Bé con đừng sợ
Đi qua nhiều phố, chúng vào quảng trường Bastille, nơi có tượng đài voi to lớn. Năm tháng trôi qua, rồi mưa nắng... tất cả những cái đó đã làm cho con voi không còn nguyên vẹn như trước. Nó đang đổ nát. Song trong đêm tối, người ta không nhìn thấy những vết rạn nứt, những chỗ lồi lõm. Con voi có vẻ uy nghi lạ thường trong cảnh đêm thanh hùng vĩ. Đi gần đến chỗ con voi, Gavroche đề phòng bọn trẻ sợ, chú khuyên bảo trước:
- Lũ nhóc! Đùng có sợ nhé!
Rồi chú len qua một khoảng bao lơn mục gãy, sau đó kéo hai đứa đi qua. Hai đứa trẻ hơi sợ nên lặng lẽ đi theo Gavroche. Chúng tin cậy ở vị thần áo rách đã cho chúng ăn và còn hứa cho chúng ngủ nhờ nữa. Bên cạnh bao lơn có một chiếc thang để nằm. Chiếc thang ấy, anh em thợ vẫn dùng làm việc vào ban ngày. Gavroche nhấc bổng chiếc thang lên một cách mạnh mẽ lạ thường và dựa nó vào chân trước của con voi. Ở đầu trên chiếc thang có một lỗ đen ngòm trong bụng con voi. Gavroche chỉ chiếc thang và cái lỗ trống cho hai chú khách bé con và nói:
- Leo lên, rồi chui vào đi.
Hai đứa bé nhìn nhau kinh hãi. Gavroche kêu:
- Nhóc! Sợ ư? Đây! Các chú xem ta!
Gavroche không dùng thang, chú ôm cái chân nhám sì của con voi và chỉ trong nháy mắt, chú đã leo đến chỗ trống. Chú chui vào như con rắn chui qua kẽ hở. Lát sau, hai đứa bé trông thấy cái đầu của chú hiện ra ở cái lỗ tối om. Chú gọi:
- Nào! Trèo lên đi. Rồi các chú sẽ biết, sướng lắm nhé! Này, thằng lớn trèo lên trước đi. Tao đưa tay cho mà níu đây này!
Hai đứa bé đẩy nhau, chúng vừa sợ Gavroche lại vừa tin tưởng. Vả lại mưa to quá. Thằng lớn đành leo liều. Thằng nhỏ thấy anh leo lên thang, chỉ còn lại một mình nó ở dưới con vật khổng lồ đã toan khóc nhưng không dám. Thằng anh leo lên từng nấc một, loạng choạng. Gavroche reo hò khuyến khích như thầy dạy võ khuyến khích học trò, hoặc như bác chở ngựa thồ giục ngựa đi tới:
- Đừng sợ!
- Được đây! Cố lên đi!
- Đặt chân chỗ này này! Tay vịn vào đây đi.
- Cố lên tí nữa nào!
Khi thằng bé leo vừa đến tầm, Gavroche đột nhiên nắm chặt tay nó mà lôi ngược lên.
- Thế là xong!
Thằng anh đã qua chỗ hổng, Gavroche bảo:
- Bây giờ thì đợi ta một chút. Ồ, thưa ông! Mời ông vui lòng ngồi chơi!
Gavroche nói vậy rồi chui qua lỗ nẻ ra ngoài, nhanh nhẹn như một con khỉ. Chú ôm chân voi tụt xuống đât. Chân vừa chấm đất thì chú ôm xốc thằng bé em lên, đặt nó đứng ở giữa thang. Rồi chú leo theo sau và gọi thằng lớn:
- Tao đẩy ở dưới, còn ở trên mày lôi đấy nhé!
Thằng bé bị nhấc bổng lên, rồi bị đẩy, bị lôi, bị kéo, bị ấn, bị nhét vào lỗ hổng, chẳng kịp hiểu đầu đuôi ra làm sao. Gavroche vào tiếp sau nó và lấy chân hất thang rơi xuống cỏ. Làm xong, Gavroche vỗ tay reo to:
- Thế là ta đã về đến nhà rồi. Đại tướng Lafayette muôn năm!
