← Quay lại trang sách

Quyển Hai Chương I RẤT NHIỀU CUỘC GẶP GỠ

Frodo tỉnh dậy thấy mình đang nằm trên giường. Thoạt tiên cậu ngỡ mình đã ngủ muộn, sau một cơn mơ dài chẳng mấy dễ chịu vẫn còn lởn vởn trong ký ức. Hoặc cũng có thể cậu vừa ốm dậy chăng? Thế nhưng trần nhà trông thật lạ; nó phẳng lì, lại có cả những thanh rầm sẫm màu được chạm khắc tinh xảo. Cậu nằm rốn thêm một lúc, ngắm nhìn những mảng nắng hắt trên tường, và lắng nghe tiếng của một thác nước.

“Tôi đang ở đâu, và mấy giờ rồi?” cậu nói to lên với trần nhà.

“Trong nhà của Elrond, và bây giờ là mười giờ sáng,” một giọng nói cất lên. “Hiện đang là buổi sáng ngày hai tư tháng Mười, nếu cháu muốn biết thêm.”

“Ông Gandalf!” Frodo ngồi bật dậy hét lên. Thầy phù thủy già đang ngồi đó, trên chiếc ghế bên cạnh ô cửa sổ mở rộng.

“Phải rồi,” lão nói, “ta đây. Và cháu thật may mắn mới được ở đây sau tất cả những việc ngớ ngẩn cháu đã làm từ khi cháu rời nhà.”

Frodo lại nằm xuống. Cậu cảm thấy quá thoải mái và yên bình chẳng muốn mở miệng tranh cãi nữa, mà cậu nghĩ đằng nào có tranh cãi cũng không lại được. Giờ thì cậu đã tỉnh hẳn, và ký ức về cuộc hành trình lại trở về với cậu: “lối tắt” tai vạ xuyên qua khu Rừng Già, “tai nạn” tại quán Ngựa Lồng, và cả cơn điên của cậu khi xỏ chiếc Nhẫn vào tay trong cái thung dưới chân Đỉnh Gió. Xung quanh chìm vào im lặng trong lúc cậu nhớ lại mọi điều vừa rồi và cố lục lại ký ức để biết làm thế nào cậu đến được Thung Đáy Khe song vô ích, chỉ có tiếng khe khẽ bập tẩu của Gandalf khi lão thổi những vòng khói trắng ra ngoài cửa sổ.

“Sam đâu rồi?” cuối cùng Frodo hỏi. “Và những người khác vẫn ổn cả chứ ạ?”

“Ổn, tất cả bọn họ đều an toàn và khỏe mạnh,” Gandalf trả lời. “Sam ngồi đây đến tận khi ta bắt nó đi nghỉ, khoảng nửa giờ trước.”

“Điều gì đã xảy ra tại Khúc Cạn thế?” Frodo hỏi. “Tất cả mọi chuyện không hiểu sao đều rất mơ hồ, đến giờ vẫn vậy.”

“Ờ, phải vậy chứ. Khi đó cháu đương bắt đầu lả đi,” Gandalf trả lời. “Rốt cục vết thương cũng bắt đầu đánh gục được cháu. Chỉ thêm vài giờ nữa là bọn ta không thể giúp được gì cho cháu nữa. Nhưng bên trong cháu tiềm ẩn sức mạnh nào đấy, chàng Hohbit của ta ạ! Cũng như cháu đã thể hiện trong Mộ Đá. Đúng là một thời khắc xém chết: có lo là giây phút nguy hiểm nhất. Ta ước gì cháu đã có thể trụ được ở Đỉnh Gió.”

“Hình như ông đã biết được nhiều điều rồi,” Frodo nói. “Cháu vẫn chưa kể với ai về Mộ Đá cả. Ban đầu chuyện quá khủng khiếp; còn sau đó thì có nhiều thứ khác phải bận tâm. Làm sao ông biết chuyện đó?”

“Cháu đã nói mơ rất nhiều, Frodo à,” Gandalf nhẹ nhàng nói, “nên cũng chẳng khó khăn gì nếu ta muốn đọc được tâm trí và ký ức của cháu. Đừng lo lắng! Tuy ta vừa nói ‘ngớ ngẩn’ nhưng ta không hề có ý đó đâu. Ta cho là cháu rất cừ, cả những người kia nữa. Trải qua ngần ấy nguy hiểm mà cháu vẫn giữ được chiếc Nhẫn, chiến công này không hề nhỏ.”

“Bọn cháu chắc chẳng thể vượt qua được nếu không có Sải Chân Dài,” Frodo nói. “Nhưng bọn cháu cần ông. Cháu không biết phải làm gì nếu không có ông.”

“Ta gặp chuyện phải trì hoãn,” Gandalf nói, “và điều này suýt nữa làm hỏng mọi chuyện. Nhưng ta cũng không chắc lắm: biết đâu như thế này có khi lại tốt hơn.”

“Cháu mong ông sẽ kể lại những gì đã xảy ra!”

“Mọi chuyện đâu rồi sẽ có đó! Cháu không được nói chuyện hay lo lắng bất cứ điều gì trong ngày hôm nay, mệnh lệnh của Elrond đấy.”

“Nhưng nói chuyện sẽ giúp cháu thôi nghĩ ngợi và thắc mắc; cứ vậy mãi thì cũng mệt mỏi lắm,” Frodo nói. “Giờ cháu đã hoàn toàn tỉnh táo, và cháu nhớ ra nhiều thứ cần phải giải thích. Cái gì giữ chân ông lại thế? Ít ra ông cũng phải kể cho cháu nghe chuyện đó chứ.”

“Cháu sẽ sớm được nghe tất cả những gì cháu muốn biết thôi,” Gandalf trả lời. “Chúng ta sắp tổ chức một cuộc họp Hội Đồng, ngay khi cháu đủ sức tham dự. Còn bây giờ ta chỉ có thể nói rằng ta đã bị bắt giữ.”

“Ông mà bị bắt ư?” Frodo hét lên.

