Chương VIII SƯƠNG TRÊN VỆT ĐỒI MỘ ĐÁ
Suốt đêm đó họ không nghe thấy tiếng động nào. Song không hiểu trong hay ngoài những giấc mơ, không sao phân biệt nổi, Frodo nghe được tiếng hát ngọt ngào chạy trong tâm trí: một bài ca dường như ánh sáng nhợt nhạt sau màn mưa xám, dần sáng hẳn lên biển cả bức màn xám thành thủy tinh và bạc, cho đến cuối cùng màn cuộn lại, và một miền đất xanh thẳm mở ra trước cậu dưới bình minh vội vã.
Ảo cảnh tan chảy thành thức tỉnh; và kia là Tom đang huýt sáo vang lên như một cái cây đầy chim chóc; mặt trời đã kịp chiếu xéo xuống đồi qua cửa sổ để ngỏ. Bên ngoài vạn vật xanh mởn và vàng óng nhạt.
Sau bữa sáng lại ăn một mình họ chuẩn bị sẵn sàng nói lời tạ từ, lòng dù trĩu nặng, nhưng rồi cũng chẳng được bao lăm trước cảnh vật ban mai: man mát, sảng sủa, lại sạch tinh dưới bầu trời thu quang quẻ xanh lơ. Không khí từ Tây Bắc tràn về tinh khôi. Lũ ngựa lùn lặng lẽ gần như trở nên nghịch ngợm hẳn, hít ngửi rậm rịch liên hồi. Tom ra khỏi nhà, vừa vẫy mũ vừa nhảy nhót trên ngưỡng cửa, khua các Hobbit trở dậy để rồi khởi hành mà đi cho nhảu.
Họ cưỡi ngựa lùn dọc một lối mòn uốn lượn từ sau nhà đi xa hút, leo chếch lên phía Bắc đỉnh đồi mà ngôi nhà nương náu dưới chân. Họ vừa mới nhảy xuống định dắt lũ ngựa lùn lên sườn dốc đứng sau cùng thì đột nhiên Frodo dừng lại.
“Anh Đào Vàng!” cậu kêu lớn. “Quý nương xinh đẹp của ta, mặc tuyền màu xanh lá ánh bạc! Chúng ta chưa hề chào tạ từ nàng, cũng chưa gặp nàng kể từ tối hôm qua!” Cậu lo lắng đến độ đã quay người lại; nhưng đúng lúc đó một tiếng gọi trong trẻo vọng xuống lan như sóng. Trên đỉnh đồi cao kia nàng đứng vẫy tay chào họ: mái tóc nàng đang bay lõa xõa, và bắt ánh mặt trời mà tỏa sáng lung linh. Một vầng ánh sáng như màng nước lấp lánh trên cỏ đẫm sương vụt hiện dưới chân nàng nhún nhảy.
Họ vội vàng leo lên sườn dốc cuối cùng, và đứng hổn hển cạnh nàng. Họ cúi chào, song nàng huơ cánh tay mời họ nhìn quanh; từ trên đỉnh đồi họ phóng tầm mắt nhìn đất đai trải dưới ban mai. Bấy giờ miền đất quang đãng và xa thẳm chẳng kém gì từng bị sương mù che mờ lúc trước khi họ đứng trên mỏm đồi trong Rừng Già, mỏm đồi giờ có thể thấy nhô lên nhàn nhạt màu xanh bên trên cây rừng tối thẫm ở đằng Tây. Cũng hướng đó, đất dâng lên ở những chỗ sống đồi nhiều cây, xanh, vàng, nâu đỏ dưới mặt trời, đằng sau đó là thung lũng sông Bia Rum Đun nằm ẩn mình. Hướng Nam, bên kia dòng Liễu Gai Quấn Quýt, thấy có ánh lóe sáng xa xăm giống thủy tinh bợt bạt nơi sông Bia Rum Đun đánh vòng cung vĩ đại tại vùng đất thấp rồi chảy ra ngoài tầm hiểu biết của người Hobbit. Hướng Bắc, bên kia những quả đồi teo nhỏ dần, đất trải mãi vào những miền bằng phẳng lẫn gò đồi màu xám, màu xanh cùng đủ màu đất nhợt, cho đến khi mờ dần vào một khoảng đằng xa không đường nét chìm trong tối. Hướng Đông, vệt đồi Mộ Đá nhô cao, nếp nọ tiếp nếp kia gối vào trong ban mai, mất hút khỏi tầm mắt mà hòa vào một vệt áng chừng: ấy chỉ là một vệt áng chừng màu xanh và một vầng sáng trắng xa xăm quyện với đường viền chân trời, nhưng vẫn gợi lên trong tâm tưởng họ, nhờ ở ký ức và các truyện kể xưa cũ, các quả núi xa và cao.
Họ hít một hơi thật sâu, cảm thấy chỉ cần một cú nhảy cẫng cùng vài sải chân chắc nịch cũng đủ mang họ đi bất cứ đâu họ muốn. Có vẻ như đi ì ạch men rìa vùng đồi gồ ghề nhắm phía Đường Đông thì quá nhút nhát, trong khi đáng lẽ họ phải đang nhảy tưng tưng, khỏe khoắn như lão Tom, dùng những mỏm đồi làm bàn đạp mà nhảy thẳng hướng Dãy Núi Mù kia.
Nàng Anh Đào Vàng cất tiếng nói, gọi đôi mắt và dòng suy nghĩ của bọn họ trở về. “Mau chân nào, các vị khách quý!” nàng nói. “Và hãy vững lòng! Thẳng về Bắc với gió nơi mắt trái cùng lời chúc phúc trên mọi bước chân quý khách! Hãy mau mau chừng nào mặt trời còn chiếu sáng!” Và riêng với Frodo nàng nói: “Giã từ, hỡi Bạn Tiên, thật là cuộc hội ngộ hân hoan!”
Song Frodo thì nghẹn lời không đáp. Cậu cúi chào thật thấp, rồi nhảy lên con ngựa lùn, dẫn theo các bạn chầm chậm đi xuống sườn dốc thoai thoải sau đồi. Ngôi nhà của Tom Bombadil, thung lũng cùng cả Rừng Già chìm lẫn không còn nhìn thấy. Không khí trở nên ấm áp hơn giữa những bức tường xanh toàn sườn đồi với sườn đồi, mùi thơm từ lớp cỏ mặt dậy lên đằm ngọt mỗi hơi họ hít thở. Quay nhìn lại, lúc xuống đến đáy thung lũng xanh rì, họ trông thấy nàng Anh Đào Vàng, bấy giờ nhỏ bé mảnh mai như một bông hoa bắt nắng trên nền trời: nàng đứng yên đó dõi theo họ, đôi tay mở rộng chìa về phía họ. Họ nhìn lên thì nàng cất tiếng gọi trong veo, rồi giơ bàn tay lên nàng quay người biến mất sau đồi.
