← Quay lại trang sách

Chương 5

Thắm thoát đã hơn một tháng ở xứ biên giới này. Cảm giác nhớ thành phố của Nam ngày càng mờ nhạt khi đã quen với những đêm đi xiên cá, soi ếch cùng ông ngoại, những buổi ra đồng với Siêng. Quyển sổ sưu tầm của chị Thảo dày cộm những câu ca dao, những truyền thuyết lạ lùng của miền đất địa đầu. Nắng tháng tư như mời gọi hoa phượng nở sớm. Sắp tàn một năm học rồi...

Không nhớ thành phố nhiều lắm. Tuy vậy, cảm giác nhớ trường lớp chợt da diết trong lòng Nam. Có lẽ nó bắt đầu từ buổi tối qua đò ngang sang kinh Vĩnh Tế với thằng Siêng. Hôm ấy Nam lẻn vào lớp bổ túc văn hóa, ngồi cạnh Siêng. Lớp lố nhố những mái đầu lớn tuổi, đa số là công nhân viên trong thị xã. Ngồi giữa những thanh niên to cao, thằng Siêng nhỏ xíu, đen đúa với màu tóc cháy nắng. Nam chứng kiến thằng Siêng thật xuất sắc với những bài giải toán ngay trên bảng, những lời phát biểu về bài văn phân tích. Ra về, người được vây quanh không phải là anh chàng lớp trưởng bệ vệ ra dáng cán bộ phường xã mà chính là Siêng. Trên đường về qua đò ngang, người lái đò lắc đầu khi Nam chìa tiền đò: “Đi với thằng Siêng phải hôn, dì cho quá giang”.

Trong mắt Nam, Siêng thật “uy tín” lạ lùng. Khi Nam hỏi về điều ấy, nó lắc đầu mỉm cười: “Có thể người ta nể má mình vì hồi đó, má mình dạy hầu hết con nít ở đây. Học trò của má giờ có vợ có chồng cũng nhiều”.

- Nam ơi, - chị Thảo bước từ nhà ngoài vào gọi nhỏ, - em đi ra ruộng với chị.

- Có chi không chị?

- Cứ đi, nói cho nghe!

Nam rảo bước theo ra tới cổng, chị kéo tay Nam.

- Em biết hôn, dì Mười bảo thằng Siêng cách nay mấy ngày bị đánh một trận dữ lắm. Dì Mười qua nhà ông Tư To đòi lại cái xửng hấp xôi, thấy Siêng được anh Cưỡng cháu ông Tư To xát muối vô mấy vết bầm.

- Sao nó bị đánh, chị?

- Chị nghe nói một con trâu trong bầy đi lạc vào rừng. Thằng Siêng tìm suốt buổi không được. Về nhà nó bị đánh. Ông Tư xé tập nó, bảo nó mê học chẳng lo làm lụng. Nó bị đuổi ra khỏi nhà rồi...

- Hèn chi... - Nam nhớ hôm kia tạt qua trường không thấy mặt Siêng.

- Bây giờ nó đâu hở chị?

- Không biết. Có lẽ mình nên đi tìm.

Ngoài đồng Vĩnh Ngươn, những căn lều vịt giờ đã xác xơ hơn trước. Hai chị em ngó từng túp, chẳng có bóng một ai. Túp lều của Siêng dường như nó còn lui tới. Trong góc còn hũ muối, chai nước mắm xài dở.

- Chị nhìn nè!

Nam lôi chiếc chiếu còn khá mới được nhét trên mái lều ra. Trong chiếu có cuốn một quyển tập. Lật ra, trang đầu ghi ngày hôm qua. Cho đến hôm qua, Siêng vẫn đến lớp. Hai chị em hiểu cả: Siêng đã dời chỗ ở ra lều.

- Nghe nói ông Tư đã giao bầy trâu cho người khác. Phần nó, ông đuổi đi đến khi nào tìm được trâu bị lạc mới cho về.