“Đúng vậy, chính ta, Gandalf Áo Xám này đây,” thầy phù thủy nói bằng giọng nghiêm trọng. “Có rất nhiều thế lực trên thế giới này, cả thiện lẫn ác. Một vài kẻ mạnh hơn cả ta. Vài kẻ khác ta còn chưa có cơ hội tỉ thí. Nhưng thời của ta đang tới. Chúa Morgul và những Kỵ Sĩ Đen của hắn đang động binh. Chiến tranh đã gần kề!”

“Vậy ông biết về bọn Kỵ Sĩ này rồi, từ trước cả khi cháu gặp chúng?”

“Đúng, ta biết. Thật ra là ta đã nói về bọn chúng với cháu một lần rồi; vì lũ Kỵ Sĩ Đen này chính là những Ma Nhẫn, Chín Đầy Tớ của Chúa tể những chiếc Nhẫn. Nhưng ta không biết chúng đã hồi sinh, nếu không ta đã cùng bỏ chạy ngay với cháu. Ta nghe tin tức về bọn chúng mãi sau khi từ biệt cháu vào tháng Sáu; nhưng chuyện đó thì cứ đợi đã. Vì giờ đây chúng ta đã được giải nguy, nhờ có Aragorn.”

“Vâng,” Frodo nói, “chính Sải Chân Dài đã cứu bọn cháu. Ban đầu cháu rất sợ anh ấy. Theo cháu thấy, Sam chẳng mấy tin tưởng anh ấy, chẳng một tí nào cho đến tận lúc gặp Glorfindel.”

Gandalf cười. “Ta đã nghe tất cả mọi chuyện về Sam,” lão nói. “Giờ thì cậu ấy không còn mảy may nghi ngờ gì nữa rồi.”

“Cháu rất mừng,” Frodo nói. “Vì cháu đã đâm ra thích Sải Chân Dài rồi. Mà có lẽ thích không phải là từ chuẩn. Ý cháu là anh ấy trở nên thân thiết với cháu; mặc dù anh ấy kỳ lạ, nhiều khi còn khắc nghiệt nữa. Thực tế là anh ấy thường xuyên khiến cháu liên tưởng đến ông. Cháu chẳng hề biết lại có bất cứ một Người Cao Lớn nào như vậy hết. Cháu vẫn tưởng, chà, họ chỉ được cái to xác, và hẳn là ngốc: tốt bụng và ngốc như Bơ Gai; hoặc ngốc và độc ác như Bill Dương Xỉ. Nhưng ở Quận bọn cháu chẳng biết gì nhiều về Con Người, có lẽ chỉ trừ Người ở Đạo Bree.”

“Thậm chí cả về họ cháu cũng sẽ chẳng biết nhiều, nếu cháu cho rằng lão Đại Mạch ngốc,” Gandalf nói. “Lão ta có đủ trí khôn theo cách riêng của lão. Lão ta nghĩ ít hơn nói, và cũng chậm hơn; thế nhưng cứ từ từ lão ta sẽ nhìn xuyên qua được tường gạch (như người ta vẫn thường nói ở Bree đấy). Nhưng chẳng còn lại nhiều người như Aragorn con trai Arathorn ở Trung Địa này đâu. Dòng giống Các Vua ở bên kia Đại Dương đã gần đến hồi kết rồi. Có lẽ cuộc Nhẫn Chiến này sẽ là cuộc phiêu lưu cuối cùng của họ.”

“Có phải ý ông là Sải Chân Dài thuộc về dòng dõi những vị Vua xưa?” Frodo thắc mắc hỏi. “Cháu cứ tưởng tất cả bọn họ đều đã biến mất từ rất lâu rồi chứ. Cháu tưởng anh ấy chỉ là một dân Tuần Du.”

“Chỉ là một dân Tuần Du!” Gandalf thốt lớn. “Frodo thân mến của ta, dân Tuần Du chính là như vậy đấy: tàn dư miền Bắc của dòng dõi vĩ đại những Con Người từ phương Tây. Họ đã từng giúp đỡ ta lúc trước; và ta sẽ vẫn cần sự giúp đỡ của họ trong những ngày tới đây; bởi dù chúng ta đã đến được Thung Đáy Khe, thế nhưng chiếc Nhẫn vẫn chưa yên được.”

“Cháu cũng cho là chưa,” Frodo nói. “Nhưng đến tận bây giờ ý định duy nhất của cháu chỉ là đến được đây; và cháu mong sao không phải đi thêm đoạn đường nào nữa. Cứ nghỉ ngơi thôi thì thật dễ chịu. Cháu đã tha hương và phiêu lưu suốt cả tháng nay, cháu nghĩ như vậy là đủ lắm rồi.”

Cậu chìm vào im lặng và nhắm mắt. Một lát sau cậu mới lại lên tiếng. “Cháu đang thử tính lại,” cậu nói, “nhưng cháu không thể nhớ hết những gì đã xảy ra cho đến ngày hai tư tháng Mười. Hôm nay là ngày hai mốt mới phải chứ. Chắc hẳn bọn cháu đã đến Khúc Cạn vào ngày hai mươi.”

“Cháu đã nói và tính toán nhiều hơn sức khỏe cho phép đấy,” Gandalf nói. “Sườn và vai cháu thế nào rồi?”

“Cháu không biết nữa,” Prodo trả lời. “Cháu chẳng có cảm giác gì cả, như thế cũng tốt hơn là đau, nhưng...” - cậu cố cử động - “tay cháu cử động được một chút rồi. Phải, nó đang sống lại, không còn lạnh nữa,” cậu nói thêm, đưa tay phải sờ vào tay trái.

“Tốt!” Gandalf nói. “Hồi phục nhanh đấy. Cháu sẽ sớm khỏe lại thôi. Elrond đã chữa chạy cho cháu, ông ấy đã chăm sóc cháu suốt mấy ngày, kể từ lúc cháu được đưa vào đây.”

“Mấy ngày sao?” Frodo hỏi lại.

“Đúng vậy, chính xác là bốn đêm và ba ngày. Người Tiên đưa cháu về đây từ Khúc Cạn đêm ngày hai mươi, chính là lúc cháu bắt đầu mất dấu thời gian. Chúng ta vô cùng lo lắng, Sam gần như không rời cháu được nửa bước, cả ngày lẫn đêm, chỉ trừ những lúc phải chạy đi báo tin. Elrond là bậc thầy trị thương, thế nhưng vũ khí của Kẻ Thù chúng ta quá ác nghiệt. Nói thật với cháu, ta đã chẳng còn mấy hy vọng; vì ta nghĩ vẫn còn mảnh kiếm bên trong vết thương kín miệng. Mà đến tận đêm qua mới tìm ra được nó. Elrond đã lấy ra một mảnh. Nó lút vào thật sâu, và tác oai tác quái từ bên trong.”

