← Quay lại trang sách

Chương V ÂM MƯU BỊ VẠCH TRẦN

“Bây giờ chính chúng ta cũng nên về nhà thì hơn,” Merry nói. “Em cùng thấy toàn bộ chuyện này có gì đó quái lạ; nhưng phải đợi sau khi chúng ta đến nơi đã.”

Họ đi xuống đường phà, dải đường thẳng thớm và được bảo quản tốt, hai bên vệ kè những hòn đá to quét vôi trắng. Được chừng một trăm thước, dải đường dẫn họ tới bờ sông, nơi có cầu tàu gỗ rộng thênh thang. Con phà to dẹt neo ngay cạnh. Những cây cọc buộc phà trăng trắng gần mé nước lấp lóa trong ánh sáng từ hai ngọn đèn trên cột cao. Đằng sau họ, những dải sương là là đồng ruộng bằng phẳng giờ đã cao lưng lửng bên trên các bờ giậu; còn dòng sông trước mặt tối thẫm, chỉ có một vài làn khói cuộn xoáy như hơi nước giữa đám sậy ven bờ. Ở phía bờ bên kia dường như đã đỡ sương mù.

Merry dẫn con ngựa lùn lên cầu tàu ra phà, những người còn lại đi theo. Merry từ từ đẩy phà ra xa bằng một cây sào dài. Dòng sông Bia Rum Đun chảy lặng lờ và mênh mông trước mắt họ. Phía bên kia, bờ sông dốc đứng, một con đường mòn ngoằn ngoèo bò từ dưới bến ngược lên cao. Ở đó có những ngọn đèn đang sáng lấp lánh. Đằng sau những ngọn đèn là Đồi Hươu lừng lững; và trên mạn đồi, qua màn sương lắc rắc, mở ra sáng rõ nhiều cửa sổ tròn, đỏ đỏ vàng vàng. Chúng là những cửa sổ Dinh Bia Rum, nơi định cư thượng cổ của nhà Hươu Bia Rum.

Một năm xa xưa, Gorhendad Lão Hươu, trưởng gia tộc Lão Hươu, một trong những người già nhất ở Chằm Lớn hay thậm chí già nhất cả Quận, đã vượt dòng sông vốn là ranh giới phía Đông khởi thủy của Quận. Ông xây (và đào) Dinh Bia Rum, đổi tên mình thành Hươu Bia Rum, ở lại định cư để rồi trở thành chủ nhân của cái cộng đồng có phần giống một quốc gia độc lập con con. Gia đình ông lớn hoài lớn mãi, sau đời ông vẫn tiếp tục lớn lên, cho đến khi Dinh Bia Rum choán toàn bộ quả đồi thấp, có đến ba cửa chính đồ sộ, rất nhiều cửa bên, và chừng một trăm cửa sổ. Con cháu nhà Hươu Bia Rum cùng hậu duệ vô số kể lại bắt đầu đào hốc, rồi sau đó xây nhà, khắp cả chung quanh. Đó chính là nguồn gốc Trấn Hươu, một dải đất quần cư đông đúc giữa dòng sông và Rừng Già, hao hao một khu kiều dân từ Quận ra đi. Làng lớn nhất là Ấp Hươu, quần tụ hai bên bờ sông và những triền dốc phía sau Dinh Bia Rum.

Dân ở Chằm Lớn thân thiện với người Trấn Hươu, và uy quyền của Chủ Dinh (người ta vẫn gọi tộc trưởng nhà Hươu Bia Rum như vậy) hãy còn được các nông dân sống trong khu vực nằm giữa thị trấn Stock và làng Đảo Cói thừa nhận. Nhưng phần lớn dân Quận cũ xem người nhà Trấn Hươu như những kẻ kỳ quái, có thể nói là ngoại lai phân nửa. Mặc dầu, thực ra họ không khác các Hobbit ở Tứ Tổng mấy tí. Ngoại trừ một điểm: Họ yêu thích thuyền, và vài người trong số họ biết bơi.

Ban đầu đất đai của họ không được che chắn ở đằng Đông; nhưng rồi họ đã dựng lên một tường giậu ngay chính phía ấy: Bờ Giậu Cao. Bờ được trồng từ nhiều thế hệ trước, nên bây giờ vừa dày vừa cao, cũng bởi được chăm nom luôn luôn. Bờ chạy suốt từ cầu Bia Rum Đun, thành một đường cánh cung to lớn uốn vòng từ con sông đi mãi xa, cuối cùng tới làng Đuôi Giậu (nơi phụ lưu Liễu Gai Quấn Quýt chảy ra khỏi Rừng Già hòa vào dòng sông Bia Rum Đun): hơn hai chục dặm từ đầu này tới đầu kia. Nhưng dĩ nhiên, đấy không phải một sự che chắn bảo vệ. Ở nhiều đoạn, Rừng Già đã tiến đến sát bờ giậu. Những người Trấn Hươu cứ khóa cửa im ỉm sau chạng vạng, với người Quận thế cũng là bất bình thường.

Phà đi chầm chậm qua sông. Bờ phía Trấn Hươu gần lại. Sam là thành viên duy nhất của cả đoàn trước nay chưa từng vượt sông. Chú cảm nhận một điều kỳ lạ trong lúc cái dòng ùng ục chầm chậm này trôi qua: cuộc đời cũ của chú cũng nằm lại đằng sau trong sương, còn phiêu lưu tăm tối chờ trước mặt. Chú vò đầu, và trong phút chốc thoáng ước mong sao cậu Frodo cứ tiếp tục sống đời lặng lẽ nơi Đáy Bao.