Đường họ đi uốn lượn theo lòng thung lũng, vòng quanh chân đồi xanh dốc đứng vào một thung lũng khác sâu rộng hơn, và rồi qua nhiều vai đồi xa hơn, xuống những tay đồi dài, lại lên những suờn đồi mượt mà, lên tới tận những đỉnh đồi mới, xuống những thung lũng mới. Không thấy có cây hay vùng nước nào trước mắt: đó là một vùng toàn cỏ và cỏ mặt êm chân lúp xúp, im lặng trừ tiếng thì thầm của thinh không bên kia rìa vùng đất cùng những tiếng kêu cô độc cao vút của lũ chim lạ. Họ càng đi mặt trời càng lên cao, và nóng rẫy. Mỗi lần họ trèo lên một sống đồi, cơn gió nhẹ dường như đã lại thêm lặng tờ. Khi có thể nhìn thấy thấp thoáng miền đất phía đằng Tây, họ thấy khu Rừng Già xa xa hình như đang bốc khói, như thể nước mưa rơi xuống giờ đang bốc hơi từ lá, rễ và đất mùn. Một cái bóng bấy giờ bao quanh rìa tầm mắt họ, màn sương mù tăm tối đội tầng trời cao bên trên giống hệt chiếc mũ màu xanh, nóng bỏng và trĩu nặng
Chừng giữa ngày họ tới một quả đồi đỉnh rộng và phẳng dẹt, giống một cái đĩa nông có vành xanh đắp nổi cao. Bên trong không một chút không khí lưu thông, và bầu trời dường như ngay sát đầu họ. Họ cho ngựa băng qua và nhìn về phía Bắc. Để rồi trái tim đập rộn, vì hầu như rõ rành là họ đã tiến được xa hơn dự tính. Hẳn nhiên mọi khoảng cách giờ đã trở nên mịt mờ và lừa mị hết cả, nhưng không thể nghi ngờ gì là Vệt Đồi sắp hết. Một thung lũng dài trải ra bên dưới uốn lượn về phía Bắc, cho đến khi gặp một khe đường giữa hai vai đồi dốc đứng. Xa hơn nữa hình như không còn đồi. Chính hướng Bắc, họ thoáng thấy một đường kẻ dài tối sẫm. “Đấy là một hàng cây,” Merry nói, “nên chắc đấy phải là dấu mốc Đường Đông rồi. Suốt dọc đường phía Đông cách cầu Bia Rum Đun hàng bao nhiêu lý có rất nhiều cây mọc. Vài người nói chúng được trồng từ hồi xửa hồi xưa.”
“Tuyệt vời!” Frodo nói. “Nếu chiều nay chúng ta cố đi nhanh được như ban sáng, chúng ta sẽ rời Vệt Đồi trước khi mặt trời lặn rồi thong thả đi tìm chỗ dựng trại.” Nhưng ngay khi đang nói cậu quay nhìn đằng Đông, và thấy ở phía ấy những quả đồi còn cao hơn, ngạo nghễ nhìn xuống họ; tất cả những quả đồi ấy đều có gò đống xanh um bao quanh ở đỉnh, trên vài gò là những cột đá chỉ thiên sừng sững như hàm răng lởm chởm bên trên u nướu xanh um.
Cảnh quan ấy có phần làm họ kinh động; vậy nên họ quay mình không nhìn nữa mà đi sâu xuống thung lũng. Ở chính giữa thung lũng sừng sững một cột đá đơn độc, đứng cao ngất dưới mặt trời bên trên, và vào giờ ấy không hề hắt bóng. Nó không ra hình thù gì nhưng đầy ý nghĩa: giống như một mốc địa giới, hay một ngón tay hộ vệ, hay hơn thế - một dấu hiệu cảnh báo. Nhưng họ bấy giờ đang đói, vả lại mặt trời còn đang ở ban trưa không đáng sợ; vậy nên họ dựa lưng vào mặt phía Đông cột đá. Đá mát lạnh, như thể mặt trời chẳng có chút quyền năng sưởi ấm chúng; nhưng bấy giờ điều này lại có vẻ dễ chịu. Họ bèn lấy đồ ăn thức uống ra, đánh chén một bữa trưa thật ngon khó ai có thể còn đòi ngon hơn dưới bầu trời rộng mở; bởi thức ăn là từ “bên dưới Đồi Tom” mà có. Lão Tom đã chuẩn bị cho họ thừa đủ cả ngày. Lũ ngựa lùn được cởi gánh thì tản mát trên bãi cỏ.
Cưỡi ngựa vượt mấy quả đồi, ăn cho no bụng, mặt trời ấm áp và mùi hương cỏ, nằm lâu thêm tí chút, vừa giãn chân cẳng vừa ngắm bầu trời trên chóp mũi: chừng ấy có lẽ đủ để giải thích việc đã xảy ra. Mà dù gì thì cũng là thế này: họ bứt rứt choàng tỉnh khỏi một giấc ngủ không hề có trong dự kiến. Cột đá thì lạnh lẽo, đổ cái bóng dài nhợt nhạt kéo thượt về phía đằng Đông, trùm lên họ. Mặt trời màu vàng nhợt run rẩy, đang chiếu sáng xuyên qua màn sương mù ngay bên trên vách phía Tây thung lũng nơi họ nằm; phía Bắc, phía Nam, và phía Đông, bên kia vách thung, sương dày đặc, lạnh và trắng xóa. Thinh không im lặng, nặng trĩu và buốt giá. Lũ ngựa lùn đứng túm tụm chúi đầu.
Các Hobbit hốt hoảng bật đứng dậy, chạy tới mép thung phía Tây. Họ thấy mình đang ở trên một hòn đảo giữa biển sương. Đương khi mất hết cả tinh thần mà trông về phía tà dương, mặt trời tức thời lặn ngay trước mắt họ xuống biển sương trắng, rồi bóng đêm xám lạnh bật dậy ở phía đằng Đông sau lưng. Sương cuộn lên những vách đồi, dâng cao quá đầu họ, vừa bốc lên vừa uốn mình bên trên đầu họ cho đến khi trở thành một mái vòm: họ bị nhốt chặt trong sảnh đường sương mà cột trụ trung tâm chính là cột đá nọ.
Họ cảm thấy như có một cái bẫy đang khép lại chung quanh; nhưng họ không mất hết lòng can đảm. Họ hẵng nhớ quang cảnh vệt Đường Đông phía trước mới đây còn tràn đầy hy vọng, và họ vẫn còn biết nó nằm ở đằng nào. Bất luận ra sao, bây giờ họ vô cùng ớn ghét cái chốn không sương xung quanh trụ đá đến nỗi không mảy may nghĩ đến chuyện nán lại. Họ gói ghém nhanh hết mức, vận hết tốc lực của những ngón tay lạnh cóng.