Frodo rùng mình nhớ lại cảnh thanh kiếm mẻ lưỡi ác hại tan biến ngay trên tay Sải Chân Dài. “Đừng hoảng hốt!” Gandalf trấn an. “Xong cả rồi. Nó đã bị tan chảy. Và có vẻ như người Hobbit không dễ gì mà chịu tàn héo đi. Ta từng biết nhiều chiến binh Người Cao Lớn mạnh mẽ có thể bị mảnh kiếm đó quy phục nhanh chóng, thế mà cháu đã mang nó trong người suốt mười bảy ngày.”

“Chúng muốn làm gì cháu?” Frodo hỏi. “Lũ Kỵ Sĩ đó đang định làm gì vậy?”

“Chúng định đâm thủng trái tim cháu bằng lưỡi dao Morgul và để lại nó bên trong vết thương. Nếu chúng thành công, cháu sẽ trở nên giống như chúng, nhưng yếu hơn và phải chịu sự chỉ huy của chúng. Cháu sẽ biến thành một hồn ma dưới sự thống trị của Chúa Tể Hắc Ám; hắn sẽ giày vò cháu vì đã dám giữ chiếc Nhẫn của hắn, đó là nếu vẫn còn sự giày vò nào khủng khiếp hơn bị cướp mất chiếc Nhẫn và rồi thấy nó ở trên tay hắn.”

“Ơn trời là cháu đã không nhận ra mối nguy khủng khiếp đó!” Frodo yếu ớt nói. “Dĩ nhiên cháu đã sợ chết khiếp, nhưng nếu biết nhiều hơn, có lẽ cháu đã không cả dám cục cựa. Thật kỳ diệu là cháu đã thoát khỏi!”

“Đúng vậy, vận may hoặc cũng có thể số mệnh đã giúp cháu,” Gandalf nói, “đó là còn chưa kể đến lòng can đảm. Vì tim cháu vẫn chưa bị chạm tới, chỉ có vai bị đâm; và cháu đã kháng cự đến cùng. Nhưng vẫn phải nói đúng là thoát trong đường tơ kẽ tóc. Tính mạng cháu bị đe dọa cực kỳ nghiêm trọng khi đeo chiếc Nhẫn, bởi khi đó cháu đã bước một chân vào thế giới hồn ma, và chúng đã suýt bắt được cháu. Cháu thấy được chúng thì chúng cũng thấy được cháu.”

“Cháu biết,” Frodo nói. “Trông chúng thật gớm ghiếc! Nhưng tại sao tất cả chúng ta đều thấy ngựa chúng cưỡi?”

“Vì đó là ngựa thật; những chiếc áo choàng đen cũng là áo thật và chúng mặc để tạo hình hài cho sự hư vô của chúng mỗi khi chúng có việc với người sống.”

“Thế tại sao những con ngựa này lại có thể chịu đựng được loại kỵ sĩ như thế? Tất cả thú vật khác đều khiếp sợ khi chúng lại gần, kể cả con ngựa tiên của Glorfindel. Lũ chó thì tru tréo, còn bầy ngỗng thì kêu quàng quạc.”

“Bởi lũ ngựa này được sinh ra và nuôi lớn để phục vụ Chúa Tể Hắc Ám đất Mordor. Không phải nô lệ và động sản nào của hắn cũng là hồn ma! Còn có lũ quỷ Orc và quỷ khổng lồ, sói tinh và ma sói; và xưa cũng có mà nay cũng vẫn còn rất nhiều Con Người nữa, những chiến binh và vua chúa, vẫn sống bình thường dưới Mặt Trời nhưng lại chịu sự điều khiển của hắn. Cứ mỗi ngày qua đi bọn chúng lại đông thêm.”

“Thế còn Thung Đáy Khe và người Tiên thì sao? Thung Đáy Khe liệu có an toàn không?”

“Vẫn an toàn vào lúc này, trước khi tất cả mọi nơi khác thảy bị xâm chiếm. Người Tiên có thể sợ Chúa Tể Hắc Ám, ho có thể phải bỏ chạy khi hắn tới, thế nhưng họ sẽ không bao giờ nghe lời hắn hay phục dịch hắn nữa. Và ở đây, ngay tại Thung Đáy Khe này, vẫn còn nhiều đối thủ đáng gờm của hắn: những người Tiên Thông Thái, những chúa tộc Eldar đến từ bên kia những bờ đại dương xa nhất. Họ chẳng hề sợ lũ Ma Nhẫn, bởi những người từng ngụ tại Vương Quốc Hằng Phước sống cùng một lúc ở cả hai thế giới và họ có quyền năng lớn lao để đối phó với cả kẻ thù vô hình lẫn hữu hình.”

“Hình như cháu đã nhìn thấy một hình thù màu trắng và tỏa sáng chứ không mờ nhạt như những hình bóng khác. Liệu đó có phải Glorfindel không?”

“Phải rồi, cháu đã thấy trong một chốc hình hài của ngài trong thế giới kia: một người thuộc Lứa Đầu dũng mãnh, là một chúa Tiên thuộc hoàng gia. Ở Thung Đáy Khe thực tế là có một quyền năng đủ kháng cự với mãnh lực của Mordor trong một thời gian: và ở nơi khác cũng vẫn còn những quyền năng khác nữa. Ngay cả Quận cũng có quyền năng theo kiểu riêng của nó. Nhưng nếu mọi việc vẫn tiếp tục diễn biến như hiện nay, tất cả những nơi đó đều sẽ sớm bị cô lập giữa vòng vây hãm. Chúa Tể Hắc Ám đang phô trương toàn bộ sức mạnh của hắn.

