← Quay lại trang sách

Chương 4

Nắng sớm ở nông thôn đến rất nhanh. Mới bảy giờ ba mươi, đồng ruộng ngập nắng chói chang. Đàn trâu của Siêng nhởn nhơ gặm cỏ ngoài bãi ven triền núi. Siêng và Nam ngồi trên mô đất giữa nắng ấm.

Giá như ở thành phố, mình đang sinh hoạt đội hoặc đi cắm trại ở sở thú, Tao Đàn hay Văn Thánh. - Nam kể.

- Chủ nhật dành cho sinh hoạt đội? Thích thật. Mình cũng mơ ước được như thế. Lớp đêm của mình toàn những bạn phải đi làm thêm, hầu như không có ngày chủ nhật. Sinh hoạt đội lại không được tổ chức ở lớp đêm. Chỉ thỉnh thoảng các anh chị ở thị đoàn làm một buổi cắm trại, lửa trại.

- Vậy cuộc sống của Siêng buồn thiệt!

Nói đến đó, Nam giật mình vì lỡ lời. Nhưng Siêng có vẻ không để ý đến. Hay có biết nhưng lờ đi. Siêng đứng dậy:

- Nông thôn còn nhiều cái thiếu thốn nhưng lắm thú vui lạ. Rồi Nam sẽ biết, đi theo mình.

Siêng dẫn Nam đến một căn nhà lá lụp xụp sát chân núi. Trong nhà một ông lão vạm vỡ, da đen trùi trũi nằm đong đưa trên võng. Trên người ông quấn độc một chiếc xà rông cũ kỹ. Thấy Siêng bước vào, ông lập tức bật dậy:

- Gì đó Siêng?

- Cháu lấy cái cần câu.

- Lấy đi. Ông còn mớ trứng kiến, bỏ sau bếp. - Nói xong ông ngả lưng xuống võng, cũng nhanh như lúc ngồi dậy. Dường như trong nhà tối quá, ông không kịp ngó thấy Nam. Nghe tiếng nó chào, ông lại bật dậy lần nữa:

- Ơ, cháu, đi câu vui hén. Trưa tụi cháu ghé lại đây nghen.

Lần này, ông không ngả lưng xuống ngay.

Ra tới cửa, Nam nghe ông lẩm bẩm:

- Con cái nhà ai mà trắng bóc dễ thương hết sức.

Thằng Siêng nghe được tủm tỉm cười.

Ra tới đám ruộng lấp xấp nước cách đàn trâu vài chục thước, Siêng dừng lại. Nó dùng mồi móc những hạt trăng trắng đã được vê viên vào lưỡi câu: “Trứng kiến nè, Nam biết không?”

Nam ngó kỹ những hạt trắng trong, tròn nhỏ hơn hạt gạo một chút trên tay. Ra đây là trứng kiến. Nó nhớ đã đọc trong quyển sách nào đó, có viết rằng người ta chế biến món xôi nấu bằng nếp với trứng kiến ăn rất ngon.

Dưới ruộng sao lắm cá rô non bằng hai ngón tay. Siêng giật cần liên tục. Chuyền cần câu qua Nam nó cũng giật được mấy chú. Cả giờ, hai đứa câu được một giỏ đầy.

Siêng thủ thỉ nói:

- Nếu có dịp, mình đi câu cắm thích hơn, lại đỡ mệt. Câu cắm phải đi lúc chạng vạng tối khoảng sáu giờ. Một lần mang cả năm, sáu chục chiếc cần, có khi cả trăm cần. Cần câu cắm làm bằng tre chớ không bằng trúc như chiếc này. Nó chỉ dài năm tấc vót đầu nhỏ đầu to. Ra ruộng, mình cắm đầu to xuống, dài dài dọc theo bờ ruộng. Cắm làm sao cho lưỡi câu là đà dưới mặt nước...

- Câu bằng mấy chục cần, chắc phải tốn trứng kiến dữ lắm? - Nam thắc mắc.

- Không dùng mồi bằng trứng kiến. Nếu câu cá lóc, cần đi đào dế nhũi, trùn đất làm mồi. Câu cá trê vàng, dùng mồi bằng ong non trộn với sáp.

- Ngộ quá! - Nam thích chí - Cắm câu ở đó, khi nào mới biết cá dính câu?

- Độ ba giờ sau phải ra thăm. Ở xa đã nghe tiếng cá quẫy “sổn sổn” rồi. Có đêm kiếm được năm sáu ký cá là thường.

Nam mải mê nghe, quên cả giật dây câu. Siêng với tay giật lên giúp,

một chú cá rô to, to nhất trong mớ cá câu được, lủng lẳng đầu dây.

Câu cá xong, hai đứa ra ao tắm. Đến phiên thằng Siêng phục Nam vì tài bơi. Món “bơi bướm” của Nam thiệt đẹp, chẳng bù với trò “bơi ếch” nhổm lên nhổm xuống của Siêng. Siêng đâu biết rằng, có một dạo dài, hồ bơi nhà Văn hóa Lao động không hề vắng mặt Nam ngày nào. Ở nhà Nam còn treo một huy chương giải bơi thiếu niên cấp quận.

Trên đường về, Siêng giải thích: “Ông Sáu Hiệp hồi nãy là người dân tộc Khơ-me. Ông sống một mình trong căn chòi đó từ khi vợ con ổng bị Pôn Pốt giết sạch. Má mình bị chết chung với gia đình ổng, nên ổng rất thương mình...”