Quá hứng khởi, Gavroche đã gọi tên vị tướng đã tham gia cách mạng Pháp. Qua cơn khoái trá ồn ào ấy, Gavroche trịnh trọng tuyên bố với hai đứa bé:
- Hai chú ạ! Đây là nhà của chúng ta.
Quả thật, đây là nhà của Gavroche. Con voi ở quảng trường Bastille là sáng kiến nói lên mộng tưởng của hoàng đế Napoléon, nhưng trong thực tế con voi lại có công dụng hơn thế. Nó che chở cho những trẻ em phiêu bạt đói khát. Cái lỗ hổng Gavroche chui qua là một kẽ nút đứng ngoài rất khó trông thấy bởi nó khuất dưới bụng con voi và hẹp lắm, chỉ có mèo và trẻ em là có thể chui qua được mà thôi. Gavroche nói:
- Trước hết chúng mình phải dặn người gác cổng nếu có ai hỏi thì bảo chúng mình đi vắng.
Nói rồi chú đi lấy ván đậy lỗ nứt lại. Mặc dù trong bụng con voi tối om song chú đi lại chắc chắn như một ông chủ nhà quen thuộc mọi ngóc ngách, xó xỉnh. Chú lại còn thắp đèn nữa, gọi là đèn nhưng thực ra đó chỉ là một chai đựng lân tinh và một mẩu dây nhúng nhựa. Một chút ánh sáng lờ mờ soi rõ bụng con voi. Hai đứa nhỏ đưa mắt quan sát “căn nhà” của Gavroche. Thật giống như ở trong bụng cá voi vậy. Cả một bộ xương khổng lồ hiện lên bao bọc lấy chúng. Vôi, gạch vụn từ trên lưng voi rơi xuống đã lấp bằng vùng trũng ở bụng voi nên có thể đi lại như trên sàn gỗ. Thằng em khiếp sợ, dịch sát vào người thằng anh, thì thầm:
- Tối quá!
Tiếng ấy khiến Gavroche phải thét lên. Chú nghĩ rằng hai đứa trẻ sợ hãi quá. Cần phải lay mạnh chúng, cần phải ra oai với chúng, làm cho chúng bớt sợ:
- Chúng mày lôi thôi cái gì đây? Đừng có đùa, cũng đừng làm bộ õng ẹo! Chúng mày đòi cung điện hả? Chúng mày là súc vật à? Có phải thế thì bảo tao! Tao nói cho chúng mày biết tao không phải là hạng người ngu ngốc đâu nhé! Hừ! Hay chúng mày lại là những cậu âm con quan?
Bị quát tháo cục cằn, hai đứa bé không dám ho he. Chúng nhích lại gần Gavroche. Thấy chúng tin cậy mình như thế, Gavroche mềm lòng, như người cha liền đổi giọng nghiêm khắc ra giọng dịu ngọt. Chú nói chuyện với thằng nhỏ, bắt đầu câu chuyện là một tiếng mắng yêu:
- Này chó con! Ở ngoài kia mới tối. Ở ngoài ấy mưa, ở trong này không mưa. Ở ngoài đó lạnh, còn ở đây không có gió lọt vào. Ở ngoài ấy trăng cũng không có, ở đây đã có ngọn nến của tao.
Hai đứa bé đã bớt sợ và bắt đầu đưa mắt nhìn quanh, nhưng Gavroche giục:
- Nhanh lên thôi!
Rồi chú đẩy chúng vào phía trong cùng của phòng ngủ. Giường của Gavroche đặt ở chỗ ấy. Giường của Gavroche có đầy đủ nệm, chăn, màn che. Nệm là một cái nệm rơm, chăn là một tấm áo khoác bằng len thô màu xám rất ấm, khá rộng và dường như còn mới nguyên. Còn cái chái thì tồi tàn, đổ nát với những tấm lưới bằng đồng thau. Tấm lưới ấy nguyên là tấm lưới chăng chuồng chim của đoàn xiếc thú vật. Lưới thau ấy là màn che cái chái của Gavroche. Gavroche nhấc mấy viên đá chặn tấm màn lưới phía đằng trước rồi giở hai tấm màn gấp lên nhau mà bảo:
- Hai đứa đi bốn chân vào.