“Nhưng,” lão chợt đứng dậy, hất cằm nói, chòm râu bỗng cứng và thẳng đanh như những sợi dây tua tủa, “chúng ta phải duy trì dũng khí. Nếu không phải nghe ta nói chuyện đến chết thì cháu sẽ sớm khỏe thôi. Cháu đang ở Thung Đáy Khe, nên cháu không cần phải lo lắng về bất cứ điều gì vào lúc này.”

“Cháu chẳng có chút dũng khí nào để mà duy trì,” Frodo nói, “nhưng hiện giờ cháu chẳng lo lắng điều gì cả. Chỉ cần ông cho cháu biết tin về các bạn cháu, và kể cho cháu nghe kết cuộc điều đã xảy ra ở Khúc Cạn, vì cháu vẫn cứ phải hỏi thôi, rồi cháu sẽ tạm hài lòng. Sau đó cháu nghĩ sẽ ngủ thêm một giấc nữa; nhưng cháu sẽ không nhắm nổi mắt nếu ông không kể nốt câu chuyện cho cháu.”

Gandalf dịch ghế đến bên giường và nhìn Frodo thật kỹ. Sắc hồng đã trở lại khuôn mặt cậu, đôi mắt cậu trong sáng, hoàn toàn tỉnh táo và tập trung. Cậu cười, và dường như chẳng có gì bất thường ở cậu. Thế nhưng, trong mắt thầy phù thủy, một sự thay đổi mờ nhạt đã xảy ra, chỉ một chút mơ hồ như thể trong suốt, khắp người cậu, đặc biệt là khắp cánh tay trái đang để lộ ra trên tấm ga giường.

“Chuyện đó thì phải như vậy mà,” Gandalf thầm nhủ. “Cậu bé vẫn chưa đi được nửa chặng đường, và cuối cùng; cậu ta sẽ đến được đâu thì ngay cả Elrond cũng chẳng thể nói trước được. Nhưng ta nghĩ hẳn chẳng phải đến chốn ta. Cậu ta có thể sẽ trở thành chiếc cốc đựng đầy ánh sáng trong mắt ai nhìn thấy.”

“Cháu trông thật tuyệt,” lão nói to. “Ta sẽ liều kể cho cháu một đoạn ngắn mà không hỏi ý kiến Elrond vậy. Nhưng khá ngắn đấy, ta nói trước, và rồi cháu sẽ phải ngủ tiếp. Với những gì ta nghe được thì câu chuyện xảy ra như sau: lũ Kỵ Sĩ đã bám theo ngay khi cháu vừa lên ngựa chạy. Chúng chẳng cần lũ ngựa dẫn đường nữa vì cháu đã hiện hữu đối với chúng rồi, đã đứng ngay ngưỡng cửa lối vào thế giới của bọn chúng. Và cả chiếc Nhẫn cũng thu hút bọn chúng. Bạn bè cháu kịp nhảy ngay sang bên đường, nếu không thì chắc đã bị ngựa xéo lên rồi. Ho biết nếu con bạch mã thất bại thì sẽ chẳng còn gì có thể cứu được cháu nữa. Bọn Kỵ Sĩ quá nhanh chẳng tài nào bắt kịp, và quá đông không thể chống lại. Ngay cả Glorfindel và Aragorn hợp sức, nếu không có ngựa, cũng không thể đương đầu với cả Bộ Chín cùng lúc.

“Khi lũ Ma Nhẫn tràn qua, ban bè cháu đã chạy theo đằng sau. Gần Khúc Cạn có một hốc nhỏ bên đường được ít cây quắt quẹo che phủ. Họ vào đó nhanh chóng đốt một đống lửa; vì Glorfindel biết sẽ có cơn lũ tràn xuống, nếu lũ Kỵ Sĩ cố vượt sông, và ngài sẽ phải chống trả tên nào còn ở lại bên phía này bờ sông. Ngay khi cơn lũ xuất hiện, ngài lao ra, theo sau là Aragorn và những Hobbit khác cầm những khúc củi cháy rực. Kẹt giữa lửa và nước, lại phải chứng kiến vị chúa Tiên đang bừng bừng thịnh nộ, chúng mất hết tinh thần, còn lũ ngựa thì sợ hãi đến phát điên. Ba tên đã bị đợt lũ đầu tiên cuốn trôi, những tên còn lại bị lũ ngựa hất xuống nước chìm nghỉm.”

“Như vậy là đã hết đời lũ Kỵ Sĩ Đen rồi sao?” Frodo hỏi.

“Không,” Gandalf trả lời. “Lũ ngựa của chúng có lẽ đã chết, và không còn lũ ngựa, chúng như què mất chân, Nhưng bản thân lũ Ma Nhẫn thì không dẽ bị tiêu diệt như vậy. Tuy nhiên hiện tại chẳng còn gì phải sợ chúng nữa. Các bạn cháu đã vượt sông sau khi cơn lũ tràn qua; và họ thấy cháu đang nằm úp mặt trên bờ cao, bên dưới là thanh gươm gãy. Con ngựa đứng canh bên cạnh cháu. Lúc đó cháu đã tái nhợt và lạnh ngắt, họ sợ cháu đã chết, hoặc thậm chí tệ hơn. Người của Elrond ra đón họ và chầm chậm đưa cháu về Thung Đáy Khe.”

“Ai gây ra cơn lũ vậy?” Frodo hỏi.

“Elrond đã điều khiển nó,” Gandalf trả lời. “Con sông qua thung lũng này ở dưới quyền ông ấy, nó sẽ dâng lên thịnh nộ nếu ông ấy cần chặn Khúc Cạn lại. Cơn lũ bùng ngay khi tên chỉ huy lũ Ma Nhẫn thúc ngựa xuống nước. Ta cũng đã nhúng tay tô điểm một chút, nếu cho phép khoe thêm: có thể cháu không chú ý nhưng một vài con sóng mang hình dáng ngựa trắng khổng lồ với những kỵ sĩ trắng tỏa sáng trên lưng; và còn cả một trận lũ đá tảng. Mãi một lúc ta cứ tưởng chúng ta đã bộc lộ cơn phẫn nộ thái quá, thành ra có thể cơn lũ đã vượt quá tầm kiểm soát mà cuốn trôi cả các cháu rồi chứ. Dòng nước chảy xuống từ đỉnh tuyết phủ của Dãy Núi Mù có sức mạnh vô cùng mãnh liệt.”

