hoan nào mà họ cho là bản chất đầy khuyết tật của con người có thể được phép biểu lộ - tập tục của họ lâu nay là vậy và vẫn tiếp tục như vậy trong gần hai thế kỷ. Theo cách ấy họ xua đi đám mây thường ám trên mặt họ, khiến cho trong khoảng thời gian một ngày hội duy nhất đó, trông họ có vẻ không nghiêm nghị hơn phần lớn những cộng đồng khác trong một thời kỳ mà sự ưu phiền trùm lên hết thảy mọi dân tộc.

Chúng ta có thể khẳng định được rằng đặc điểm của thời đại ấy là mọi tâm tính và tập quán đều nhuốm một màu ảm đạm hoặc đen tối. Thế nhưng có lẽ chúng ta đã quá phóng đại sắc thái ấy lên chăng? Những con người lúc này đang tập hợp tại quảng trường họp chợ của thành phố Boston khi sinh ra không mang tính u sầu của chủ nghĩa Thanh giáo di truyền trong dòng máu của mình. Họ sinh ra là người Anh, ông cha của họ đã sống trong sự huy hoàng tươi sáng của triều đại Nữ hoàng Elizabeth I; trong thời đó cuộc sống của nước Anh, nhìn một cách tổng quát, có vẻ là một trong những cuộc sống đàng hoàng, hoa lệ và vui tươi nhất mà thế giới đã từng chứng kiến. Nếu như những người dân định cư miền Niu Inglơn này làm theo thị hiếu di truyền của họ, thì hẳn là họ đã minh họa mọi sự kiện quan trọng đời sống xã hội bằng tiệc tùng, lửa mừng, những cảnh phô trương lộng lẫy, và rước xách. Mà hẳn là cũng không có gì ngăn được họ kết hợp những trò giải trí vui nhộn vào vẻ trịnh trọng trong việc tổ chức những nghi lễ tôn nghiêm, như đính thêm những đường thêu lố lăng và sặc sỡ, có thể cho là như vậy, lên trên bộ lễ phục trang trọng mà một quốc gia mặc vào trong những ngày hội lớn như vậy. Có một tí hơi hướng của một xu thế thuộc loại đó trong cái cách thức mừng ngày mở đầu một năm chính trị mới ở miền định cư này. Trong những tục lệ của tổ tiên chúng ta ở đây vào dịp lễ nhậm chức hàng năm của các nhà cầm quyền, người ta có thể tìm thấy những dấu vết lờ mờ phản ánh một quá khứ huy hoàng còn được ghi nhớ, một sự lặp lại nhạt màu và pha loãng đi rất nhiều của những gì mà trước kia người ta đã nhìn thấy ở thành phố London cổ kiêu hãnh – chúng tôi không muốn nói là trong một dịp lễ đăng quang, mà trong một buổi lễ ra mắt của Ngài Thị trưởng. Ở thời đó, những ông tổ đã sáng lập nên nước cộng hòa – những nhà chính khách, tăng lữ, tướng lĩnh – cho rằng mình có trách nhiệm phải khoác một vẻ ngoài trang trọng và uy nghi, vẻ ngoài ấy, theo đúng phong cách cổ, được xem như tấm áo choàng bắt buộc đối với kẻ có địa vị cao trọng trong xã hội. Tất cả bọn họ ra đường long trọng đi diễu hành trước con mắt của công chúng, và qua nghi thức đó tạo ra một uy phong cần thiết phủ trên cái cơ cấu đơn sơ của một chính quyền vừa hình thành mới mẻ như vậy.