Chẳng mấy chốc họ đã dẫn lũ ngựa lùn đi hàng một qua mép đồi xuống sườn đồi giãi dài phía Bắc, chìm vào trong một biển sương. Trong lúc họ đi xuống sương trở nên lạnh hơn và ẩm ướt thêm, tóc họ rủ bết nhỏ giọt trên trán. Họ xuống đến đáy thì trời lạnh đến độ phải tạm dừng mà lấy áo choàng cùng mũ trùm ra, nhưng áo mũ chẳng mấy chốc cũng ướt sũng những giọt sương xám xám. Xong xuôi, nhảy lên ngựa, họ lại chầm chậm đi tiếp, lần mò tìm đường nhờ nền đất chỗ gồ lên chỗ trũng xuống. Theo như suy đoán, họ đang hướng về phía khe hở giống như cánh cổng ở tận cùng phía Bắc thung lũng dài dặc mà họ đã nhìn thấy sáng nay. Một khi đã qua được khe ấy rồi, họ chỉ còn phải tiếp tục cứ đường thẳng mà đi và cuối cùng hẳn sẽ ra tới Đường Cái. Suy nghĩ của họ chưa đi xa hơn mức đó, ngoại trừ một hy vọng mơ hồ rằng có lẽ ngoài Vệt Đồi biết đâu không còn sương mù.
Họ đi rất chậm. Để không bị xé lẻ và tản mát ra các hướng khác nhau họ bám thành hàng một, Frodo dẫn đầu. Sam ở đằng sau cậu, sau Sam đến Pippin, rồi đến Merry. Thung lũng dường như kéo dài ra vô tận. Thốt nhiên Frodo thấy một dấu hiệu đáng mừng. Cả hai phía trái lẫn phải đằng trước, bóng tối bắt đầu hiện ra nhờ nhờ qua màn sương; cậu đoán là họ cuối cùng cũng sáp đến gần khe mở giữa những quả đồi, cánh cổng Bắc vệt đồi Mộ Đá. Nếu có thể đi thoát qua đó, họ sẽ được tự do.
“Đi nào! Theo tôi!” cậu gọi với ra sau, đoạn rảo bước tiến lên. Nhưng hy vọng của cậu chẳng mấy đã chuyển thành bối rối và hốt hoảng. Các mảng bóng tối thẫm lại thật, song cũng co ngắn lại; rồi đột nhiên cậu thấy sừng sững đáng sợ trước mặt là hai cột đá khổng lồ, hơi ngả vào nhau như hai trụ đứng một cánh cửa không trụ ngang. Cậu không nhớ nổi hồi sáng từ trên đồi trông ra có thấy bất kể bóng dáng nào của mấy thứ này dưới thung lũng hay không. Cậu đi qua giữa hai cột đá lúc nào hầu như không hay biết: và ngay giữa lúc cậu đi qua, màn đêm dường như buông khắp chung quanh. Con ngựa lùn chồm hai vó trước khịt khịt mũi, đẩy cậu rơi khỏi lưng. Ngoái nhìn đằng sau cậu thấy mình chỉ có một mình: những người khác đã không theo kịp.
“Sam!” cậu gọi. “Pippin! Merry! Đến đây! Sao các cậu không theo tôi?”
Không có tiếng trả lời. Nỗi sợ hãi chộp lấy cậu, và cậu vừa chạy ngược trở lại qua hai cột đá vừa hét như điên dại: “Sam! Sam! Merry! Pippin!” Con ngựa lùn vọt vào trong sương rồi biến mất. Từ đâu đó rõ xa, hoặc hồ như vậy, cậu nghĩ mình nghe thấy tiếng gọi: “Hô! Frodo! Hô!” Tiếng gọi ở mãi đằng Đông, bên trái cậu lúc cậu đứng bên dưới hai cột đá lớn, căng mắt nhìn chòng chọc vào cảnh tối tăm. Cậu lao về hướng tiếng gọi, và thấy mình đang đi lên đồi dốc cheo leo.
Vừa chật vật trèo cậu vừa gọi lần nữa, và mỗi lúc thêm điên cuồng gọi tiếp mãi; song suốt một lúc cậu không nghe thấy ai trả lời, và rồi tiếng trả lời hồ như yếu ớt, vừa xa đằng trước vừa cao bên trên cậu. “Frodo! Hô!” những tiếng nói từ trong sương thoảng tới: và rồi một tiếng kêu nghe như cứu, cứu! lúc lúc lại lặp lại, kết thúc bởi một tiếng cứu! cuối cùng nhỏ dần thành tiếng rền rĩ lê thê đột nhiên đứt đoạn. Cậu chạy sấp ngửa hết tốc lực về phía trước theo hướng mấy tiếng kêu; nhưng ánh sáng giờ đã tắt, đêm đeo đẳng vây quanh cậu, đến độ không thể nào chắc chắn hướng nào là hướng nào nữa. Dường như suốt thời gian ấy cậu toàn leo lên, lên mãi.
Duy nhất sự thay đổi độ bằng phẳng của nền đất dưới chân cho biết tự lúc nào cậu rốt cục đã đến một sống đồi hay đỉnh đồi. Cậu mệt lử, túa mồ hôi song lạnh cóng. Trời tối mịt mùng.
“Mọi người ở đâu?” cậu gào lên khốn khổ.
Không có tiếng đáp trả. Cậu đứng lắng nghe. Cậu đột nhiên nhận ra trời đang trở lạnh ghê gớm, và rằng trên này gió đang bắt đầu thổi, một đợt gió băng giá. Thời tiết đang thay đổi. Sương bấy giờ đang bay qua người cậu từng vệt từng dải tả tơi. Hơi thở cậu tỏa khói, còn bóng tối lùi dần và loãng ra. Cậu ngước nhìn, kinh ngạc thấy những ngôi sao xa mờ đang hiện lên trên đầu giữa những dải mây và sương mù hối hả. Gió bắt đầu rít trên cỏ.
Đột nhiên cậu ngờ mình thoáng nghe được một tiếng kêu nghèn nghẹt, bèn tiến về phía ấy; giữa lúc cậu tiến về phía trước sương mù như bị cuộn lại và đẩy sang bên, bầu trời lấp lánh sao lộ ra hẳn. Liếc mắt nhìn, cậu nhận thấy mình giờ đang đối diện hướng chính Nam, ở trên một đỉnh đồi tròn vo mà hẳn cậu đã trèo lên từ mạn Bắc. Từ phía đằng Đông cơn gió cắt da cắt thịt vẫn đang thổi. Bên tay phải, cậu lại thấy lờ mờ hiện trên nền sao trời đằng Tây một hình thù đen tối. Một trụ Mộ Đá đồ sộ đứng ngay đó.
“Các cậu ở đâu?” cậu lại gọi, tức giận lẫn sợ hãi.
“Ở đây!” một giọng nói vang lên, vừa trầm vừa lạnh lẽo, mà hồ như phát ra từ trong lòng đất. “Ta đang đợi nhà ngươi!