Bốn Hobbit bước khỏi phà. Merry buộc phà lại, và khi Pippin đã bắt đầu dẫn con ngựa lùn lên lối mòn thì Sam (nãy giờ mải ngoái nhìn như thể gửi lời chào giã biệt đến Quận) cất tiếng thì thầm khào khào:

“Nhìn đằng sau kìa, cậu Frodo! Cậu có thấy gì không?”

Trên bến bên kia, dưới hai ngọn đèn xa xăm, họ kịp nhận thấy một dáng người: nom như một bó gì đen tối bị bỏ lại đằng sau. Nhưng đúng lúc họ nhìn thì nó dường như di chuyển, lắc lư bên nọ bên kia, như thể mải lần mò nền đất. Rồi nó bò, hoặc giả đi lom khom, lùi vào vùng tối bên ngoài những ngọn đèn.

“Cái chết tiệt gì giữa Quận thế?” Merry la lên.

“Cái gì đó vẫn bám theo bọn anh từ đầu,” Frodo nói. “Nhưng giờ đừng hỏi nữa! Ta hãy đi khỏi đây ngay!” Họ vội vã leo lối mòn lên đỉnh bờ đất, nhưng khi nhìn lại thì bờ xa đã chìm trong sương, và chẳng còn thấy gì được nữa.

“Tạ ơn trời ta không để thuyền nào lại bờ Tây!” Frodo nói. “Ngựa có thể vượt sông không?”

“Chúng có thể phi mười dặm về phía Bắc, tới cầu Bia Rum Đun - không thì chúng có thể bơi,” Merry trả lời. “Mặc dù em chưa từng nghe có con ngựa nào bơi vượt dòng Bia Rum Đun. Mà ngựa thì liên quan gì?”

“Anh sẽ nói em nghe sau. Chúng ta cứ vào trong nhà rồi hẵng nói.”

“Thôi được! Anh và Pippin biết đường; nên em sẽ phi trước lên kia bảo Bolger Bự rằng anh sắp tới rồi. Bọn em sẽ chuẩn bị bữa tối và các thứ.”

“Bọn anh vừa mới ăn tối sớm với lão Maggot,” Frodo nói; “nhưng ta có thể làm bữa nữa.”

“Anh sẽ được bữa nữa! Đưa em cái giỏ kia!” Merry nói, đoạn phi ngựa lên trước, khuất vào trong đêm tối.

Từ dòng sông Bia Rum Đun tới nhà mới của Frodo ở làng Hõm Crick là cả một quãng đường dài. Họ đi qua Đồi Hươu và Dinh Bia Rum ở bên tay trái, rồi tới ngoại vi Ấp Hươu thì đụng phải con đường chính qua Trấn Hươu chạy từ cầu Bia Rum Đun về mãi phía Nam. Men theo đường này nửa dặm về hướng Bắc, họ gặp một lối mòn trổ ra bên tay phải. Theo ngã này họ đi khoảng đôi dặm nữa, và con đường bắt đầu gập ghềnh lên lên xuống xuống hút vào miền đồng quê.

Cuối cùng họ đến một cái cổng hẹp nương vào bờ giậu rậm rì. Chẳng thể thấy bóng dáng ngôi nhà của cậu trong bóng tối: nó đứng lùi vào cách lối đi chính giữa một bãi cỏ tròn to tướng, có vành đai cây thấp bao quanh bên trong bờ giậu ngoài cùng. Frodo chọn ngôi này, vì nó đứng ở một góc đồng quê lạc lõng, lại không có nhà cửa gì khác gần bên. Có thể đi vào rồi trở ra mà không bị ai để ý. Ngôi nhà được gia đình Hươu Bia Rum xây quãng lâu lâu về trước, để cho khách hoặc thành viên gia đình nào muốn trốn chạy nhịp sống tấp nập của Dinh Bia Rum một thời gian. Đó là môt ngôi nhà quê hóa kiểu dáng cổ lỗ, cố gắng hết cỡ cho giống một cái hốc Hobbit: vừa dài vừa thấp, không có tầng; lại có một lớp mái cỏ rơm, những cửa sổ tròn, một cửa lớn cũng tròn.

Không thấy có đèn đuốc gì lúc họ bước qua cổng lên lối mòn xanh; mọi cánh của đều tối đen và sập chớp. Frodo gõ lên cửa, và Bolger Bự ra đón. Ánh sáng thân thiện tràn ra. Họ vội vã bước vào, nhốt cả bản thân lẫn quầng ánh sáng vào trong. Họ đang ở một phòng khách rộng, tứ phía đều có cửa; trước mặt họ là một hành lang chạy thốc vào tận giữa nhà.

“Chà, anh thấy thế nào?” Merry vừa hỏi vừa đi lên hành lang. “Bọn em đã cố hết sức trong thời gian gấp rút làm cho nó giống y như ở nhà đấy. Suy cho cùng thì hôm qua Bự và em mới đến đây với xe hàng cuối cùng.”