Thế rồi dân chúng cũng được cho phép, nếu không phải là được khuyến khích, buông lơi việc thực hiện nghiêm khắc và chặt chẽ phong cách cần cù khổ hạnh về mọi mặt, mà trong tất cả các thời điểm khác dường như họ xem là cùng một khối duy nhất, cùng máu thịt với tôn giáo của họ. Quả tình là ở nơi đây không có những hình thức vui chơi mà quần chúng có thể tìm thấy một cách thật dễ dàng ở nước Anh của thời Nữ hoàng Elizabeth I hoặc thời vua James – không có những buổi kịch cương thô thiển ; không có người hát rong, với cây đàn hạc và khúc ca Balát cổ truyền, cũng không có người nhạc sĩ lang thang với một con khỉ nhảy theo tiếng nhạc ; không có chàng nghệ sĩ xiếc tung hứng với những trò ảo thuật ; không có chú Hề để cù cho đám đông rộn lên tiếng cười vì những câu pha trò cũ rích dễ thường có đến một trăm năm nay rồi nhưng vẫn còn hiệu lực, bởi khéo khơi những nguồn khoáng đạt hơn hết trong mỗi đồng cảm vui nhộn của quần chúng. Ở đây, tất cả những vị bậc thầy ấy của nhiều ghành khác nhau trong khoa mua vui ắt hẳn phải bị cấm đoán nghiêm khắc, không những bởi khuôn phép khắt khe của luật pháp, mà còn bởi trạng thái tình cảm chung của xã hội, tình cảm này là nhân tố tạo sức sống cho luật pháp. Tuy nhiên, không phải vì thế mà gương mặt quảng đại và trung thực của nhân dân lại không nở nụ cười – nét cười hơi khắc nghiệt, có lẽ, nhưng cũng cười rộng mở. Mà cũng không phải là không có thú vui chơi, những thứ cuộc vui mà trước đây lâu rồi dân định cư đã chứng kiến và tham dự ở những phiên chợ nông thôn và trên những bãi cỏ xanh ở các xóm làng bên nước Anh ; những thứ cuộc vui mà người ta thấy đáng được duy trì trên miền đất mới này ; có lợi cho việc nuôi dưỡng lòng dũng cảm và chí khí kiên cường thiết yếu cho con người của họ. Đây đó trên quảng trường họp chợ, người ta tụ tập xem những cuộc đấu vật theo những kiểu khác nhau của Cornwall và Devonshire ; trong một góc bãi, đang diễn ra một trận đấu gậy giao hữu ; và thu hút sự chú ý của công chúng hơn tất cả - là trên cái bục bêu, đã được nói đến bao lần trong cuốn truyện này, hai võ sĩ bắt đầu một cuộc biểu diễn kiếm thuật với thanh gươm và chiếc mộc. Nhưng, thất vọng cho công chúng biết bao, cuộc đấu gươm đẹp mắt này đột nhiên bị chấm dứt vì sự can thiệp của viên tư tế thành phố, ông này không thể hình dung nổi làm sao lại có thể để cho sự tôn nghiêm của phép nước bị vi phạm bởi sự lạm dụng một trong những vị trí dành cho việc thi hành luật pháp như vậy.

Có thể cũng không phải là quá đáng nếu khẳng định khái quát rằng trong vấn đề vui đón một ngày lễ, người dân hồi ấy còn được hoan hỉ hơn so với những con cháu của họ, ngay cả lớp người đời sau xa lắc xa lơ như chúng tôi (bởi lúc ấy họ đang ở trong giai đoạn chỉ mới bắt đầu mang khí sắc buồn bã, và đời cha ông sát ngay trước họ đã sống trọn những ngày biết như thế nào là vui chơi hoan lạc). Lớp con cháu tiếp ngay sau họ, tức thế hệ kế tiếp những người di cư đầu tiên, là lớp người mang sắc thái tối tăm nhất của chủ ngĩa Thanh giáo, và do đó đã làm u ám bộ mặt quốc gia đến độ tất cả những năm về sau không thể nào đủ để làm tươi sáng lại bộ mặt đó. Ngay cả thế hệ chúng tôi vẫn còn phải học lại nghệ thuật đã bị lãng quên của niềm vui.