- Có lẽ nó đang trong rừng tìm trâu...

Nam ngó mông lung ra xa rừng. Cây cối rậm rạp, xanh um, vắng bóng người qua... Một cánh cò trắng bay ngang nổi bật trên nền cây xanh. Một hình ảnh đẹp nhưng đơn độc, lẻ loi.

Chị Thảo ngoắt Nam: “Tìm ra rồi, dì Mười bảo Siêng bị công an bắt cùng nhiều người, giữ trên đồn biên phòng sát chợ Gò Miên”.

- Trời đất, sao bị bắt?

- Chẳng hiểu, họ giữ cả chục người lại đồn. Dì Mười ra đồng miệt trên gặp. Dì bảo nó thấy dì, liền quay mặt vô trong. Có lẽ mắc cỡ.

- Tội quá...

Chị Thảo nhíu mày: “Không hiểu nó làm gì để bị bắt, chị không muốn thất vọng về nó. Đói làm bậy, túng làm càng. Chả lẽ... thiệt cái thằng...”

Chị Thảo tiết lộ một chuyện Nam chưa biết: chị có cho tiền nó xài, cả vải may áo, nó từ chối tất. Nó chỉ nhận hai quyển tập. Một trong hai quyển Nam có thấy trong chiếc chiếu.

- Chị...

- Gì?

- Có biết đường ra chợ Gò Miên? Mình ra đó xem sao.

Chị Thảo ngó đồng hồ treo tường. Ba giờ rưỡi chiều. Chị với lấy cái mũ: “Đội vào, chị em mình đi...”

Đường ruộng lầy lụa sau những cơn mưa đầu tháng năm. Những con đường hẹp như thế lại đầy dấu chân người. Chưa bao giờ Nam thấy chị Thảo lội ruộng giỏi thế. Chị đi phăm phăm bằng đôi dép nhựa. Nam bước lạch ạch phía sau, gắng lắm mới theo kịp.

Qua dãy ruộng là tới con kinh đào nhỏ chạy dọc biên giới. Xa xa, dãy chợ trời thuốc lá trơ vơ giữa đồng. Gần hơn một chút là đồn công an. Ở đó có nhiều người đứng lố nhố. Đi tới gần, Nam thấy họ dần tản ra, rồi lũ lượt đi ngược về.

- Để ý ngó tìm Siêng nghe. - Chị Thảo nhắc.

Nam căng mắt nhìn. Nó lập tức nhận ra ngay một cái bóng nhỏ. Đích thị thằng Siêng. Không còn ai khác... Siêng chạy ù tới...

- Chị Thảo! Nam!

- Em...

- Sao chị Thảo với Nam ra tận đây lận? - Siêng ngước mắt hỏi. Nhìn mắt nó, thấy được cả những ray rứt băn khoăn. Nam se lòng nhìn chiếc áo cũn cỡn, cái tay áo ngắn không che nổi cánh tay gầy guộc của nó. Trên tay, Siêng cầm cái bao nylông được xếp gọn lại...

- Chị với Nam đừng nghĩ xấu về em nhiều lắm nghen. Em xấu hổ ghê khi phải dính líu đến chuyện hồi nãy...

Siêng chợt im bặt, ngó chị Thảo. Chị khoan dung nói: “Em kể tiếp đi”.

- Em... em hết gạo rồi phải đi làm chuyện này thôi...

- Chuyện này là chuyện gì, hở Siêng? - Chị Thảo gặng hỏi, giọng thảng thốt.

- Đi “đai” thuốc thuê cho người ta, chị ạ!

“Đai” thuốc. Nam hiểu ra. Người đi “đai” qua chợ trời thuốc lá bên kia biên giới mua thuốc về với giá rẻ, nhập lậu vào Việt Nam. Công an được phép bắt giữ, tịch thu thuốc lậu. Nhiều người lớn muốn tránh công an, đã thuê trẻ con làm việc này. Chuyện đó ông ngoại có kể.