“Phải rồi, giờ thì cháu đã nhớ lại tất cả,” Frodo nói: “một tiếng gầm thật khủng khiếp. Cháu đã nghĩ mình đang chết chìm cùng cả bạn lẫn thù hay đại khái thế. Vậy mà giờ chúng cháu vẫn an toàn!”

Gandalf thoáng nhìn Frodo, nhưng cậu đã nhắm mắt. “Phải rồi, lúc này thì tất cả các cháu đều an toàn. Chỉ lát nữa thôi, người ta sẽ mở tiệc đình đám để mừng chiến thắng tại Khúc Cạn sông Bruinen, và tất cả các cháu sẽ được mời ngồi ở vị trí danh dự.”

“Tuyệt vời!” Frodo nói. “Thật kỳ diệu khi cả Elrond, Glorfindel lẫn những vị chúa hùng mạnh như vậy, là còn chưa kể đến Sải Chân Dài, lại phải lao tâm khổ tứ đến thế, và còn đối xử với cháu tử tế như vậy.”

“Có rất nhiều lý do để họ làm vậy,” Gandalf nói vừa, cười. “Ta là một lý do thuyết phục. Chiếc Nhẫn là một lý do nữa: cháu là Người Mang Nhẫn. Cháu cũng là người thừa kế của Bilbo, Người Được Nhẫn.”

“Bác Bilbo thân yêu!” Frodo nói giọng ngái ngủ. “Cháu tự hỏi hiện bác ấy ở nơi nào. Cháu ước gì bác ấy ở đây để có thể nghe kể tất cả những chuyện đó. Chắc sẽ khiến bác ấy phá lên cười. Con bò nhảy qua Mặt Trăng! Với cả gã quỷ hang tội nghiệp!” Nói đến đây, cậu chìm luôn vào giấc ngủ.

Giờ thì Frodo đã được an toàn tại Ngôi Nhà Ấm Cúng Cuối Cùng phía Đông Đại Dương. Đó chính là ngôi nhà mà cách đây khá lâu Bilbo từng miêu tả, “là một ngôi nhà thật hoàn hảo, dù là bạn thích ăn, hoặc ngủ, hoặc kể chuyện, hoặc hát hò, hoặc chỉ ngồi mà suy nghĩ, hay một hỗn hợp thú vị của tất cả những thứ đó”. Chỉ nội việc đến đó cũng đã là liều thuốc chữa cho mọi mệt mỏi, sợ hãi hay buồn phiền.

Khi màn đêm buông xuống, Frodo lại tỉnh dậy, và cậu cảm thấy cậu chẳng cần phải ngủ hay nghỉ ngơi gì nữa, tâm trí cậu giờ đây toàn là những đồ ăn thức uống, và có lẽ là cả hát hò hay kể chuyện sau khi ăn. Cậu ra khỏi giường và nhận thấy cánh tay mình đã gần trở lại hữu dụng như trước. Cậu thấy trên giường trải sẵn bộ quần áo màu xanh lá sạch sẽ vừa khít với cậu. Nhìn vào gương, cậu giật mình khi thấy hình ảnh phản chiêu bản thân gầy gò hơn rất nhiều so với cậu nhớ; hình thù đó trông hết sức giống đứa cháu trai trẻ tuổi của Bilbo, thường lang thang cùng bác mình khắp Quận, thế nhưng cặp mắt đang nhìn chằm chằm vào cậu lại đầy vẻ trầm tư.

“Phải rồi, mi đã chứng kiến được một vài điều kể từ lần soi gương gần đây nhất,” cậu nói với hình phản chiếu của chính mình. “Nhưng giờ thì gặp nhau vui vẻ cái đã!” Cậu duỗi cả hai tay và huýt một điệu sáo.

Ngay lúc đó, có tiếng gõ cửa vang lên và Sam bước vào. Chú chạy đến nắm lấy cánh tay trái của Frodo, lúng túng và ngượng nghịu. Chú nhẹ nhàng vuốt ve nó nhưng liền đỏ mặt và vội vã quay đi.

“Này Sam!” Frodo chào.

“Nó ấm rồi!” Sam nói. “Ý tôi là cánh tay của cậu, thưa cậu Frodo. Suốt mấy đêm dài qua, nó cứ lạnh ngắt. Nhưng mà ăn mừng thôi!” chú hét lên, rồi quay lại với cặp mắt rực sáng và nhảy một điệu trên sàn. “Thật vui khi lại được thấy cậu trở dậy và trở lại là chính mình, thưa cậu! Ông Gandalf bảo tôi lên xem cậu sẵn sàng xuống kia chưa nhưng tôi cứ tưởng ông ấy đùa.”

“Tôi sẵn sàng rồi,” Frodo nói. “Hãy đi gặp cả đám còn lại nào!”

“Để tôi đưa cậu đến chỗ họ, thưa cậu,” Sam yêu cầu. “Cái ngôi nhà này to lắm, và rất kỳ bí. Lúc nào cũng có điều gì đó cần phải khám phá, và không thể biết trước được mình sẽ thấy gì sau một lối rẽ. Cả người Tiên nữa, cậu ạ! Đâu đâu cũng là người Tiên! Nhiều người giống y như vua chúa, đáng sợ và lộng lẫy; nhiều người lại vui vẻ như trẻ con. Rồi còn cả âm nhạc và ca hát nữa - cũng chẳng phải tôi có nhiều thời gian và tâm trí để nghe từ khi chúng ta đến đây. Thế nhưng tôi cũng đã kịp thuộc một vài lối đi ở nơi này đấy.”

“Tôi biết cậu đã làm những gì rồi, Sam ạ!” Frodo vừa nói vừa nắm lấy tay chú. “Nhưng tối nay cậu sẽ phải thật vui vẻ, và hãy nghe cho đến đầy tai thì thôi. Đi thôi nào, hãy chỉ đường cho tôi!”