“Không!” Frodo đáp; song cậu không bỏ chạy. Đầu gối cậu rụng rời, và cậu ngã khuỵu xuống đất. Chẳng chuyện gì xảy ra cả, cũng không có âm thanh nào. Cậu ngước nhìn run rẩy, vưa đúng lúc thấy một hình dáng cao cao tăm tối như bóng đen trên nền sao trời. Nó ngó xuống cậu. Cậu nghĩ có hai con mắt, rất lạnh lẽo mặc dầu lóe sáng, thứ ánh sáng nhợt nhạt như từ khoảng xa xăm nào rọi tới. Rồi một gọng kìm cứng hơn thép, lạnh hơn đồng bóp lấy cậu. Cái đụng chạm băng giá khiến xương cốt cậu đóng băng, rồi cậu chẳng nhớ gì nữa.
Khi tỉnh lại, mất một lúc cậu chẳng thể hồi tưởng được điều gì ngoại trừ cảm giác khiếp đảm. Rồi đột nhiên cậu hiểu rằng mình vừa bị cầm tù, bị bắt một cách vô vọng; cậu đang ở bên trong một trụ Mộ Đá. Một ác hồn Mộ Đá vừa bắt cậu, và rất có khả năng câu đã bị ếm những bùa chú kinh hồn của lũ ác hồn Mộ Đá mà bao chuyện kể rỉ tai vẫn nhắc. Cậu không dám đụng cựa, chỉ thấy mình hiện sao thì cứ nằm nguyên thế: lưng áp xuống một tảng đá lạnh, hai tay trên ngực.
Những dẫu nỗi sợ hãi lớn đến độ gần như hòa vào chính bóng tối chung quanh, cậu thấy mình vẫn vừa nằm vừa nghĩ ngợi đến bác Bilbo Bao Gai cùng các câu chuyện của bác, nghĩ đến hai bác cháu rong ruổi cùng nhau trên mọi xóm ngõ của Quận, mải mê trò chuyện về những ngả đường và những cuộc phiêu lưu. Luôn có một hạt giống can trường ẩn náu (thường khá sâu, thực vậy) trong trái tim gã Hobbit béo nhất và nhút nhát nhất, ém kỹ đợi chút hiểm nguy tuyệt vọng chung cuộc, để nó được lớn lên. Frodo không béo lắm cũng không nhút nhát lắm; thực tình, dù cho cậu không hề biết, bác Bilbo (và cả Gandalf) vẫn cho rằng cậu là Hobbit cừ nhất Quận. Cậu nghĩ mình đã đến đoạn kết cuộc phiêu lưu này, một đoạn kết kinh khủng, song ý nghĩ ấy khiến cậu thêm cứng cỏi. Cậu thấy mình cứng cỏi hẳn, như thể chuẩn bị cho cú nhảy bật cuối cùng; cậu không còn cảm thấy nhũn chi chi như con mồi tuyệt vọng nữa.
Trong lúc nằm đó, vừa nghĩ ngợi vừa xốc lại tinh thần, cậu ngay tắp lự để ý thấy rằng bóng tối đang chầm chậm lùi bước: một ánh sáng xanh nhợt lớn dần chung quanh cậu. Thoạt đầu nó chưa giúp cậu biết mình đang ở một chỗ thế nào, bởi ánh sáng kia duờng như từ chính cậu tỏa ra, cả từ nền sàn bên dưới cậu, và còn chưa lan tới được mái hay tường. Cậu quay người, và kia trong vùng sáng lạnh cậu thấy nằm cạnh mình là Sam, Pippin, rồi cả Merry. Họ đều nằm ngửa, mặt họ nom nhợt nhạt đầy tử khí; họ còn mặc toàn đồ trắng. Quanh họ ngổn ngang nhiều của báu, có lẽ bằng vàng, dầu cho dưới ánh sáng ấy nom chúng lạnh lẽo và chẳng đáng yêu chút nào. Trên đầu họ gài những đai nhỏ bằng vàng, xích vàng quấn quanh eo lưng, và trên mười ngón tay họ đeo vô số nhẫn. Kiếm để bên sườn, khiên ở dưới chân. Song bắc ngang ba cần cổ họ là một lưỡi kiếm trần dài thượt.
Đột nhiên một bài ca cất lên: một tiếng thì thầm lạnh lẽo, lúc bổng lúc trầm. Giọng hát dường xa xôi và đáng kinh hãi vô cùng, thảng hoặc cao vút tầng không và lảnh lót, thảng hoặc như tiếng rên trầm u từ trong lòng đất. Từ dòng suối không hình thù toàn những âm thanh buồn bã mà kinh khủng, từng chuỗi câu chữ lúc lúc lại định hình: những câu chữ lạnh cứng ác nghiệt, nhẫn tâm và khốn khổ. Đêm tối đang chửi bới ban mai mà nó bị tước đoạt, và cái lạnh đang nguyền rủa cảm giác ấm áp nó hằng thèm khát. Frodo rét tận xương tủy. Một lúc sau bài ca trở nên rõ ràng hơn, và cậu kinh hoàng tận tâm can hiểu ra là nó đã biến thành một câu thần chú:
Lạnh đi tay trái tim xương tủy,
lạnh đi giấc ngủ dưới đá vòm:
đừng tỉnh dậy trên giường đá nữa
tới kỳ Nhật Nguyệt tắt dần mòn.
Gió đen thổi ngàn sao rụng chết,
chúng vẫn nằm mê mệt trên vàng,
tới kỳ bàn tay chúa hắc ám
cất trên biển chết đất lửa héo tàn.
Cậu nghe sau gáy tiếng cào và cọt kẹt. Cậu chống tay rướn người lên quan sát, và trong ánh sáng nhợt nhạt giờ cậu thấy họ đang ở trên một lối đi mà ngay đằng sau là một chỗ quành. Từ sau chỗ quành một cánh tay dài thò ra mò mẫm, những ngón tay chạy về phía Sam đang nằm gần đấy nhất, nhằm thẳng đốc kiếm để trên người chú.
Thoạt tiên Frodo cảm thấy như thể cậu quả thực đã bị hóa đá vì câu thần chú vừa rồi. Rồi ý nghĩ chạy trốn điên rồ chợt đến. Cậu tự hỏi giả sử đeo chiếc Nhẫn vào, liệu ác hồn Mộ Đá có bỏ sót cậu chăng, rồi biết đâu cậu sẽ tìm được cách nào đó thoát thân. Cậu tưởng tượng ra mình chạy thoát trên đồng cỏ, thương khóc Merry, Sam và Pippin, nhưng bản thân thì nhởn nhơ và còn sống nguyên. Gandalf hẳn sẽ công nhận rằng cậu chẳng thể làm gì khác cả.