Chú cẩn thận đưa hai vị khách vào lồng rồi chú bò vào sau, xong chú đậy kín màn lại và dằn đá xuống. Ba đứa nằm dài trên chiếu. Tuy ba đứa đều bé bỏng, vẫn không đứa nào có thể đứng lên trong cái chái ấy. Gavroche còn giữ ngọn đèn dây.
- Bây giờ thì giấc đi! Tao sắp tắt nến đây.
Thằng lớn chỉ tấm lưới thau, hỏi:
- Thưa ông, cái này là cái gì vậy?
- Cái ấy là để đề phòng ông tí. - Gavroche nghiêm trang bảo - Giấc đi!
Tuy đã giục ngủ, song chú vẫn thấy cần phải nói thêm đôi câu để kích thích lòng can đảm cho hai đứa bé còn quá nhỏ tuổi này. Chú nói tiếp:
- Những thứ này là của vườn bách thú, dùng cho thú dữ. Có cả một kho kia, chỉ việc trèo một bức tường, leo qua một cửa sổ, rúc dưới gầm cửa lớn, thế là tha hồ lấy.
Vừa nói, chú vừa kéo chăn đắp cho thằng nhỏ. Thằng bé kêu lên khe khẽ:
- Ôi! Sướng quá! Ấm quá đi mất!
Gavroche nhìn tấm chăn, đắc ý:
- Cũng là của vườn bách thú đấy. Tao vớ của lũ khỉ.
Rồi chỉ cho thằng anh xem chiếc đệm rơm rất dày và bện rất khéo, chú nói thêm:
- Còn cái này là của con hươu cao cổ.
Nghỉ một tí, chú lại nói:
- Bọn thú vật có đủ các thứ ấy. Tao lấy đi, chúng chả giận đâu. Tao bảo chúng: “Lấy cho con voi này đây”.
Ngừng một lát, chú lại sôi nổi:
- Mình trèo tường, vượt vách và mình bất chấp tất cả! Như thế đấy, chúng bay ạ!
Hai đứa bé nhìn Gavroche với vẻ khâm phục xen lẫn kinh ngạc và sợ hãi. Tuy cũng lang thang, cũng trơ trọi, cũng bé bỏng như chúng, nhưng đây là một con người vừa khốn khổ vừa anh hùng, một con người khác thường. Trên nét mặt ấy có những cái nhăn nhó của ông kép xiếc già lẫn nụ cười thơ ngây dễ mến nhât.
- Thưa ông! - Thằng lớn rụt rè hỏi - Thế ông không sợ các ông cảnh sát sao?
Gavroche chỉ đáp gọn:
- Nhóc! Người ta không gọi là các ông cảnh sát, mà người ta gọi là “lũ cớm”.
Thằng bé mở mắt thao láo nhưng không nói gì hết. Vì nó nằm ngoài, còn thằng lớn nằm giữa nên Gavroche kéo chăn dém xuống chiếu cho nó như một bà mẹ, rồi nhét một mớ giẻ cho cộm lên để làm một cái gối cho nó gối. Xong chú quay sang thằng anh:
- Thế nào? Ở đây tốt chứ?
- Vâng, tốt lắm ạ!
Thằng anh vừa nói vừa liếc nhìn Gavroche với vẻ mặt của thiên thần được cứu nạn. Hai đứa bé ướt át thấy người ấm dần lại.
- Này! Sao lúc nãy chúng bay lại khóc thế?
Gavroche trỏ thằng bé mà bảo thằng lớn:
- Thằng con nít này thì không nói làm gì. Còn lớn như mày mà cũng khóc thì khỉ thật! Làm như còn bé lắm ấy.
- Vì lúc ấy chúng em không biết đi về đâu để có nhà ở.
- Nhóc ạ! - Gavroche nói - Người ta không nói là nhà mà nói là xó.
- Vả lại chúng em sợ phải ở một mình qua đêm.
- Không ai nói đêm, người ta nói là tối mò.
- Cảm ơn ông!