Frodo nhìn quanh. Nơi đây quả thực giống y như ở nhà. Rất nhiều đồ đạc ưa thích của cậu - hoặc đồ đạc của bác Bilbo (trong khung cảnh mới chúng gợi cậu nhớ đến bác ghê gớm) - được sắp xếp gần như y hệt ở Đáy Bao trước kia. Thật là một nơi dễ chịu, tiện nghi, mời gọi; và cậu nhận ra mình ước sao đúng là đang thực sự về đây để định cư yên ổn. Bắt bạn bè khổ công cực nhọc đến thế này có vẻ chẳng công bằng; vậy là cậu lại băn khoăn tự hỏi sẽ làm sao báo cho họ biết rằng cậu buộc phải bỏ họ lại sớm lắm, mà thực ra là ngay lập tức đây. Thế mà việc đó sẽ phải xong nội đêm nay, trước khi cả bọn lên giường.

“Thật sung sướng quá!” cậu cố nói. “Anh gần như không cảm thấy mình đã dọn đi.”

Các lữ khách treo áo choàng, rồi chất hành lý thành đống trên sàn. Merry dẫn họ xuống hành lang, mở tung một cánh cửa phía cuối. Ánh lửa hắt ra, cả đám hơi nước phả đánh phụt.

“Bể tắm à!” Pippin la lên. “Ôi Meriadoc thần thánh!”

“Ta sẽ vào theo thứ tự nào?” Frodo hỏi. “Lớn tuổi trước, hay nhanh nhất trước? Chọn cách nào thì em cùng là cuối cùng, Nhóc Peregrin ạ.”

“Phải tin em giỏi sắp xếp đâu vào đấy hơn thế chứ!” Merry nói. “Chúng ta không thể nào bắt đầu cuộc đời ở Hõm Crick bằng một trận cãi vã về bồn tắm được. Trong phòng kia có ba bồn, cả một chảo đồng đầy nước sôi sùng sục. Cũng có đủ khăn tắm, thảm chùi chân lẫn xà phòng. Cứ vào trong mau lên!”

Merry và Bự đi vào trong căn bếp ở cuối hành lang, bận rộn chuẩn bị nốt bữa ăn khuya. Những đoạn rời rạc của nhiều bài ca chen nhau vọng ra từ nhà tắm hòa lẫn với tiếng vầy nước tung tóe lẫn đầm mình ì ọp. Giọng Pippin đột nhiên vói lên cao hơn hẳn mấy giọng kia, ngân nga một trong những bài ca đi tắm yêu thích của Bilbo:

Cao ca lên! bữa tắm cuối ngày

nhọc mệt theo bùn đất sạch ngay!

Chỉ đứa ngốc mới không ca tụng:

Ồ! Nước Nóng giời ban cho quý thay!

Ồ! Nhất vui là tiếng mưa rơi,

tiếng suối lăn xuống cỏ trên đồi;

nhưng mưa suối tha hồ róc rách

bằng thế nào Nước Nóng nghi ngút hơi.

Ồ! Nước lạnh khi cần ta ực

mát họng bỏng rang đã cơn khát;

nhưng có Bia dội họng với lưng

dội Nước Nóng thì cứ là hơn đứt.

Ồ! Vọt lên nước rõ đẹp xinh

dưới trời xanh đài nước trắng tinh;

nhưng đẹp mấy cũng không bì được

bằng chân ta quậy Nước Nóng cho lanh tanh bành!!

Nghe có tiếng quậy nước đánh tõm một cái cực lớn, rồi có tiếng hét Hô! Từ miệng Frodo. Dường như kha khá nước tắm của Pippin đã bắt chước một đài nước mà lao vọt lên cao.

Merry lại cửa nhà tắm: “Bữa tối và bia mát cổ họng thì thế nào đây?” cậu gọi vào. Frodo vừa lau khô tóc vừa đi ra.

“Nhiều nước trong không khí đến nỗi anh sẽ vừa đi vào bếp vừa tắm nốt được mất,” cậu nhận xét.

“Ái da!” Merry vừa ngó vào bếp vừa kêu lên. Nền nhà bằng đá ướt sũng từ bao giờ. “Em sẽ phải lau hết chỗ kia đi trước khi được ăn bất kể món gì, Peregrin ạ,” Merry nói. “Mau lên, không bọn anh sẽ không đợi em đâu.”

Họ ăn tối trong bếp trên một cái bàn gần lò sưởi. “Tôi đoán là ba anh không thèm nấm nữa đâu nhỉ?” Fredegar nói, không quá hy vọng.

“Có chứ!” Pippin kêu lên.

“Nấm là của tôi!” Frodo nói. “Chính bà lão Maggot, bà hoàng giữa các bà nông dân, mới cho tôi đấy. Bỏ cái tay tham lam của anh ra, tôi sẽ tự chia phần.”

Dân Hobbit say mê nấm, lòng say mê vượt quá mọi sở thích tham lam ham hố nhất của Người Cao Lớn. Một thực tế phần nào biện giải cho bao cuộc viễn chinh của Frodo đến các cánh đồng lừng tiếng trên Chằm Lớn, cũng như thái độ phẫn nộ của lão nông Maggot bị hại. Còn bữa nay có thừa đủ cho tất cả, thậm chí là thừa theo tiêu chuẩn của dân Hobbit. Cũng có nhiều món khác thêm vào đấy, thành thử ra khi xong xuôi đến ngay Bolger Bự cũng thốt một tiếng thở dài thỏa mãn. Họ đẩy lùi bàn, đoạn kéo mấy cái ghế lại quanh lò sưởi.

“Chúng ta sẽ dọn dẹp sau,” Merry nói. “Giờ kể em nghe mọi chuyện đi nào! Em đoán là các anh đã trải qua lắm cuộc phiêu lưu mà không có em, thật chẳng công bằng. Em muốn một câu chuyện đầy đủ chi tiết đấy; và trên hết em muốn biết có chuyện gì với lão Maggot, tại sao lão nói năng với em kiểu ấy. Nghe cứ như thể lão hoảng sợ hết hồn ấy, nếu như có khả năng đó thật.”