Song lòng dũng cảm vừa mới thức giấc trong con người cậu giờ trở nên quá mạnh: cậu không thể bỏ mặc bạn bè dễ dàng như thế. Cậu dao động, mò trong túi áo, và rồi lại tự đấu tranh tư tưởng; đang còn loay hoay thế thì cánh tay kia đã bò lại gần. Đột nhiên, ý chí quyết tâm trong cậu đanh hẳn lại; chộp vội thanh đoản kiếm lay lắt ngay cạnh, rối quỳ xổm dậy, cậu lom khom thật thấp băng qua người các bạn mình. Vận tất cả sức mạnh còn lại cậu chặt trúng gần cổ cánh tay đang bò, bàn tay liền đứt rời; song cùng lúc đó lưỡi kiếm nát vụn đến tận chuôi. Nghe một tiếng rít inh tai rồi ánh sáng vụt biến. Trong bóng tối có tiếng gầm gừ.
Frodo ngã nhào lên người Merry, mặt Merry sờ vào lạnh ngắt. Ngay lập tức, từ đúng nơi nó đã biến mất vào ngay đợt sương giá đầu tiên, ký ức về ngôi nhà dưới chân đồi và về lão Tom đang ca hát trở về tâm trí cậu. Cậu nhớ bài ca mà lão Tom đã dạy họ. Bằng giọng khe khẽ tuyệt vọng, cậu hát lên: Hô, Tom Bombadil! và vừa thốt ra cái tên ấy giọng cậu dường như to hẳn lên: âm giọng sống động đầy đặn, làm khoang hầm tối âm vang như thể đánh trống hay thổi kèn trumpet.
Hô! Tom Bombadil, Tom Bombadil ơi!
Nhân danh nước, rừng với đồi, nhân danh liễu xanh ngời,
Nhân danh lửa, giời với giăng, lắng tai mà nghe tiếng khẩn!
Đến ngay Tom Bombadil, đã tới lúc cần lắm lắm!
Đột nhiên cả không gian chìm trong sự im lặng sâu thẳm, đến nỗi Frodo có thể nghe thấy cả tiếng trái tim mình đập. Một khắc dài lê thê sau, cậu nghe thấy rõ rành một giọng hát đáp trả, dù rất xa xăm, như thể từ lòng đất hoặc qua mấy lượt tường dày vọng đến:
Lão Tom Bombadil, cá ngày vui hớn hở,
Ủng dưới chân lão màu vàng, áo khoác xanh rạng rỡ.
Chưa ai bắt được lão đâu nhé, vì Tom đây là chủ nhân:
Bài ca lão mạnh hơn mọi kẻ, chân nhanh hơn mọi chân.
Nghe có tiếng ầm ầm lớn, như thể vô số hòn đá đang lăn và rơi, rồi đột nhiên ánh sáng tràn vào, ánh sáng thực, ánh sáng trắng của ban ngày. Một lỗ hổng thấp nom giống ô cửa xuất hiện ở cuối khoang hầm ngay quá chân Frodo; và kia cái đầu của lão Tom (mũ, lông vũ và đủ cả) nổi trên ánh mặt trời đang lên đỏ rực sau lưng. Ánh sáng chiếu xuống nền sảnh, xuống khuôn mặt ba Hobbit đang nằm cạnh Frodo. Họ vẫn không cựa quậy, song sắc màu chết chóc đã rời bỏ họ. Bây giờ trông họ như thể chỉ đang ngủ rất sâu.
Lão Tom cúi người, bỏ mũ, đoạn bước vào trong khoang hầm tối, vừa bước vừa hát:
Ra ngay, lũ Ác Hồn này! Trời tru nắng diệt chúng mày!
Quắt lại đi như sương lạnh, như gió hú gào xa bay,
Vào miền đất hoang cằn cỗi, xa tít bên kia rặng núi!
Đùng bao giờ trở lại đây! Mộ đá trống không chừa lại!
Cút ngay vào xó lãng quên, tối hơn bóng thẳm tối tăm,
Nơi các cổng muôn đời vẫn đóng, tới khi chữa lành thế gian.
Dứt những lời này nghe có tiếng rú và một phần mặt trong đầu hầm đổ sụp đánh rầm. Thế rồi nghe tiếng rú dài lê thê, lịm dần vào khoảng cách không sao đoán được; và sau đó là im lặng.
“Lại đây, bạn Frodo!” lão Tom nói. “Chúng ta hãy ra ngoài cỏ sạch. Cậu phải giúp lão khiêng bọn họ ra.”
Họ cùng nhau khiêng Merry, Pippin rồi Sam ra ngoài. Lần sau cùng rời trụ mộ Frodo thoáng có cảm giác như vừa trông thấy một bàn tay đứt lìa vẫn đang co giật như con nhện bị thương, giữa một đống đất mới sụp. Tom lại đi trở vào, và liền có tiếng đấm tay nện chân ghê gớm. Lúc đi ra lão ôm trong tay cả một ôm lớn của báu: các thứ bằng vàng, bạc, đồng thiếc và đồng đỏ; nhiều hột châu, dây chuyền và đồ trang trí nạm đá quý. Lão trèo lên mộ đá xanh và đặt tất cả chúng trên đỉnh gò dưới ánh mặt trời.
Lão đứng đó, mũ trong tay và gió lùa mái tóc, nhìn xuống ba anh chàng Hobbit đã được đặt nằm ngửa trên cỏ cạnh phía Tây gò đất. Giơ bàn tay phải lên, lão nói bằng giọng oai vệ và rành mạch:
Dậy thôi, các cậu vui tươi! Dậy nghe ta đang gọi vời!
Ấm lại tim ấm lại chân tay! Đá lạnh kia sụp đổ rồi;
Cửa tăm tối đã mở bung; bàn tay chết đã chặt đứt.
Đêm dưới Đêm cuốn gói chuồn, Cánh Cổng kia đã bật!
Frodo hân hoan tột độ thấy mấy anh chàng Hobbit cựa quậy, duỗi tay, dụi mắt và rồi bất thình lình ngồi bật dậy. Họ kinh ngạc nhìn quanh, đầu tiên nhìn Frodo, sau đó nhìn lão Tom đang đứng sống động bằng xương bằng thịt trên đỉnh mộ đá cao bên trên kia; rồi nhìn lại mình trong mớ giẻ rách trắng mỏng tang, đầu đội miện lưng thắt đai bằng vàng nhạt, lại còn leng keng đủ thứ trang sức trên người.
“Cái quái gì đây?” Merry khơi mào, sờ sờ cái vành mũ miện vàng nhỏ vừa tụt xuống một bên mắt. Cậu dừng khựng, một bóng đen lướt qua mặt, cậu nhắm mắt lại. “Dĩ nhiên rồi, mình nhớ rồi!” cậu nói. “Bọn quỷ thành Carn Dûm sáp tới đánh chúng ta hồi đêm, và chúng ta đại bại. A! Lưỡi mác đâm vào tim ta!” Cậu túm chặt lấy ngực. “Không! chả phải!” cậu kêu, vừa mở mắt ra. “Tôi đang nói gì vậy? Chắc tôi vừa nằm mơ. Anh biến đi đâu vậy, Frodo?”
“Anh tưởng anh bị lạc,” Frodo giải thích; “nhưng anh không muốn nhắc đến chuyện đó nữa. Hãy tính xem bây giờ nên làm gì đây! Ta cứ đi tiếp thôi!”