- Nghe tao bảo này: từ nay không được gặp việc gì cũng rên khóc. Tao sẽ chăm nom chúng mày. Chúng mày rồi sẽ thấy, chúng mình chơi đùa thích lắm. Mùa hè chúng ta đi Glacière với thằng bạn tao. Chúng mình tắm ở bến sông. Chúng mình cứ trần truồng mà chạy trên các đoàn thuyền gỗ trước cầu Austerlitz làm cho mấy bà thợ giặt phát cáu. Các bà ấy la lối mắng chửi, tức sôi gan lên trông buồn cười lắm. Rồi tao đưa chúng mày đi xem kịch, xem chính nghệ sĩ Frédérick-Lemaître đóng. Tao có vé vì tao quen với nhiều diễn viên. Có lần tao đã đóng trò trong một vở kịch. Bọn mày biết chúng tao làm gì không? Chúng tao chạy dưới một tấm vải căng giả làm biển. Tao sẽ xin cho hai đứa mày vào đóng trò ở rạp ấy. Rồi chúng ta sẽ đi xem người rừng. Những người rừng đó không phải thực đâu. Chúng nó mặc may-ô hồng có nếp nhăn, ở khuỷu tay có vết mạng bằng chỉ trắng. Rồi thì chúng ta đi xem Nhạc kịch viện. Đi với bọn vỗ tay mướn. Ở Nhạc kịch viện, bọn vỗ tay mướn đều là những tay chiến cả. Tao không đi với bọn vỗ tay ở các rạp hàng phố. Ở Nhạc kịch viện, bọn mày phải biết, có đứa phải trả hai mươi xu để được ngồi vỗ tay, đã đành đó là những “thằng ngốc”... Ôi chao! Anh em ta sẽ vui chơi như ngày hội!
Một giọt sáp nhỏ trên tay Gavroche làm chú sực nhớ tới thực tế trước mắt.
- Chết chửa! Bấc hao quá. Phải coi chừng. Mỗi tháng mình không thể tiêu quá một xu về khoản đèn lửa. Nằm xuống là phải ngủ. Chúng mình không có thì giờ để đọc truyện. Với lại chong đèn thì ánh sáng có thể lọt qua khe hở ở chỗ ra vào, tụi “cớm” dễ nhìn thấy.
Chỉ một mình thằng anh là dám chuyện vãn đối đáp với Gavroche. Nó rụt rè góp ý kiến:
- Với lại, tàn lửa có thể rơi xuống chiếu rơm, không khéo thì cháy nhà.
- Người ta không nói cháy nhà, người ta nói ra tro.
Cơn dông càng thêm dữ dội. Giữa hai hồi sấm rền vang, người ta nghe rõ tiếng mưa rào đập chan chát vào lưng con quái. Gavroche nói:
- Cứ mưa, tha hồ mưa đi! Không gì vui bằng nghe tiếng nước chảy dọc theo cột nhà. Mùa đông ngu lắm, mất công, mất của mà chẳng làm ướt được ai. Cái lão già xách nước ấy thấy mất công toi bèn tức tối làm ầm lên như thế đấy!
Nó vừa nhắc đến sét thì một làn chớp dài lóe lên lóa cả mắt, do khe nứt mà vào bụng voi, tiếp theo ngay sau đó là một tiếng sét dữ dội. Hai thằng bé kêu lên một tiếng và vùng dậy mạnh quá làm cho tấm màn suýt bật ra. Gavroche quay cái mặt gan góc lại phía chúng và thừa dịp tiếng sét nổ mà cười lên khanh khách.
- Yên! Lũ bay, yên! Đừng có đạp khỏe quá mà đổ nhà. Sấm chính tông đấy, sấm thế mới là sấm chứ! Không phải là sấm chớp nhì nhằng đâu nhé. Hoan hô Chúa! Thật chẳng kém sấm ở rạp Ambigu là mấy.
Nói xong Gavroche chữa lại màn, nhẹ tay đẩy hai đứa bé nằm xuống, rồi ấn lên đầu gối chúng để cho chúng duỗi thẳng chân ra.
- Trời đã thắp đèn lên thì ta có thể tắt đèn ta được. Ngủ đi, hai ông mãnh ạ! Nằm mà không ngủ là không tốt. Sáng ra lỗ mũi, lỗ mồm của chúng bay sẽ nặng mùi, nói như bọn trưởng giả thì là mồm chúng bay sẽ thối. Quấn chăn cho kín. Tao sắp tắt đèn đây. Xong chưa?