Bức tranh của sự sống con người tại quảng trường họp chợ hôm os, mặc dầu nhìn chung mang màu sắc xám, nâu và đen của dân định cư, nhưng vẫn được một số nét chấm phá nhiều màu khác làm cho sinh động lên. Một đám người da đỏ - với kiểu trang phục lòe loẹt man rợ, những chiếc áo bằng da hươu thêu nhiều hình kỳ dị, những dây đai tết bằng các chuỗi vỏ sò, những vệt đất son vàng và đỏ, những chiếc lông chim, với vũ khí là cung tên và giáo lắp mũi đá nhọn – đứng tách ra một bên với vẻ mặt còn nghiêm nghị sắt đá hơn cả sắc diện của người Thanh giáo. Nhưng, dù cho những người man di bôi màu lòe loẹt này mang vẻ hoang dại là thế, họ cũng chưa phải là nét nổi bật hoang dại nhất trên bức tranh toàn cảnh. Những kẻ đáng được chú ý một cách đặc biệt như thế là các chàng thủy thủ - một phần trong số trai bạn trên chiếc tàu từ Spanish Main tới – đã lên bờ tới đây xem quang cảnh vui chơi trong ngày bầu cử. Họ là những tay bạt mạng đầy vẻ lỗ mãng, khuôn mặt sạm đen vì nắng, xồm xoàm những râu là râu ; chiếc quần rộng và ngắn bó ngang hông dưới chiếc thắt lưng thường cài một tấm thẻ bằng vàng thô ráp và luôn luôn đeo một con dao dài, có khi một thanh gươm. Dưới những chiếc mũ rộng vành bằng lá cọ, ngời lên những đôi mắt trong đó có một ánh hung ác của thú dữ ngay cả khi họ tỏ thái độ thân thiện và vui vẻ. Họ vi phạm không chút sợ hãi ngại ngùng những phép tắc mà tất cả mọi người khác bắt buộc phải tuân theo: hút thuốc lá ngay trước mũi ngài tư tế, dù rằng đối với dân trong thành phố, mỗi hơi thuốc nhả ra bị phạt một đồng silinh ; tùy thích nốc từng hơi dài rượu vang hoặc rượu mạnh đựng trong những lọ bẹt bỏ túi, mà họ thoải mái chìa ra mời đám đông xung quanh đang há hốc miệng ra lo lắng nhìn họ. Thế đấy, đặc điểm đáng chú ý của thứ luân lý không hoàn chỉnh trong thời đại ấy, dù chúng ta gọi nó là nghiêm khắc, biểu thị ở thái độ dung túng bọn người đi biển, không những cho họ được làm những điều quái đản trên đất liền, mà còn để cho họ có những hành động còn kinh khủng hơn nhìu trong chính môi trường của họ trên biển cả. Trong thời chúng ta hiện nay, kiểu thủy thủ hồi đó có thể bị kết tội là cướp biển. Chẳng hạn như đoàn thủy thủ của chính chiếc tàu nói trên đây, mặc dầu không phải là một vật mẫn tệ hại của phường gấu biển, nhưng chẳng mấy ai con hồ nghi rằng họ đã phạm, theo cách diễn đạt của chúng ta, tội nhũng nhiễu nền thương mại Tây ban nha trên biển, thứ tội đáng phải kết án treo cổ trước một tòa án hiện đại.

Nhưng trong thời xưa ấy, biển cả cứ tha hồ mà nhào lộn, mà sủi bọt, mà nổi sóng cồn theo ý thích của riêng mình, hoặc duy nhất chịu sự chi phối của gió bão, chứ pháp luật con người hầu như không có một toàn tính nào nhằm áp đặt những phép tắc cho nó. Kẻ giang hồ làm nghề hải khấu đầu ngọn sóng có thể từ bỏ cái nghề ấy và lập tức trở thành, nếu anh ta muốn, một con người lương thiện và ngoan đạo trên đất liền ; mà ngay cả trong khi anh ta đang lao theo cuộc sống liều lĩnh ấy, anh ta cũng không hề bị xem như một phần tử làm ô danh kẻ nào giao dịch buôn bán hoặc ngẫu nhiên quan hệ với anh. Và như vậy là các bậc lão thành Thanh giáo mặc áo choàng đen, dải cổ áo hồ cứng và đội mũ chóp nhọn, vẫn nở những nụ cười không phải là không khoan dung trước tiếng la hò om sòm và cung cách thô lỗ của những người đi biển vui nhộn ấy ; và cũng không ai ngạc nhiên hoặc cất tiếng chỉ trích khi người ta nhìn thấy một công dân danh giá như viên thầy thuốc già Roger Chillingworth, đi vào quảng trường họp chợ đến nói chuyện riêng thân mật với người thuyền trưởng của chiếc tàu đáng nghi ngờ ấy.

Gã thuyền trưởng này là nhân vật có bộ cánh lòe loẹt và bảnh bao nhất, hào nhoáng hơn rất nhiều so với tất cả mọi người trong đám đông. Gã đeo trên quần áo vô số khối những tua dải rực rỡ, đội chiếc mũ có đường ren vàng, một dây chuyền vàng ôm quanh, trên cắm một chiếc long chim. Gã đeo bên mình một thanh gươm, và trên trán có một vết gươm chém mà theo lối để tóc của gã thì có vẻ như gã thích phô ra chứ không muốn giấu đi. Nếu là một người dân trên đất liền thì hầu như không thể mang bộ cánh ấy và giơ cái bộ mặt ấy ra, và phô bày cả hai thứ ấy với một vẻ táo tợn như vậy mà tránh khỏi một cuộc hỏi cung nghiêm khắc trước một vị quan tòa, và có thể bị một khoản tiền phạt hoặc vào tù, hoặc, có lẽ, một vài giờ bị cùm giơ mặt trên bục bêu. Thế nhưng, trong trường hợp viên thuyền trưởng này thì người ta coi tất cả những thứ đó như là những thuộc tính gắn liền với tính cách nhân vật, chẳng khác gì lớp vảy sáng óng ánh gắn liền với con cá.