“Tất cả bọn em đều sợ hết hồn,” Pippin nói sau một thoáng ngập ngừng vì Frodo cứ chăm chăm nhìn vào ngọn lửa chẳng nói chẳng rằng. “Chắc anh cũng sẽ thế, nếu suốt hai ngày liền bị các Kỵ Sĩ Đen truy đuổi.”

“Bọn chúng là cái giống gì?”

“Những cái bóng đen sì cưỡi ngựa ô,” Pippin trả lời. “Nếu anh Frodo không định nói, em sẽ kể cho anh nghe toàn bộ câu chuyện từ đầu.” Nói rồi cậu thuật lại toàn bộ hành trình của họ từ lúc rời Hobbit Thôn. Sam thỉnh thoảng thốt lên khe khẽ, hoặc gật đầu đồng tình liên tục. Frodo vẫn im lặng.

“Chắc hẳn anh đã nghĩ em bịa ra mọi chuyện,” Merry nói, “nếu như không nhìn thấy cái bóng đen sì đó trên bến sông - và nghe được âm sắc lạ lùng kia trong giọng lão Maggot. Anh giải thích chuyện này thế nào, anh Frodo?”

“Anh họ Frodo gần đây rất kín tiếng,” Pippin nói. “Nhưng đã đến lúc anh ấy phải cởi mở rồi. Cho đến giờ chúng ta chả được cung cấp đầu mối gì ngoài lời đoán của lão Maggot rằng chuyện có gì đó liên quan đến kho báu của ông già Bilbo.”

“Chỉ là lời đoán thôi,” Frodo vội nói. “Lão Maggot không biết gì hết.”

“Lão già Maggot là tay sắc sảo,” Merry nói. “Nhiều thứ sôi sục đằng sau khuôn mặt tròn vạnh của lão lắm, chỉ có điều không vuột ra thành lời thôi. Em nghe đâu lão từng đi vào Rừng Già rồi đấy, và lão có tiếng biết nhiều thứ kỳ lạ hay ho. Nhưng anh Frodo, ít nhất thì anh cũng nói cho bọn em biết anh nghĩ lời đoán của lão trúng hay trật chứ.”

“Anh nghĩ,” Frodo chậm rãi đáp, “đó là một phỏng đoán khá sát, trong chừng mực nhất định. Quả có mối liên hệ với những cuộc phiêu lưu trước đây của bác Bilbo, vả lại các Kỵ Sĩ Đen đang tìm kiếm, hoặc ta nên nói là lùng sục, bác ấy hoặc anh. Nếu các em muốn biết, anh e rằng đấy hoàn toàn không phải chuyện đùa; ở đây hay ở đâu thì anh cũng không được an toàn.” Cậu nhìn quanh những cánh cửa sổ cùng bốn bức tường, như thể sợ chúng đột nhiên đổ sụp. Mấy người còn lại im lặng nhìn cậu, trao đổi cho nhau những cái liếc mắt nhiều ý nghĩa.

“Sắp nói vuột ra ngay đây,” Pippin thì thào với Merry, Merry gật gù.

“Chà!” cuối cùng Frodo nói, ngồi thẳng lưng dậy, như thể cậu vừa có một quyết định. “Tôi không thể mù mờ mọi chuyện lâu hơn nữa. Tôi có việc này phải nói với tất cả. Nhưng chưa biết phải bắt đầu thế nào.”

“Em nghĩ em có thể giúp anh,” Merry khẽ nói, “bằng cách tự nói cho anh nghe vài phần câu chuyện.”

“Ý em nói gì?” Frodo nói, vừa băn khoăn nhìn Merry.

“Chỉ là thế này, ông anh Frodo thân mến: anh khổ sở, bởi anh không biết làm thế nào nói lời tạm biệt. Anh định rời Quận, cố nhiên. Nhưng hiểm nguy đã tìm đến anh sớm hơn anh chờ đợi, và giờ đây anh đang quyết chí phải đi ngay lập tức. Và anh không muốn vậy. Bọn em rất thông cảm với anh.”

Frodo há miệng ra rồi lại ngậm vào. Vẻ kinh ngạc của cậu khôi hài đến độ họ phá lên cười. “Anh Frodo thân mến!” Pippin nói. “Anh thực sự nghĩ là anh đã tung hỏa mù lòe được bọn em à? Anh chưa đủ cẩn trọng hay thông minh để làm được thế đâu! Anh rõ ràng đang lên kế hoạch ra đi, mải mốt tạm biệt tất cả những nỗi ám ảnh của anh suốt cả năm nay kể từ hồi tháng Tư. Bọn em cứ liên tục phải nghe anh lẩm bẩm: ‘Không biết liệu có bao giờ ta còn được đứng trông xuống thung lũng kia,’ với lại đủ thứ kiểu ấy. Còn giả vờ rằng anh đã đến nước cạn sạch tiền, phải bán cả đến Đáy Bao thân yêu của anh cho bọn nhà Xắc Vải-Bao Gai! Lại còn tất tật những cuộc nói chuyện kín bưng ấy với lão già Gandalf.”

“Ôi chao ôi!” Frodo thốt lên. “Anh cứ tưởng mình cẩn trọng thông minh lắm. Anh không biết ông Gandalf sẽ nói gì đây. Vậy phải chăng toàn Quận đang bàn tán việc anh ra đi?”