“Ăn mặc như thế này sao, thưa cậu?” Sam lên tiếng. “Quần áo của tôi đâu rồi?” Chú ném vương miện, đai lưng, nhẫn nhủng lên cỏ, rồi tuyệt vọng nhìn quanh, như thể trông chờ tìm thấy áo choàng, áo khoác, quần chẽn của mình, cùng y phục của các anh chàng Hobbit kia nữa nằm đâu đó gần tầm tay.
“Các cậu sẽ không tìm lại được quần áo đâu,” lão Tom nói, vừa nhảy từ trên gò xuống, rồi vừa cười vừa nhảy nhót quanh họ dưới ánh mặt trời. Người ta hẳn sẽ nghĩ là chẳng xảy ra chuyện gì nguy hiểm hay kinh khủng cả; và quả thực nhìn thấy lão, thấy tia nhìn tươi vui trong mắt lão, nỗi sợ hãi từ từ rút lui khỏi tim họ.
“Ý lão là sao?” Pippin hỏi, nhìn lão nửa bối rối nửa buồn cười. “Tại sao không?”
Song lão Tom lắc đầu, bảo: “Các cậu đi tìm lại được chình mình, từ vùng nước thăm thẳm đó. Quần áo là mất mát không đáng kể, khi mà các cậu thoát khỏi cảnh chết đuối. Hãy sung sướng nào, các bạn tươi vui của lão, bây giờ cứ để ánh mặt trời ấm áp xoa lành trái tim và chân cẳng! Quăng những giẻ rách giá lạnh này đi! Cứ chạy trần truồng trên cỏ, trong khi lão Tom đi săn một cái!”
Lão lao vút xuống đồi, vừa huýt sáo vang vừa hô lớn. Nhìn hút theo, Frodo thấy lão chạy tít về phía Nam men theo thung lũng xanh um giữa quả đồi họ đang ngồi và quả đồi kế bên vẫn vừa huýt sáo vừa la gọi:
Ây dào! Ra đây nào! Chúng mày mất tiêu đâu đấy?
Lên, xuống, gần hay xa, đây hay kia hay đằng ấy?
Ê Tai Thính, này Mũi Tinh! Đuôi Vun Vút! Cu Thộn Ngố!
Vớ Trắng, này chú mình! Đâu rồi bạn già Buớu Ú?
Lão cứ thế vừa hát vừa chạy thật nhanh, tung mũ lên cao rồi bắt lại, cho đến khi khuất sau một nếp đất đồi: nhưng cứ thỉnh thoảng tiếng ây dào! ra đây nào! của lão lại xuôi theo cơn gió đang chuyển vòng về đằng Nam mà trôi trở lại.
Không khí lại dần trở nên rất ấm áp. Bốn chàng Hobbit chạy quanh một lúc trên cỏ, y theo lời lão. Rồi họ nằm tắm nắng với niềm sung sướng của những kẻ đột nhiên được nhẹ đưa từ mùa đông lạnh căm căm đến một vùng khí hậu ôn hòa, hay của những con người sau bao ngày bị ốm liệt giường, một ngày tỉnh dậy chợt nhận ra mình khỏe khoắn không ngờ và ngày mới lại lần nữa đầy hứa hẹn.
Đến lúc lão Tom trở về thì họ đang cảm thấy vô cùng sung sức (và đói ngấu). Lão lại ló ra, mũ trước tiên, bên trên chỏm đồi đằng sau lão là sáu con ngựa lùn đi thành hàng ngoan ngoãn: năm con của họ và một con nữa. Con cuối cùng rõ ràng là Bướu Ú: nó to hơn, béo hơn (và già hơn) lũ ngựa lùn của họ. Merry, nguyên là chủ sở hữu của tất cả những con ngựa kia, thực ra chưa từng đặt cho chúng bất cứ cái tên nào như thế, vậy mà suốt phần đời còn lại chúng chỉ đáp lại những cái tên mới lão Tom trao cho. Lão Tom gọi từng con một, chúng bèn trèo lên đỉnh đồi, rồi sắp thành hàng. Rồi lão Tom cúi chào các chàng Hobbit.
“Lũ ngựa lùn của các cậu đây!” lão nói. “Chúng có linh tính (về mặt nào đó) còn tốt hơn đồ Hobbit lang thang các cậu đấy - ít ra là khứu giác tốt hơn. Bởi chúng đánh hơi thấy trước hiểm nguy mà các cậu thì sa thẳng chân vào; và nếu chúng chạy để thoát thân, thì chúng cũng chạy đúng đường. Các cậu phải tha thứ cho tất cả bọn chúng nhé; bởi cho dù trái tim chúng vẫn thủy chung, chúng sinh ra không phải để đương đầu với nỗi sợ ác hồn Mộ Đá. Nhìn xem, chúng lại về đây rồi, thồ theo mọi gánh nặng của chúng nữa!”
Merry Sam, và Pippin bấy giờ đã trang phục xong xuôi bằng những thứ quần áo dự phòng trong hành lý; bọn họ chẳng mấy chốc lại cảm thấy quá nóng, bởi buộc phải khoác lên nguời vài thứ vừa ấm vừa dày mà họ đã mang theo phòng mùa đông sắp tới.
“Cái con vật già nua kia, cái con Bướu Ú kia, từ đâu ra nhỉ?” Frodo hỏi.
“Nó là của ta,” lão Tom nói. “Anh bạn bốn chân của ta; mặc dù ta hiếm khi cưỡi nó, nó cũng thường lang thang tít xa, tự do trên các triền đồi. Lúc lũ ngựa lùn của các cậu ở nhà ta, chúng đã làm quen Bướu của ta; trong đêm chúng đánh hơi được Bướu, liền chạy vội tới gặp. Ta nghĩ nó cũng đi tìm bọn chúng và dùng những lời lẽ thông thái xua tan mọi nỗi sợ của chúng. Nhưng giờ, Bướu hay hớm của ta ơi, lão Tom già này sẽ cưỡi chú mình. Hây! Lão sẽ đi cùng các cậu, chỉ đưa các cậu lên đường cái thôi, nên lão cần một con ngựa lùn. Bởi người ta không dễ nói chuyện với những anh chàng Hobbit đang cưỡi ngựa, nhất là khi người ta đi bộ lót tót đằng sau bọn họ.”
Các Hobbit nghe thế thì hớn hở lắm, bèn cảm ơn lão Tom rối rít; nhưng lão cười lớn, bảo rằng họ quá giỏi tự làm mình lạc đến độ lão sẽ chỉ thấy vui chừng nào nhìn thấy họ bình an ra khỏi địa giới của lão. “Lão có việc phải làm,” lão bảo; “lão gây dựng và lão ca hát, lão nói chuyện và lão du hành, lão đi tuần địa hạt của mình. Tom không thể luôn ở ngay gần để mở những cửa và khe liễu. Tom có ngôi nhà phải chăm lo, và nàng Anh Đào Vàng đang đợi.”