Sau khi chia tay với lão thầy thuốc, viên thuyền trưởng chiếc tàu sắp nhổ neo đi Bristol lững thững dạo vẩn vơ trên quảng trường họp chợ, cho đến khi tình cờ đi lại gần nơi Hester Prynne đang đứng. Gã nhận ra chị, và không một chút do dự, gã bước tới nói chuyện với chị. Như thường lệ ở bất kỳ chỗ nào Hester Prynne đứng, lúc này xung quanh chị đã hình thành một khoảng trống nhỏ - một thứ vòng tròn thần kỳ. Mặc dù người ta chen vai thích cánh nhau cách chị một quãng ngắn, nhưng không ai đánh bạo hoặc có ý định bước vào vòng trống ấy. Đó là một hình ảnh tiêu biểu sinh động của tình cảnh cô đơn về tinh thần trong đó chữ A màu đỏ đã giam hãm kẻ mà số kiếp buộc phải đeo nó ; sự cô đơn ấy một phần do chính sự dè dặt của chị, và một phần do sự rụt lại theo bản năng của các đồng bào của chị, mặc dầu lúc này sự rụt lại đó không còn mang tinh thần hắt hủi. Cái khoảng trống ấy, nếu như trước kia không bao giờ có tác dụng gì hay, thì lúc này nó lại là điều kiện thuận lợi giúp chị Hester và ga thuyền trưởng có thể nói chuyện với nhau mà không có nguy cơ bị ai nghe lỏm. Và tiếng tăm về Hester Prynne trong cong chúng đã đổi thay nhiều đến nổi, ví như bà mệnh phụ đoan trang giữ nghiêm đức hạnh nhất trong thành phố mà có đứng nói chuyện với gã giang hồ này như chị, thì mức độ bị tai tiếng cũng chỉ ngang chị mà thôi.

- Vậy là, thưa bà – người thuyền trưởng nói – tôi sẽ phải cho người chuẩn bị thêm một giường ngủ nữa ngoài số mà bà đã yêu cầu trước. Trong chuyến đi này thôi không còn phải sợ bệnh scobut và sốt phát ban nữa. Cộng với ông thầy thuốc của tàu có thêm vị bác sĩ này nữa thì điều nguy hiểm duy nhất cho chúng tôi lại sẽ là do những thuốc thang, cao đơn hoàn tán gây ra. Hơn nữa, chúng tôi lại đang có trên tàu hàng đống thuốc men mà tôi đã mua của một tàu Tây-ban-nha.

- Ông muốn nói gì vậy? – Hester giật nảy mình lộ vẻ hoảng hốt nhiều hơn mức mình tự cho phép – Ông có thêm một hành khách nữa sao?

- Ơ! – Gã thuyền trưởng kêu lên – Thế ra bà chưa biết là cái ông bác sĩ kia kìa – ông ta xưng tên là Chillingworth – đã tỏ ý vui lòng muốn thử một chuyến đi trên tàu tôi cùng với bà? Ấy! Ấy! Lẽ ra bà đã biết rồi chứ! Vì ông ta bảo tôi là ông ta cùng nhóm bạn hữu với bà, và ông ta rất thân với cái ông gì mà bà đã nói hôm trước – người đang lâm vào hiểm họa dưới bàn tay những lão cầm quyền Thanh giáo cay độc ấy mà!

- Đúng, họ rất quen biết nhau – Chị trả lời với m vẻ mặt bình lặng, nhưng trong lòng rụng rời thất vọng đến cùng cực – Họ đã ở với nhau lâu.

Cuộc trao đổi giữa gã thuyền trưởng và Hester Prynne đến đó chấm dứt. Nhưng cùng lúc ấy chị trông thấy chính lão Roger Chillingworth, đứng ở góc xa nhất cuối quảng trường họp chợ, đang nhìn chị mỉm cười ; ôi cái mỉm cười ghê gớm, truyền một ý nghĩ thầm kín thật là khủng khiếp ngang quảng trường rộng lớn đang rộn rã, qua mọi tiếng nói cười, qua mọi nghĩ suy, qua mọi tâm trạng và mọi niềm thích thứ của đám đông ồn ào náo nhiệt.