“Ồ không!” Merry nói. “Đừng lo chuyện đó! Bí mật sẽ không giữ được lâu, cố nhiên; nhưng hiện tại thì vẫn không sao, em nghĩ vậy, chỉ duy có hội đồng mưu bọn em là biết. Mà rút cuộc, anh phải nhớ là bọn em thừa hiểu anh, và thường vẫn ở bên anh. Bọn em thường có thể đoán ngay ra anh đang nghĩ gì. Em cũng biết rõ bác Bilbo. Nói thật với anh, từ hồi bác ấy bỏ đi em vẫn theo dõi anh tương đối sát sao. Em chắc chẳng chóng thì chày anh sẽ đi theo bác ấy; mà thực tình em cứ ngỡ anh đi sớm hơn cơ đấy, và dạo gần đây bọn em rất lo. Bọn em đã phát hoảng lên chỉ sợ anh trốn bọn em mà ra đi bất thình lình, một thân một mình y như bác ấy. Kể từ dạo mùa xuân vừa rồi bọn em vẫn để ý xem sao, còn chủ động lên khối kế hoạch. Anh không trốn thoát dễ thế đâu!”

“Nhưng anh phải đi,” Frodo nói. “Vô phương rồi, các bạn thân mến. Thật là khốn khổ cho tất cả chúng ta, nhưng mọi người có giữ anh cũng chẳng ích gì. Bởi vì mọi người đã đoán ra đến thế, xin hãy giúp anh, đừng cản trở anh!”

“Anh không hiểu à!” Pippin kêu lên. “Anh phải đi - vậy nên bọn em cũng phải đi. Merry và em sẽ đi cùng anh. Sam thì là anh bạn tuyệt vời rồi, dám nhảy xuống cuống họng rồng để cứu anh ấy chứ, giả sử cậu ấy không trượt ngã vì giẫm phải chân mình; nhưng anh sẽ không chỉ cần một bạn đồng hành trong cuộc phiêu lưu nguy hiểm của anh.”

“Các bạn Hobbit thân mến, các em yêu dấu nhất trần đời của anh!” Frodo nói, vô cùng xúc động. “Nhưng anh không thể cho phép các em làm thế. Anh cũng đã quyết định lâu rồi. Các em nói về hiểm nguy, nhưng các em không hề hiểu. Đây không phải là cuộc truy tìm kho báu, không phải chuyến đi đến-đó-rồi-về. Anh đang chạy từ nguy hiểm chết người này sang nguy hiểm chết người nọ.”

“Dĩ nhiên là bọn em hiểu,” Merry cả quyết. “Thế nên bọn em mới quyết định sẽ đi. Bọn em biết chiếc Nhẫn không phải chuyện để cười đùa; nhưng bọn em sẽ cố gắng hết sức để giúp anh chống lại Kẻ Thù.”

“Chiếc Nhẫn!” Frodo thốt lên, lúc này thì kinh ngạc hoàn toàn.

“Phải, chiếc Nhẫn đấy,” Merry nói. “Ông anh Hobbit thân mến, anh quả tình không ngờ đến tính tọc mạch ở bạn bè. Em đã biết về sự tồn tại của chiếc Nhẫn nhiều năm rồi - trước cả khi bác Bilbo đi xa, thực vậy; nhưng bởi vì bác rõ ràng coi đó là bí mật, nên em đành giữ phát hiện ấy trong đầu, cho đến khi bọn em lập mưu này. Em không hiểu bác Bilbo như hiểu anh, cố nhiên rồi; em cũng còn quá trẻ, và bác lại quá cẩn trọng - nhưng bác vẫn chưa đủ cẩn trọng. Nếu anh muốn biết thoạt đầu làm thế nào em tìm hiểu được, em sẽ kể anh nghe.”

“Cứ kể tiếp đi!” Frodo nói chẳng ra hơi.

“Chính nhà Xắc Vải-Bao Gai là nguồn cơn vỡ lở cho bác ấy, như anh có lẽ sẽ đoán ra. Một hôm, trước Bữa Tiệc khoảng một năm, em tình cờ đang đi dạo dọc đường thì thấy bác Bilbo đằng trước. Đột nhiên nhà S.-B. ở đằng xa xuất hiện, đi về phía hai bác cháu. Bác Bilbo chậm lại, và rồi alê hấp! bác biến mất tăm. Em quá đỗi giật mình chẳng còn lý trí đâu mà che chắn bản thân theo lối bình thường hơn; song em sang được bên kia bờ giậu và rảo bước men theo cánh đồng phía bên trong. Em dòm ra đường, sau khi nhà S.-B. đã đi qua, thành ra lại đang nhìn thẳng vào bác Bilbo đúng lúc bác ấy đột nhiên xuất hiện trở lại. Em thoáng nhìn thấy ánh vàng ròng trong khi bác nhét cái gì đó vào túi quần.

“Sau hôm ấy em luôn để ý xem sao. Quả tình, em thừa nhận là em đã rình mò đấy. Nhưng anh phải công nhận là sự tình rất hấp dẫn người ta, mà em lại đang tuổi trẻ. Trừ anh ra, anh Frodo ạ, em chắc là người duy nhất ở Quận từng nhìn thấy cuốn sách bí mật của ông già.”

“Em đọc cuốn sách của bác ấy rồi!” Frodo la lên. “Trời cao đất dày! Không thứ gì còn được bình an vô sự nữa sao?”