Căn theo mặt trời thì vẫn còn khá sớm, đâu giữa chín và mười giờ, nên bốn anh chàng Hobbit chuyển tâm trí sang đồ ăn. Bữa gần nhất của họ là bữa trưa bên cạnh cột đá ngay hôm trước. Bây giờ họ điểm tâm hết veo số thực phẩm dự trữ lão Tom cho, vốn định dành cho bữa tối, thêm những thứ bổ sung lão Tom mang theo người. Nó không phải bữa ăn thịnh soạn gì (theo tiêu chuẩn của các chàng Hobbit mà lại trong hoàn cảnh nay), song họ cảm thấy khá hơn nhiều sau khi ăn. Trong khi họ đang ăn lão Tom đi lên gò đất, kiểm tra kỹ càng số của báu. Phần lớn những thứ này lão chồng thành một đống sáng loáng lấp lánh trên thảm cỏ. Lão bắt chúng nằm đó “dành cho mọi ai tìm thấy tùy ý lấy, chim muông hay dã thú, Tiên hay Con Người, cùng mọi sinh vật tử tế”; bởi chỉ như thế bùa chú của gò đất mới bị bẻ gãy và tản mác làm không một Ác Hồn nào còn đường quay trở lại. Lão chọn từ đống của báu một chiếc ghim hoa nạm những viên đá xanh dương đa sắc điệu như những bông hoa lanh hay cánh lũ bươm bướm xanh. Lão nhìn chiếc ghim hoa thật lâu, như thể ký ức nào đó vừa khuấy động, vừa lắc đầu, rồi cuối cùng nói:
“Món đồ chơi xinh đẹp cho Tom và cho người đẹp của lão đây! Lộng lẫy làm sao là quý phi xưa kia gài thứ này trên vai. Anh Đào Vàng giờ sẽ lại gài nó, và chúng ta sẽ chẳng quên nàng!”
Cho mỗi chàng Hobbit, lão chọn một con dao găm dài, hình lá, và bén lẹm, tinh xảo, nạm những hình rắn đỏ và vàng. Lão rút chúng ra khỏi bao dao màu đen, chúng sáng loáng, được rèn từ thứ kim loại lạ lùng nào đó, nhẹ và cứng rắn, dát nhiều đá sáng như lửa. Không biết do phẩm chất nào đó của những chiếc bao dao hay bởi bùa chú nào kia ếm lên trên gò đất, những lưỡi dao duờng như chưa bị thời gian chạm tới, chúng không rỉ sét mà vẫn sắc ngọt, lấp lánh dưới nắng trời.
“Dao cũ dài vừa bằng kiếm cho dân Hobbit,” lão nói. “Lưỡi dao sắc bén sẽ vô cùng có ích, nếu dân Quận đi chơi xa, Đông Nam, hay xa tít vào chốn tối tăm nguy hiểm.” Đoạn lão bảo họ rằng những lưỡi dao này nhiều năm về trước do Con Người Tây Châu rèn nên: bọn họ là kẻ thù của Chúa Tể Hắc Ám, nhưng rồi bị tên vua ác quỷ ở kinh thành Carn Dûm nước Angmar đánh bại.
“Giờ chẳng mấy ai còn nhớ đến họ,” Tom lầm bầm, “dù vẫn còn vài người đi lang thang, hậu duệ của các vị vua bị lãng quên chu du trong cô độc, bảo vệ bọn dân lơ đễnh khỏi các thứ ác quỷ.”
Bốn Hobbit không hiểu lời lão, song khi lão nói trước mắt họ dường như hiện ra hình ảnh một quãng năm tháng lớn lao đã lui lại đằng sau, giống như một đồng bằng bóng tối bao la trên đó sải bước những hình dáng Con Người, lênh khênh và trầm mặc, đeo gươm sáng loáng, người đi cuối cùng có ngôi sao trên lông mày. Rồi hình ảnh ấy nhạt nhòa đi, và họ trở lại thế giới chan hòa ánh nắng. Lại đến lúc khởi hành. Họ sửa soạn sẵn sàng, chằng buộc các túi chất lên lũ ngựa lùn. Các thứ vũ khí mới họ đeo lủng lẳng trên thắt lưng da, bên dưới áo khoác, cảm thấy mình đến kỳ cục, băn khoăn không biết chúng có ích gì chăng. Chẳng ai trong bọn họ từng nảy ra ý nghĩ giao chiến là một trong những thứ phiêu lưu mà chuyến rút chạy này sẽ đưa đến cho mình.
Cuối cùng họ khởi hành. Họ dắt lũ ngụa lùn xuống đồi; và rồi cưỡi lên chúng chạy nước kiệu thật mau xuôi thung lũng. Họ ngoái nhìn đằng sau thấy cái chỏm gò đất cũ trên đồi, từ đó ánh mặt trời trên vàng ròng bốc ngược lên như ngọn lửa vàng rực. Thế rồi họ rẽ vào một vai Vệt Đồi và tất cả khuất khỏi tầm nhìn.
Mặc dầu đã nhìn quanh tứ phía Frodo vẫn chẳng thấy bóng dáng nào của hai trụ đá vĩ đại giống như trụ cổng, rồi chẳng mấy chốc họ đã đến khe đường phía Bắc bèn nhanh chóng phi qua, và miền đất thấp đã trải ra đằng trước họ. Ấy là một hành trình vui vẻ có Tom Hombadil hoan hỉ phi nước kiệu bên cạnh, hoặc giả đằng trước họ, trên lưng Bướu Ú đang đi chuyển nhanh hơn so với tốc độ mà người ta dự đoán được khi nhìn cỡ vòng yên bụng của nó. Lão Tom hát gần như suốt đường, chủ yếu những lời chẳng nghĩa lý gì, hoặc có lẽ bằng thứ ngôn ngữ lạ lùng các Hobbit không hề biết, mọi thứ ngôn ngữ cổ mà các từ chủ yếu nói lên niềm kinh ngạc và nỗi hân hoan.
Họ tiến lên đều đặn, song sớm nhận ra Đường Cái xa xôi hơn họ tưởng. Kể cả không có sương mù, giấc ngủ giữa ngày hẳn cũng đã ngăn không cho họ đến đích trước sẩm tối ngày hôm qua. Đường kẻ tối sẫm họ nhìn thấy khi trước không phải là hàng cây mà là một hang bụi rậm mọc trên bờ ria con hào sâu có tường hào dốc đứng phía bên kia. Lão Tom bảo rằng con hào từng là ranh giới một vương quốc, nhưng đã xa xưa lắm. Lão dường như nhớ chuyện buồn nào về vương quốc đó, nên không định nói gì nhiều.