Sam dẫn cậu đi qua vài hành lang, xuống nhiều bậc thang tới một khu vườn cao ở trên bờ sông dốc đứng. Cậu nhìn thấy bạn bè mình đang ngồi dưới mái hiên ngôi nhà quay mặt về hướng Đông. Bóng tối đã buông xuống thung lũng bên dưới, thế nhưng vẫn còn ánh sáng trên các sườn núi ở xa phía trên. Bầu không khí thật ấm áp. Tiếng nước chảy và thác đổ ồn ĩ, buổi chiều tối đượm hương vị dịu nhẹ của cỏ cây hoa lá, cứ như thể mùa hè vẫn còn nán lại trên những khu vườn nhà Elrond.

“Hoan hô!” Pippin vừa nhảy cẫng vừa hét lên. “Người anh họ đáng kính của chúng ta đây rồi! Hãy tránh đường cho Frodo Chúa tể của chiếc Nhẫn!”

“Suỵt!” Gandalf lên tiếng từ trong bóng tối phía sau mái hiên. “Những thứ xấu xa không vào được thung lũng này; nhưng dù thế nào chúng ta cũng không nên gọi tên chúng. Chúa tể của chiếc Nhẫn không phải là Frodo mà là chủ nhân của tòa Tháp Tối ở Mordor, quyền lực hắn đang lại một lần nữa lan tràn khắp thế gian! Chúng ta đang ở bên trong một pháo đài, nhưng ngoài kia đang ngày một tối tăm.”

“Ông Gandalf luôn nói những điều vui vẻ như thế đấy,” Pippin nói. “Ông nghĩ em nên giữ trật tự. Thế nhưng không hiểu sao, thật không thể nào mà cảm thấy ảm đạm hay tuyệt vọng ở nơi đây. Em cứ chỉ chực hát to lên, nếu nhớ được đúng bài vào đúng hoàn cảnh.”

“Chính anh cũng thấy thích hát,” Frodo cười phá. “Mặc dù lúc này anh thích ăn uống hơn!”

“Chứng đó sẽ sớm được chữa thôi,” Pippin nói. “Anh vẫn thật là khôn quá mới tỉnh dậy ngay đúng giờ ăn.”

“Còn hơn cả một bữa ăn nữa! Đây là tiệc!” Merry nói. “Ngay khi ông Gandalf thông báo anh đã bình phục, công việc chuẩn bị đã được bắt đầu.” Anh chàng còn chưa dừng lời thì đã nghe âm thanh triệu tập đến sảnh đường vang lên từ rất nhiều quả chuông.

Sảnh đường nhà Elrond chật kín người: đa phần là người Tiên, mặc dù cũng có một số khách mời thuộc những chủng tộc khác. Theo thông lệ, Elrond ngồi trên chiếc ngai lớn ở một đầu cái bàn dài kê trên bục; ngay bên cạnh ông, ngồi ở một bên bàn là Glorfindel, còn Gandalf ngồi phía bên kia.

Frodo kinh ngạc nhìn họ, vì trước sau cậu chưa từng gặp Elrond, dù đã được nghe rất nhiều chuyện về ông; và khi ngồi ngay bên phải và bên trái ông, Glorfindel hay thậm chí người cậu nghĩ đã biết rất rõ là Gandalf, đều hiển lộ như là những lãnh chúa đường bệ và quyền uy.

Về vóc dáng, Gandalf thấp hơn hai người còn lại; thế nhưng mái tóc trắng dài, bộ râu chấm sàn bạc óng và sải vai rộng khiến lão trông như một đấng quân vương hiện mình trong những truyền thuyết cổ đại. Trên khuôn mặt hằn tuổi tác, bên dưới cặp lông mày rậm màu tuyết, cặp mắt đen nhánh của lão như hai cục than có thể bất ngờ bùng cháy vào bất cứ lúc nào.

Glorfindel cao lớn và thẳng người; mái tóc ông vàng chói chang, khuôn mặt ông đẹp đẽ, trẻ trung, không vấn vương chút sợ hãi và luôn rạng ngời tươi vui; đôi mắt ông sáng và sắc sảo, còn giọng ông lại đầy nhạc điệu; vầng trán ông cao vời thông thái, còn cánh tay lại căng tràn sức mạnh.

Khuôn mặt Elrond thì không có tuổi, không già cũng không trẻ, mặc dù in dấu trên đó ký ức của biết bao chuyện buồn vui. Mái tóc ông sẫm như bóng tối lúc chạng vạng, chụp bên trên là một vòng miện bạc; đôi mắt ông xám như buổi tối trong lành, bên trong hắt ra ánh sáng như ánh sáng nơi những vì sao. Ông đáng kính như một vị quân vương mà mái đầu đã trải bao mùa đông, nhưng lại tráng kiện như một chiến binh dạn dày trận mạc ở độ tuổi sung sức nhất. Ông là Lãnh Chúa oai hùng của Thung Đáy Khe, được cả người Tiên lẫn Con Người kính nể.

Ở giữa bàn tiệc, áp vào những tấm vải dệt treo tường, có một chiếc ghế được đặt dưới một lọng che, ngồi trên đó là một tiểu thư có vẻ đẹp khiến ai cũng phải ngước nhìn, là nữ song nàng có nhiều nét giống Elrond đến nỗi Frodo đoán nàng hẳn là một người họ hàng gần của ông. Nàng trẻ trung mà lại như không phải. Những bím tóc đen sẫm của nàng không vương chút sương giá; đôi tay trắng nõn và khuôn mặt sáng mịn màng không chút tì vết, đôi mắt nàng, xám như trời đêm không mây, lấp lánh ánh sáng của muôn vì sao; thế mà nàng trông đường bệ như một nữ hoàng, cái nhìn đầy trí tuệ và suy tư, như của người đã biết được tất cả những gì năm tháng mang đến. Đầu nàng đội, ngay trên trán, một vương miện bạc mảnh mai trắng lóa nạm những viên ngọc nhỏ; nhưng bộ y phục giản dị màu xám nhạt trên người nàng chẳng có gì tô điểm ngoài tấm đai ghép bởi những chiếc lá bằng bạc.