“Không bình an vô sự mấy, em dám nói thế đấy,” Merry đáp. “Nhưng em chỉ liếc vội được một lần, thế nên khó mà hiểu được gì. Bác ấy chẳng bao giờ để sách lung tung. Em tự hỏi liệu giờ nó ra sao rồi. Em muốn xem thêm lần nữa. Anh có mang theo ở đây không, anh Frodo?”

“Không. Nó không ở Đáy Bao. Chắc bác ấy mang nó đi rồi.”

“Chà, như em vừa mới nói đấy,” Merry lại tiếp tục, “em cứ giữ phát hiện ấy cho mình, cho đến mùa xuân vừa rồi khi mọi chuyện trở nên nghiêm túc. Rồi bọn em lập mưu này; và vì bọn em cũng nghiêm túc, thực sự định làm là làm, bọn em cũng không dè dặt đạo lý gì lắm. Anh không phải là cái hạt quả dễ nậy, Gandalf còn khó hơn. Nhưng nếu anh muốn làm quen với tay đầu lãnh thanh tra của bọn em thì em có thể gọi hắn ra đây.”

“Hắn đâu?” Frodo nói, rồi nhìn quanh, như thể chờ đợi một hình nhân ám muội che mặt nạ từ chậu rửa bát nào đấy vọt lên.

“Bước lên đi, Sam!” Merry gọi; Sam đứng dậy, khuôn mặt đỏ lựng đến tận mang tai. “Đây là nhà sưu tầm thông tin của bon em! Trước khi bị tóm cậu ấy đã cung cấp được khối ra, cho anh biết. Sau vụ ấy, cậu ấy hình như coi mình là tù nhân được tạm tha vì đã cam kết, nên thôi hẳn.”

“Sam!” Frodo hét lên, cảm thấy sự ngạc nhiên không thể nào tăng hơn được nữa, nên tuyệt đối không tài nào xác định nổi mình đang cảm thấy tức giận, khoái chí, thở phào nhẹ nhõm, hay đơn giản là ngốc nghếch.

“Vâng, thưa cậu!” Sam lên tiếng. “Xin cậu bỏ lỗi cho! Mà tôi không có ý không phải với cậu, cậu Frodo, hay với ông Gandalf về cái chuyện này đâu. Ông ấy có trí khôn ghê gớm, xin cậu nhớ cho; nên khi cậu nói đi một mình, ông ấy đã bảo đừng! hãy mang theo ai đó cháu có thể tin tưởng được.”

“Nhưng chẳng có vẻ là tôi tin tưởng được ai hết,” Frodo nói.

Sam nhìn cậu vẻ không vui. “Tất cả tùy thuộc anh muốn gì,” Merry chêm vào. “Anh có thể tin tưởng bọn em sẽ gắn bó với anh bất chấp mọi khó khăn - cho đến cùng. Và anh có thể tin tưởng bọn em sẽ giữ bất kể bí mật gì của anh - kín hơn là tự anh giữ nhiều. Nhưng anh không thể tin tưởng bọn em sẽ để mặc anh đối diện khó khăn một mình, và bỏ đi mà không nói một lời nào. Bọn em là bạn anh, Frodo. Mà dù sao đi nữa: chuyện đã thế rồi. Bọn em biết gần hết những điều ông Gandalf đã nói với anh. Bọn em biết vô khối về chiếc Nhẫn. Bọn em sợ khủng khiếp - nhưng bọn em sẽ đi cùng anh; hoặc là lẽo đẽo theo gót anh như bầy chó săn.”

“Và xét cho cùng, cậu ạ,” Sam đế thêm, “cậu nhất định phải nghe lời người Tiên khuyên. Gildor bảo cậu nên chấp nhận kẻ nào tự nguyện đi theo cậu, nên cậu không thể khước từ.”

“Tôi không khước từ,” Frodo nói, vừa chăm chăm nhìn Sam lúc này đã chuyển sang nhăn nhở cười. “Tôi không khước từ, nhưng từ giờ tôi sẽ không bao giờ tin là cậu đang say ngủ, cho dù cậu có ngáy hay không. Tôi sẽ đá cậu thật lực để xem cho chắc.

“Các cậu là phường vô lại lừa lọc!” cậu nói, vừa quay sang ba người còn lại. “Nhưng trời phù hộ các cậu!” cậu cười lớn, đứng dậy phẩy tay, “tôi đầu hàng. Tôi sẽ nghe theo lời khuyên của Gildor. Nếu hiểm nguy này không quá ghê gớm, chắc tôi đã nhảy múa vì sung sướng. Mà ngay cả ghê gớm thật, tôi cũng không thể không cảm thấy sung sướng; sung sướng hơn nhiều những gì tôi cảm nhận được suốt một thời gian dài. Thế mà cứ nghĩ đến buổi tối này là tôi đã thấy sợ.”

“Tốt! Thế là xong. Hoan hô Thuyền trưởng Frodo và toàn đoàn ba lần!” họ hét lên; và nhảy múa quanh cậu. Merry và Pippin bắt đầu một bài ca mà rõ ràng đã thủ sẵn cho chính dịp này.

Nó được sáng tác theo mẫu bài ca của Người Lùn đã đưa tiễn Bilbo vào cuộc phiêu lưu từ hồi xưa, theo cùng giai điệu đó:

Tạm biệt thôi phòng khách bếp lửa ơi!

Mưa có rơi mà gió kia có thổi,

Ta phải đi trước lúc bình minh tới

Qua dãy non cao vợi vạt rừng xa.