Họ leo xuống leo lên con hào rồi qua một khe hở trên tường, và rồi lão Tom xoay chính Bắc, bởi nãy giờ họ đã phần nào chếch sang phía Tây. Vùng đất giờ rộng mở và khá bằng phẳng, nên họ đẩy nhanh nhịp bước, song phải tới khi mặt trời lặn thấp lắm rồi họ mới thấy một hàng cây cao truớc mặt và biết rằng mình đã quay về đến Đường Đông sau bao nhiêu cuộc phiêu lưu không ngờ. Họ thúc lũ ngựa lùn phi nước đại qua mấy sải cuối cùng, rồi dừng lại dưới bóng dài của hàng cây. Họ đang ở trên đỉnh một bờ dốc, và Đường Cái, bấy giờ đã mờ tối trong chiều buông, uốn lượn xa dần bên dưới. Ở đoạn này con đường gần như chạy theo hướng Tây Nam - Đông Bắc, nên về bên phải họ nó đổ vội xuống một lòng chảo rộng. Đường bị lún và mang nhiều dấu hiệu của cơn mưa nặng hạt vừa xong; có những vũng cùng ổ gà đầy nước. Họ phi xuống bờ dốc, hết nhìn lên lại nhìn xuống. Chẳng thấy gì. “Chà, cuối cùng cũng lại đây rồi!” Frodo thốt lên. “Tôi đồ rằng chúng ta mất thêm chưa quá hai ngày nhờ lối đi tắt qua Rừng Già của tôi! Những có lẽ sự chậm trễ này lại hữu ích - có thể nó đã đánh lạc hướng chúng khỏi lộ trình của ta.”
Mấy Hobbit kia nhìn cậu. Cái bóng của nỗi sợ bọn Kỵ Sĩ Đen lại đột nhiên lướt qua họ. Kể từ khi vào Rừng Già họ chủ yếu chỉ chăm chăm nghĩ đến chuyện trở lại Đường Cái cho bằng được; chỉ đến giờ đường nằm ngay dưới chân rồi, họ mới nhớ ra hiểm nguy theo sát họ, có thể còn đang nằm chờ họ trên chính con đường này. Họ lo lắng ngoái nhìn hướng mặt trời đang lặn, nhưng Đường Đông vẫn xám nâu và trống không.
“Các anh có nghĩ,” Pippin ngập ngừng hỏi, “các anh có nghĩ đêm nay chúng ta sẽ bị bám theo không?”
“Không, ta hy vọng không phải đêm nay,” lão Tom Bombadil trả lời; “có lẽ ngày mai cũng không. Nhưng đừng vội tin phỏng đoán của ta; bởi ta không dám chắc đâu. Xa mãi bên ngoài đằng Đông, hiểu biết của ta chẳng đâu vào đâu. Tom không phải chủ nhân lũ Kỵ Sĩ từ Vùng Đất Đen quá xa bên kia địa hạt của lão.”
Dù sao thì cả bốn Hobbit cũng ước sao lão cứ đi mãi cùng mình. Họ cảm thấy lão sẽ biết phải xử lý lũ Kỵ Sĩ Đen như thế nào, ấy là nếu trên đồi quả có ai đó biết chuyện ấy. Ngay giờ đây họ sắp đi vào vùng đất hoàn toàn xa lạ, ở ngoài mọi chuyện kể trừ những truyền thuyết xa xăm mơ hồ nhất của Quận, và trong chạng vạng họ mong mỏi được về nhà. Nỗi cô đơn sâu thẳm và cảm giác mất mát trùm lên họ. Họ đứng im lặng, ngần ngừ không muốn chia tay lần cuối, mãi mới dần dần nhận ra rằng lão Tom đang chào tiễn biệt, chúc họ vững tâm, phi suốt đến tối đừng nghỉ giữa chừng.
Tom sẽ cho các bạn lời khuyên hay, cho đến hết ngày hôm nay (sau đó sẽ phải trông chờ sự may mắn của bản thân chỉ đường cho các bạn): bốn dặm xuôi Đường Cái các bạn sẽ thấy một ngôi làng, làng Bree dưới đồi Bree, với những cánh cửa trông về hướng Tây. Trong làng có một quán trọ lâu đời gọi là quán Ngựa Lồng. Đại Mạch Bơ Gai là chủ quán, một người đáng quý. Các bạn có thể nghỉ đêm ở đó, rồi thì buổi sáng sẽ giúp các bạn lên đường. Hãy dũng cảm, nhưng thận trọng! Giữ trái tim hân hoan của các bạn luôn mạnh giỏi, và hãy phi nhanh đi gặp vận mệnh của mình!”
Họ van xin lão chí ít hãy đi đến tận quán trọ và uống với họ một lần nữa; song lão cười lớn và từ chối mà bảo:
Đến đây dừng địa hạt Tom: lão không vượt qua biên giới.
Tom còn nhà phải chăm nom, nàng Anh Đào Vàng đang đợi!
Nói đoạn lão quay lưng, tung mũ thật cao, nhảy lên lưng Bướu Ú, rồi phi lên đỉnh bờ hào và vừa hát vừa mất hút dần vào trong hoàng hôn.
Bốn Hobbit trèo lên dõi theo cho đến khi lão khuất khỏi tầm mắt.
“Thật đáng tiếc khi phải chia tay Chủ Nhân Bombadil,” Sam cảm thán. “Ông ấy thật là người cẩn trọng, chắc chắn rồi. Tôi đồ là chúng ta có thể sẽ đi xa khối nữa mà chẳng gặp được cái gì tốt đẹp hơn, hay lạ lùng hơn ông ấy. Nhưng tôi không chối là mình rất khoái được thấy quán Ngựa Lồng ông ấy nói đến kia. Hy vọng nó sẽ giống quán Rồng Xanh mãi tít quê nhà! Mà dân ở Bree ra cái giống gì nhỉ?”
“Có dân Hobbit ở Bree đấy,” Merry nói, “cả Người Cao Lớn nữa. Tôi dám nói sẽ giống quê nhà ta lắm cho mà xem. Ngựa Lồng là một quán được, xét theo mọi mặt. Người nhà tôi thỉnh thoảng vẫn đi ra đó.”
“Nó có thể là tất cả những gì ta dám ước ao,” Frodo nói; “nhưng dù sao vẫn cứ nằm ngoài Quận. Chớ buông thả cứ như đang ở nhà! Xin nhớ cho - tất cả mọi người - là KHÔNG ĐƯỢC nhắc đến cái tên Bao Gai. Tôi là ông Gầm Đồi đấy, giả sử cần phải cáo tên tiếc gì.”
Bấy giờ họ trèo lên ngựa lùn và lặng lẽ phi hút vào chiều tối. Bóng đêm ập xuống thật nhanh, trong lúc họ chậm chạp lê bước xuống đồi rồi lại lên đồi, cuối cùng nhìn thấy những ánh đèn nhấp nháy xa xa đằng trước.
Trước mặt họ lừng lững đồi Bree chắn lối, một khối đen sẫm chắn sao trời mờ sương; và bên dưới sườn Tây núp náu một ngôi làng lớn. Họ hối hả về phía ấy, chỉ mong sao trông thấy một cái lò sưởi, với một cánh cửa ngăn giữa họ và đêm tối.