Vậy là Frodo đã chiêm ngưỡng người con gái chỉ rất ít người trần được ngắm nhìn: Arwen, con gái của Elrond, theo lời đồn đãi vẻ đẹp của nàng như thể Lúthien lại giáng trần; nàng còn được gọi bằng cái tên Undómiel, bởi nàng cũng chính là Ngôi Sao Đêm của dân tộc nàng. Bao nhiêu năm nàng sống cùng họ hàng ngoại ở Lórien, xa tít bên kia Dãy Núi, và chỉ mới gần đây nàng trở về Thung Đáy Khe sống cùng cha. Thế nhưng những người anh của nàng, Elladan và Elrohir, vẫn còn mải miết ở chốn giang hồ: họ thường phóng tới những nơi xa lắc cùng dân Tuần Du miền Bắc, vì chẳng bao giờ quên nỗi đau đớn mẹ họ từng phải chịu trong hang ổ lũ Orc.

Một vẻ đẹp yêu kiều sống động như vậy Frodo chưa từng nhìn thấy cũng chưa hề tưởng tượng ra trong tâm trí; và cậu vừa ngạc nhiên vừa bối rối khi nhận thấy mình được ngồi chung bàn với Elrond cùng biết bao nhân vật cao trọng và đẹp đẽ khác. Mặc dù được ngồi trên một chiếc ghế thửa riêng cho vừa và được đôn cao bởi khá nhiều lớp đệm, cậu vẫn thấy mình thật nhỏ bé và khá lạc loài ở nơi này; nhưng rồi cảm giác đó cũng qua nhanh. Bữa tiệc quá vui, còn thức ăn thì thỏa mãn tất cả những gì cơn đói của cậu đòi hỏi. Phải mất hồi lâu cậu mới lại nhìn xung quanh hay thậm chí quay sang những người ngồi cạnh

Cậu dõi mắt tìm bạn bè mình trước tiên. Sam đã cầu xin được phép hầu hạ cậu chủ, thế nhưng được trả lời rằng lần này chú là khách mời danh dự. Giờ thì Frodo đã nhìn thấy chú, đang ngồi cùng Pippin và Merry tại đầu trên một trong số những bàn gần bục cao. Thế nhưng cậu không thấy bóng dáng Sải Chân Dài đâu cả.

Ngồi ngay cạnh Frodo, phía bên phải, là một Người Lùn có vẻ ngoài quan trọng, ăn mặc rất phong lưu. Bộ râu của ông rất dài và vểnh ra hai bên, màu trắng toát, trắng gần như áo quần màu tuyết trên người. Ông đeo chiếc thắt lưng bạc, với vòng xích bạc đính kim cương quanh cổ. Frodo ngừng ăn nhìn lên ông.

“Chào mừng và rất mừng được gặp mặt!” Người Lùn nói, quay người hướng về phía cậu. Rồi thực tình là ông nhổm hẳn người lên khỏi ghế để cúi chào. “Glóin sẵn sàng phục vụ,” ông nói, rồi cúi người xuống thấp hơn nữa.

“Frodo Bao Gai xin phục vụ ông cùng gia quyến,” Frodo đáp lại theo đúng lễ nghi, bối rối đứng dậy đến nỗi làm rơi cả những tấm đệm. “Liệu cháu có đúng khi đoán ông chính là Glóin, một trong mười hai người bạn đồng hành của Thorin Khiên Gỗ Sồi vĩ đại?”

“Khá đúng,” Người Lùn trả lời, xếp lại những tấm đệm và nhã nhặn đỡ Frodo trở lại chỗ ngồi. “Ta thì không cần phải hỏi vì ta đã được nghe kể cháu là người bà con, và là người thừa kế của bạn chúng ta, Bilbo lừng danh. Cho phép ta được chúc mừng cháu đã bình phục.”

“Cảm ơn ông rất nhiều,” Frodo nói.

“Ta nghe nói cháu đã tham gia một vài chuyến phiêu lưu kỳ lạ,” Glóin nói. “Ta cứ thắc mắc mãi điều gì đã khiến tới bốn người Hobbit thực hiện cuộc hành trình dài đến vậy. Những điều như thế đã không xảy ra từ hồi Bilbo tham gia cùng chúng ta. Nhưng có lẽ ta không nên hỏi han chuyện này tường tận quá, bởi cả Elrond lẫn Gandalf đều có vẻ không muốn tiết lộ điều gì thì phải?”

“Cháu nghĩ chúng ta không nên nói chuyện đó, hoặc ít nhất là chưa,” Frodo lịch sử trả lời. Cậu đoán rằng, ngay cả trong ngôi nhà của Elrond, những vấn đề liên quan đến chiếc Nhẫn cũng không phải là đề tài nói chuyện phiếm; và dù sao thì cậu cũng mong quên đi rắc rối đó một lúc. “Nhưng cháu cũng cảm thấy tò mò không kém,” cậu nói thêm, “muốn biết điều gì đã đưa một Người Lùn giữ trọng trách rời xa Ngọn Cô Độc đến vậy.”

Glóin nhìn cậu. “Nếu cháu vẫn chưa nghe nói gì, thì ta nghĩ chúng ta cũng chưa nên nói đến chuyện này vội. Ta tin Chủ Nhân Elrond sẽ cho mời chúng ta sớm thôi, lúc đó thì chúng ta tha hồ nghe. Nhưng có thể sẽ còn rất nhiều chuyện khác nữa.”

Hai người nói chuyện với nhau trong suốt bữa ăn, nhưng Frodo nghe nhiều hơn nói, bởi tin tức về Quận, ngoài chuyện về chiếc Nhẫn ra, thảy có vẻ nhỏ nhặt, xa xôi và chẳng quan trọng, trong khi Glóin lại có rất nhiều điều để kể về những sự kiện xảy ra phía Bắc Vùng Đất Hoang. Frodo còn được biết thêm về Grimbeorn Già, con trai của Beorn, giờ đã là thủ lĩnh rất nhiều con người mạnh mẽ, và vùng đất của họ giữa Dãy Núi Mù và rừng Âm U thì cả Orc lẫn chó sói đều không dám bén mảng tới.