Tới Thung Đáy Khe, Tiên vẫn ngụ cư

Giữa trảng rừng dưới truông mù sương đặc,

Qua bãi trống đồng không ta phi gấp,

Tiếp về đâu ta chưa biết được nào.

Kẻ thù đón trước, hãi sợ đuổi sau,

Trời làm màn ta soạn giường sửa chiếu,

Tới hồi chót nhọc nhằn đà kết liễu,

Hành trình xong, nhiệm vụ hết quay về.

Ta phải ra đi! Ta phải ra đi!

Ta phải phi trước lúc bình minh tới!

“Tốt lắm!” Frodo nói. “Nhưng trong trường hợp ấy thì còn nhiều việc cần làm trước khi chúng ta lên giường - bên dưới một mái nhà, ít nhất là trong đêm nay.”

“Ôi! Đây mới gọi là nên thơ!” Pippin kêu lên. “Có thật anh định khởi hành trước lúc bình minh tới không?”

“Anh chưa biết,” Frodo đáp. “Anh sợ các Kỵ Sĩ Đen, và chắc chắn sẽ không an toàn nếu anh ở lại một nơi quá lâu, nhất lại là một nơi mà chuyện anh đến ai cũng biết cả. Hơn nữa, Gildor khuyên anh không nên đợi. Nhưng anh hết sức cần gặp ông Gandalf. Anh có thể thấy là ngay cả Gildor cũng bối rối khi nghe được tin ông Gandalf không hề xuất hiện. Tình hình thực sự phụ thuộc vào hai yếu tố. Liệu bọn Kỵ Sĩ có thể đến Ấp Hươu chóng đến mức nào? Và chúng ta có thể khởi hành khẩn trương ra sao? Sẽ mất vô khối công việc chuẩn bị.”

“Câu trả lời cho câu hỏi thứ hai,” Merry lên tiếng, “ấy là chúng ta có thể khởi hành trong vòng một giờ. Thực ra em đã chuẩn bị mọi thứ. Có năm con ngựa lùn trong tàu ngựa bên kia quãng đồng này; đồ ăn thức uống dự trữ và dụng cụ đều đã được chằng buộc, trừ vài bộ quần áo thêm vào, và thực phẩm dễ thối hỏng.”

“Có vẻ như là hội đồng mưu cực kỳ hiệu quả,” Frodo nói. “Nhưng còn các Kỵ Sĩ Đen? Liệu chờ ông Gandalf thêm một ngày có an toàn không?”

“Cái đó hoàn toàn phụ thuộc vào việc anh cho là bọn Kỵ Sĩ sẽ làm gì, nếu chúng tìm ra anh ở đây,” Merry trả lời. “Dĩ nhiên, đến giờ có thể chúng đã đến được đây rồi, nếu không bị chặn ở cổng Bắc, chỗ Bờ Giậu chạy xuống bờ sông, ngay phía bên này cầu. Ban đêm những người gác cổng sẽ không để chúng qua, mặc dù chúng có khi cứ xông qua thôi. Em nghĩ, thậm chí ban ngày họ cũng sẽ cố giữ chân chúng ở bên ngoài, bằng bất cứ giá nào kỳ đến khi chuyển được lời nhắn tới Chủ Dinh - bởi vì họ sẽ không thích cái vẻ của bọn Kỵ Sĩ, và chắc chắn sẽ bị chúng làm cho kinh hoảng. Nhưng dĩ nhiên, Trấn Hươu không thể kháng cự một cuộc tấn công kiên quyết được bao lâu. Và có khả năng là vào buổi sớm mai ngay cả một tay Kỵ Sĩ phi đến đồi gặp ông Bao Gai cũng có thể được cho qua. Dân tình đại thể cũng biết khá rõ là anh sắp quay trở về sống ở Hõm Crick.”

Frodo ngồi ngầm nghĩ trong giây lát. “Tôi đã quyết rồi,” cuối cùng cậu nói. “Tôi sẽ khởi hành ngày mai, ngay lúc trời sáng. Nhưng tôi sẽ không đi bằng đường bộ, làm thế thì đợi ở đây còn an toàn hơn. Nếu đi qua cổng Bắc, việc tôi rời Trấn Hươu sẽ bị bại lộ ngay; mà biết đâu lẽ ra còn bí mật được chí ít vài ngày nữa. Và hơn nữa, cầu Bia và Đường Đông gần biên giới chắc chắn sẽ bị theo dõi, dù có tên Kỵ Sĩ nào xâm nhập vào Trấn Hươu hay không. Chúng ta không biết có bao nhiêu tên, nhưng ít nhất cũng có hai, mà có lẽ còn nhiều hơn. Việc duy nhất phải làm là chuồn đi theo hướng hoàn toàn không ai ngờ tới.”

“Nhưng nói thế chỉ có nghĩa là đi vào trong Rừng Già!” Fredegar hốt hoảng nói. “Anh không thể nào lại nghĩ đến chuyện làm thế được. Việc đó cũng nguy hiểm không kém gì bọn Kỵ Sĩ Đen.”

“Không hẳn,” Merry nói. “Nghe thì rất vô vọng, nhưng tôi tin Frodo đúng. Đấy là cách duy nhất ra đi mà không bị đuổi theo ngay lập tức. Nếu may mắn chúng ta có thể bỏ xa được tương đối.”