Thằng lớn đáp khe khẽ:
- Xong rồi, chỗ tôi tốt lắm. Rất êm, như có độn lông chim dưới đầu.
- Ai lại gọi là đầu, phải nói là sỏ chứ!
Hai đứa bé ôm rịt lấy nhau. Gavroche thu vén nốt cho chúng, kéo chăn lên tận vai chúng rồi đọc câu phù chú này lần thứ ba:
- Giấc thôi!
Rồi chú thổi nến.
Nến vừa tắt thì tấm lưới thau rung rung một cách kỳ dị, vô số cái gì cọ sát trên lưới làm nên những tiếng động, tiếng sắt lanh canh, y như có răng, có vuốt mài lên dây thau. Cùng với sự rung động ấy, có những tiếng rỉ rích. Thằng bé lên năm nghe thấy những tiếng động ấy trên đầu, suýt chết khiếp. Nó hích khuỷu tay vào sườn thằng anh, nhưng anh nó theo lệnh Gavroche đã “giấc rồi”. Không dằn lòng được vì khiếp đảm quá, thằng nhỏ đành liều, gọi Gavroche nhưng rất khẽ, vừa gọi vừa nín hơi:
- Ông ơi!
- Gì? - Gavroche vừa chợp mắt, tỉnh dậy hỏi.
- Cái gì động đậy đó ạ?
- À! Đó là ông tí ở cống đấy.
Gavroche lại đặt đầu xuống chiếu. Quả như chú nói, chuột cống nhung nhúc trong sườn voi. Khi bụng voi chìm trong bóng tối, chúng ngửi thấy mùi “thịt tươi” trong lều của Gavroche thì đổ xô đến, leo lên tận đỉnh, gặm nhấm các mắt lưới để tìm cách chọc thủng. Thằng bé vẫn không ngủ được. Nó lại gọi:
- Ông ơi!
- Gì?
- Thế ông tí là gì?
- Ông tí là chuột.
Cách giải thích ấy làm cho thằng bé bớt sợ một phần. Nó đã từng trông thấy chuột bạch và nó không sợ chuột bạch. Tuy vậy nó vẫn lên tiếng hỏi:
- Thưa ông! Sao ông không nuôi một con mèo?
Nó thường nghe người ta nói nuôi mèo sẽ không có chuột. Lũ chuột là chúa sợ mèo.
- Trước, tao có một con, tao mang lại đây nhưng bị chúng ăn thịt mất.
Câu giải thích này làm tiêu tan ngay hiệu quả của câu thứ nhất. Thằng bé lại run sợ. Cuộc đối thoại giữa nó và Gavroche lại diễn ra lần thứ tư.
- Thưa ông! Ai bị ăn thịt ạ?
- Con mèo.
- Thế ai ăn thịt con mèo?
- Ông tí.
- Chuột ấy à?
- Phải, chuột.
Thằng bé chết khiếp về việc chuột ăn thịt mèo. Nó hỏi thêm:
- Thưa ông! Thế những con chuột ấy có ăn thịt được chúng mình không?
- Nó ăn đến đầu ấy chứ!
Nỗi kinh hoàng của đứa bé đã lên đến tột độ. Nhưng Gavroche vội vã vỗ về, an ủi nó:
- Bé con! Đừng sợ! Lũ nó không vào đây được đâu. Vả lại đã có tao. Thôi, hãy nắm lấy bàn tay tao rồi im đi mà ngủ thử nào!
Gavroche với tay qua mình thằng anh để cầm tay thằng em. Thằng bé ôm siết bàn tay ấy vào người và cảm thấy yên lòng. Quả thật lòng can đảm và sức mạnh có thể truyền cho người khác một cách mầu nhiệm.
Bây giờ quang cảnh chung quanh trở lại yên lặng, bởi vì lũ chuột nghe tiếng nói xì xào nên đã lánh xa. Mấy phút sau chúng trở lại và làm nhặng lên nhưng vô ích, ba đứa trẻ đã ngủ say, không nghe thấy gì nữa.