Theo thằng Siêng, sau khi đi tìm con trâu suốt ba ngày không có, nó không dám về, đành ngủ tại chòi lá, tối lại qua kinh đi học. Cầm cự được một tuần, hết gạo nó đành qua chợ Gò Miên xin người ta chia thuốc để “đai” về. Thuốc nó lận lưng áo đi bộ hai ba cây số đường ruộng. Gặp công an thì “vắt giò lên cổ” mà dọt. Bữa nay, xui bị bắt. Cũng may, mấy anh thả nó về...

- Chuyện này, ba má em còn sống chắc không cho em làm. Nhưng không đi, làm sao sống... hở chị?

- Mỗi bữa người ta trả em bao nhiêu?

- Một ngàn hai ạ!

Một ngàn hai trăm đồng! Bằng đúng một giờ chơi trò chơi điện tử. Nam chưng hửng. Sao mà rẻ mạt thế. Đổi lấy ba bốn chuyến băng đồng lội ruộng dưới nắng! Nhìn lại, tóc thằng Siêng hoe vàng, da nó sạm hơn... đầy vẻ lam lũ.

- Siêng... gặp khó khăn, sao không nói với chị?

- Dạ, thôi... Chị với Nam quá tốt với em. Vậy cũng đủ rồi. Vả lại, em định làm chuyện này trong vài tuần lễ, có ít tiền xoay việc khác, bán báo chẳng hạn. Phải chi đến mùa, em xin đi gặt thuê...

Gần tới xóm, cả ba đi chậm lại. Cái lều của thằng Siêng hiện ra xơ xác, đen ngòm trong bóng chiều đổ xuống. Xa hơn nữa là ánh đèn điện sáng trắng của những nhà mặt lộ, ánh đèn dầu đỏ quạch của xóm trong... Đó là thế giới đầy ánh sáng, có những bồ lúa đầy ắp, những chuồng lợn đông đúc, của những gia đình đầm ấm có mẹ ngồi may, cha đọc báo, đàn con trải chiếu nằm hát ngoài cái sân phơi lúa... Cái thế giới không có thằng bé mồ côi, không người thân thích mới mười mấy tuổi đầu tên Siêng.

Đến trước lều, nó dừng lại, ngập ngừng:

- Em không dám mời chị với Nam vào đây ngồi chơi. Không đèn, lều muỗi lắm. Cũng không còn củi để nấu nước...

Nam không biết nói gì, ngó qua chị Thảo. Chị đang suy nghĩ điều gì lung lắm. Thằng Siêng liếc nhìn đồng hồ của chị. Dường như muốn tránh một điều phải khó xử, nó buột miệng: “Em xin lỗi, chị với Nam về ăn cơm cho kịp. Bây giờ em tắm rửa rồi đi học, ngày mai em sẽ ghé nhà chị chơi”. Nam từ giã nó. Chị Thảo đặt tay lên vai Siêng. Nó yên lặng cúi đầu.

Một tiếng rưỡi sau, chị Thảo kêu Nam mượn ông ngoại cây đèn bão. Chị xin ông một chục ký gạo, mớ khô tra phồng và chai nước mắm. Chị còn cẩn thận mua thêm một cái đèn dầu nhỏ. Ra tới lều vịt, thằng Siêng đi mất tự lúc nào. Chị Thảo cẩn thận treo bịch khô lên nóc lều, bỏ bao gạo vào chiếc thùng gỗ trống rỗng và đặt chiếc đèn lên bàn. Chị lẩm bẩm: “Chắc nó mang bụng đói đi học”. Xong xuôi, hai chị em ra về.

Đêm đó, Nam hơi khó ngủ. Nó nghĩ mãi về hoàn cảnh thằng Siêng, hình dung vẻ mặt của Siêng khi trở về lều, thấy mớ đồ. Bên kia giường, có tiếng chị Thảo trở mình. Hẳn chị cũng nghĩ như nó.