“Nhưng trong Rừng Già anh sẽ không có được may mắn nào hết,” Fredegar phản đối. “Chưa một ai từng may mắn ở trong đó cả. Anh sẽ bị lạc. Người ta không ai đi vào trong đo.”

“Ồ người ta có chứ!” Merry nói. “Nhà Hươu Bia Rum vẫn vào rừng - thỉnh thoảng khi cơn hứng lấy mất hồn vía họ. Chúng tôi có một lối vào bí mật. Frodo đã vào một lần, lâu lâu hồi trước. Tôi cũng đã ở trong đó vài bận: thường vào ban ngày, cố nhiên rồi, lúc mà cây cối còn ngái ngủ và tuyệt đối yên lặng.”

“Ầy, cứ làm những gì các anh cho là tốt nhất!” Fredegar buông lời. “Tôi sợ Rừng Già hơn bất cứ thứ gì từng biết đến: những câu chuyện về nó quả là một cơn ác mộng, nhưng phiếu của tôi chả tính làm gì, vì tôi sẽ không đi tiếp cuộc hành trình nảy. Dù sao đi nữa, tôi lấy làm mừng vì ai đó sẽ ở lại đằng sau, để có thể cho Gandalf biết các anh đã làm gì, khi ông ấy xuất hiện mà tôi chắc chắn ông ấy sẽ xuất hiện chẳng lâu la gì đâu.”

Mặc dù rất chi yêu quý Frodo, Bolger Bự chẳng hề mong muốn rời Quận, hay là xem xem có gì nằm ở bên ngoài kia. Gia đình cậu đến từ Tổng Đông, mà thực ra là từ Bến Budge ở vùng Đồng Cầu, nhưng cậu chưa bao giờ vượt qua cầu Bia Rum Đun. Sứ mệnh của cậu, theo như kế hoạch ban đầu của mấy kẻ đồng mưu, là phải ở lại đằng sau mà giải quyết đám dân tò mò tọc mạch, rồi duy trì càng lâu càng tốt cái sự giả vờ rằng cậu Bao Gai hãy còn đang ngụ tại làng Hõm Crick. Cậu thậm chí còn mang theo vài bộ quần áo cũ của Frodo để hỗ trợ việc đóng phân vai này. Họ hầu như không buồn nghĩ xem phân vai ấy có thể lại nguy hiểm nhường nào.

“Tuyệt!” Frodo thốt lên, sau khi hiểu ngọn ngành kế hoạch.

“Chúng ta không thể để lại lời nhắn cho ông Gandalf bằng cách nào khác được. Tôi dĩ nhiên không biết bọn Kỵ Sĩ có biết đọc hay không, nhưng chắc không nên liều gửi một lời nhắn giấy trắng mực đen, phòng trường hợp chúng xông vào lục soát ngôi nhà. Song nếu cậu Bự sẵn sàng giữ pháo đài, và chúng ta có thể chắc chắn ông Gandalf sẽ biết được chúng ta đi đường nào, thì tôi quyết định được rồi. Ngày mai, tôi sẽ đi vào Rừng Già từ sáng sớm.”

“Chà, thế là xong,” Pippin nói. “Tính hết mọi nhẽ, em thà nhận phần việc của chúng ta hơn là phần cậu Bự - đợi mòn ở đây tới chừng nào bọn Kỵ Sĩ Đen mò đến.”

“Cứ chờ đến bao giờ anh ở hẳn trong Rừng Già đi hẵng,” Fredegar nói. “Anh sẽ ước gì được quay lại đây với tôi trước cả giờ này ngày mai.”

“Tranh cãi mãi cũng chẳng ích gì,” Merry lên tiếng. “Chúng ta vẫn còn phải dọn dẹp và sửa sang nốt chỗ hành lý, trước khi lên giường. Tôi sẽ gọi tất cả các anh trước rạng đông.”

Cuối cùng cũng về được giường, mất một lúc Frodo không tài nào ngủ nổi. Hai chân cậu đau nhức. Cậu mừng là sáng hôm sau mình sẽ cưỡi ngựa. Sau rốt cậu chìm vào một cơn mộng mị mơ hồ, trong cơn mộng ấy cậu dường như đang ngước nhìn cả một biển cây cối quấn vào nhau tối thẫm bên ngoài một cửa sổ cao. Xuống mãi bên dưới giữa đám rễ cây có tiếng những loài sinh vật vừa bò trườn vừa khụt khịt. Cậu cảm thấy chắc chắn chẳng chóng thì chầy chúng sẽ ngửi ra mình.

Rồi cậu nghe thấy tiếng động ở đằng xa. Thoạt tiên cậu nghĩ đó là cơn gió lớn ào qua tán lá rừng. Rồi cậu hiểu đó không phải lá, mà là âm thanh của Đại Dương xa xôi; thứ âm thanh cậu chưa nghe thấy bao giờ trong cuộc đời tỉnh thức, mặc dầu nó vẫn hay quấy rầy những cơn mơ. Đột nhiên cậu thấy mình ở giữa trời. Rốt cục chẳng có cây cối gì sất. Cậu đang ở trên một đồng thạch nam đen thẫm, và trong thinh không có mùi muối là lạ. Nhìn lên cậu thấy phía trước mình một tòa tháp trắng cao vứt đứng đơn độc trên một sống núi cao. Mong muốn cháy bỏng được trèo lên tòa tháp ngắm Đại Dương choán lấy cậu. Cậu bắt đầu hì hục bò lên sống núi hướng tới đó: nhưng đột ngột một luồng sáng hiện lên trên bầu trời, và có tiếng sấm.