Ông Sáu hỏi lúc hai đứa vào nhà:

- Các cháu đi tắm về, chắc đói bụng lắm hả?

Nghe ông Sáu nói, như được nhắc nhở, cái bụng Nam như sôi lên, nó nghe cồn cào cả ruột. Chưa nghe Nam trả lời, ông Sáu hềnh hệch cười:

- Chắc đói thiệt rồi. Ông cháu ta làm một bữa khoai mì nghen.

Khoai mì! Nghe ông già nói, Nam ngán ngẩm. Ngon lành gì chứ? Trước mắt Nam hiện lên những khúc khoai mì nguội ngắt được bày bán ở căntin trường trong giờ ra chơi, ăn một miếng đã ngán.

Thấy nó ngần ngừ, ông Sáu lại hệch miệng:

- Đừng chê nghen. Ông sẽ đãi cháu một bữa khoai mì ra trò. Để coi!

Thằng Siêng ngó Nam, nháy mắt:

- Phải đó Nam, để coi, “hết sẩy” mà.

Nói rồi nó quay sang ông Sáu.

- Ông ơi, con ra nhổ một cây nghen!

Nam lóc cóc theo Siêng:

- Một cây mì thì được mấy củ hở Siêng?

- Ý, một cây có cả bụi củ đó, đừng coi thường, ăn hổng hết đâu.

Siêng vác cuốc, hai đứa kéo nhau ra vạc rẫy sau nhà. Trước mắt Nam, dọc theo bờ rào, những vồng khoai mì lá xanh non, thân mập mạp đang lắc lư theo chiều gió. Cây nào cũng xanh tốt, cao và thẳng.

Siêng đến bên một hàng cây ngắm nghía:

- Ta đào cây này, chắc nhiều củ?

Nó khom xuống, hạ một nhát cuốc, đào lần quanh bụi cây, moi lên và lật ngửa gốc khoai, cây khoai lật xuống đất, đầy trên bãi cỏ một chụm năm, sáu củ khoai tròn căng, dài thon thả, ướt rượt đất xám màu mỡ.

Về nhà, những củ khoai lập tức được lột ra, tròn trắng phao trong thau nước.

Sau này Nam nhớ lại mình đã thưởng thức một “bữa tiệc” hết chỗ chê, một món ăn đồng nội hết sức mộc mạc, bình dân nhưng qua bàn tay của ông già Khơ-me trở thành một món ăn hấp dẫn. Khoai mì luộc xong với nước dừa xiêm, ông Sáu đánh tơi ra, thoa mỡ hành. Xong, ông sai thằng Siêng ra vườn hái mớ rau sống như húng lủi, húng cây, dấp cá, tía tô... Ông dạy Nam cách lấy bánh tráng đã được nhúng nước, cuốn với rau sống, khoai mì trộn mỡ hành chấm với nước mắm chanh có “chọt” trái ớt cay. Sẵn đói bụng sau một buổi sáng đi câu và bơi lội, Nam chén tì tì hết cuốn này đến cuốn khác. Thằng Siêng không kém, ăn với tốc độ “vũ trụ”. Chỉ có ông Sáu ít ăn, ông ngồi cười hềnh hệch nhìn hai đứa.

Ăn xong Siêng nói với ông Sáu.

- Cháu biếu ông mớ cá rô non. Mớ này, ông chiên xù uống rượu đế là “số một” đó.

- Mày uống rượu đế với cá chiên xù hồi nào mà biết ngon? - Ông Sáu hóm hỉnh hỏi.

- Dạ, con chưa thử. Nhưng nghe ai cũng khen ngon...

- “Chiên xù” là sao, Siêng? - Nằm dưới gốc cây me hứng gió mát, Nam hỏi.

- Là chiên để nguyên vẩy, cá rô non mang về ngâm nước muối cho ra nhớt rồi móc ruột. Đổ mỡ vào chảo cho sôi, thả cá nguyên con không đánh vẩy vào. Cá rô non chiên xong khô cong, nhai giòn rụm. Nam biết không, trời mưa lạnh ăn cá chiên xù nóng có khi phải bới cả chục chén cơm.

Mới ăn trưa xong, nghe thằng Siêng nói còn phải nuốt nước miếng. Biết Nam còn thích nghe chuyện “đặc sản”, Siêng kể tiếp:

- Ở miệt này nhà nào có trồng dừa thường được nếm một món ăn độc đáo. Đó là món “đuông” chiên. Một loại sâu...

- Một loại sâu? Người ta ăn sâu thiệt à?

- Đúng, nó là con sâu sống chui rúc trong đọt dừa, thân dừa. Nhà nào thấy đọt dừa héo dần, phải chặt bỏ cây dừa, lấy đuông. Mỗi cây lấy được mươi, mười mấy con là thường. Con nào cũng béo mầm trắng bóc, có ngấn, ngo ngoe y hệt con sâu.

- Khiếp! - Nam lè lưỡi - chị Thảo mà thấy được chúng chắc tránh cho thật xa.

- Lần đầu thấy người ta ăn, Siêng ghê ghê. Đánh liều ăn thử một con đuông lăn bột chiên, ngon và béo thần sầu. Nghe đâu ở Sài Gòn, nhiều người thèm đuông, tìm mua không ra.

Gió mát quá, Nam thiu thiu ngủ, mặc cho thằng Siêng nói say sưa. Nó mơ thấy được ăn một bữa cơm có đủ món: đuông chiên, chuột xào, cá rô non chiên xù. Nó tần ngần huơ đũa và gắp ngay món đuông chiên vàng rộm...