“Rõ ràng,” Glóin nói, “nếu không có con cháu Beorn, con đường nối thành bang Thung Lũng với Thung Đáy Khe đã bị bít từ lâu lắm rồi. Họ là những vị anh hùng, và cho đến nay vẫn giữ thông Đèo Thượng cùng Khúc Cạn hòn Carrock. Thế nhưng phí cầu đường của họ cao quá,” ông vừa nói vừa lắc đầu; “và cũng giống như Beorn thời xa xưa, họ vẫn chẳng ưa gì Người Lùn. Dù sao thì họ vẫn cứ đáng tin cậy, và điều đó rất đáng quý vào thời nay. Không ở đâu con người thân thiện với Người Lùn bọn ta như Con Người ở Thung Lũng. Hậu duệ nhà Bard đều là người tốt. Cháu trai của cung thủ Bard, Brand con trai Bain con trai Bard hiện đang trị vì bọn họ. Cậu ta là một vị vua mạnh mẽ, và lãnh địa cậu ta đã mở rộng về phía Nam và phía Đông Esgaroth.”

“Thế còn về người của ông thì sao?” Frodo hỏi.

“Có rất nhiều chuyện để kể, tốt có, xấu có,” Glóin trả lời; “nhưng chủ yếu vẫn là tốt: chúng ta gặp vận may cho đến tận giờ, mặc dù không thoát được ra khỏi bóng tối những ngày này. Nếu cháu thực sự muốn nghe chuyện, ta sẽ rất vui lòng kể cho cháu nghe vài phần. Nhưng hãy nhớ dừng ta lại nếu cháu thấy mệt! Người Lùn vẫn thường để lưỡi nhảy múa mỗi khi kể về những chế tác thủ công của họ, người ta nói vậy.”

Và thế là Glóin đắm mình vào công cuộc phát triển của vương quốc Người Lùn. Ông tỏ ra thực sự vui thích khi có được một thính giả lịch sự đến vậy; bởi Frodo chẳng tỏ ra bất cứ một dấu hiệu mệt mỏi nào, cũng không hề có ý định chuyển đề tài, mặc dù thật ra cậu đã sớm bị lạc lối giữa một rừng tên tuổi, địa danh lạ lẫm mà cậu chưa từng được nghe trước đó. Tuy nhiên cậu vẫn khá hứng thú khi được biết Dáin vẫn còn làm Vua dưới Gầm Núi, mặc dù đã rất già (ông vừa sống qua tuổi thứ hai trăm năm mươi), được tôn sùng, và giàu có đến mức khó tưởng tượng nổi. Bảy trong số mười người bạn đồng hành, những người đã sống sót qua Trận Chiến Năm Đạo Quân, vẫn đang sát cánh bên ông: Dwalin, Glóin, Dori, Nori, Bifur, Bofur, Bombur. Bombur giờ béo đến nỗi không thể tự di chuyển khỏi xô pha ra chiếc ghế cạnh bàn ăn, mà phải nhờ đến sáu Người Lùn trẻ mới nâng được lên.

“Và điều gì đã xảy ra với Balin, Ori và Óin vậy?” Frodo hỏi.

Khuôn mặt Glóin bỗng tối sầm xuống. “Chúng ta không biết,” ông trả lời. “Chính là vì chuyện của Balin ta mới tới đây hỏi xin lời khuyên những người đang sinh sống tại Thung Đáy Khe. Nhưng tối nay chúng ta hãy chỉ nói về những chuyện vui vẻ hơn thôi!”

Rồi Glóin bắt đầu kể về công việc của người dân xứ ông, kể cho Frodo nghe về những công trình kỳ vĩ trong Thung Lũng và trong lòng Ngọn Cô Độc. “Chúng ta đã làm được rất cừ,” ông nói. “Nhưng trong việc chế tác kim loại thì chúng ta không thể bì kịp các bậc cha ông, rất nhiều bí quyết đã bị thất truyền. Bọn ta có thể làm ra những áo giáp tuyệt vời, những thanh kiếm sắc bén, thế nhưng vẫn không phải là giáp trụ, gươm đao giống như thời trước khi lũ rồng xâm chiếm. Chỉ việc khai khoáng và xây dựng là chúng ta phát triển hơn xưa. Cháu cần phải đến xem những công trình thủy lợi ở Thung Lũng, Frodo à, cả những đài phun nước, bể bơi nữa! Cháu nên đến xem những con đường lát đá nhiều màu! Và những đại sảnh cùng hệ thống đường đi ngầm dưới lòng đất với khung vòm chạm trổ như cây lá. Còn có cả những sân đài và ngọn tháp trên sườn núi! Cháu nên đến xem để thấy chúng ta không hè nhàn tản.”

“Cháu sẽ đến xem tất cả, nếu cháu có thể,” Frodo nói. “Hẳn là bác Bilbo sẽ rất bất ngờ khi được thấy những đổi thay tại Xứ Hoang Tàn của Smaug!”

Glóin nhìn Frodo mỉm cười. “Cháu rất yêu quý Bilbo phải không nào?” ông hỏi.

“Vâng,” Frodo trả lời. “Cháu muốn thấy bác ấy hơn mọi tòa tháp cùng cung điện trên thế gian này.”

Bữa tiệc rồi cũng đến hồi kết thúc. Elrond và Arwen đứng dậy đi xuống đại sảnh, mọi người dự tiệc cũng lần lượt đi theo. Những cánh cửa đều mở tung, họ tiến vào một lối đi rộng và lại đi qua những cánh cửa khác, rồi đến một đại sảnh tiếp theo. Bên trong sảnh đó không hề được kê bàn, nhưng ở chính giữa những cột đá chạm trổ, một ngọn lửa trong lò sưởi lớn đang cháy rực.

Frodo nhận thấy mình đang sánh bước cùng Gandalf. “Đây là Sảnh Lửa,” thầy phù thủy giới thiệu. “Ở đây cháu sẽ được nghe rất nhiều bài hát cũng như câu chuyện - tất nhiên là nếu cháu có thể thức được. Thế nhưng ngoài những ngày bận rộn, nơi đây lại thường vắng vẻ yên tĩnh, những người đến đây thường chỉ để tĩnh tâm suy nghĩ. Suốt quanh năm lúc nào cũng có một đống lửa ở đây, mà cũng hầu như không có ánh sáng nào khác.”

Elrond vừa bước vào bên trong và tiến tới ngai được dành sẵn cho ông, những nhạc công Tiên liền lập tức tấu lên những điệu nhạc ngọt ngào. Sảnh đường đông dần, và Frodo thực sự thích thú được nhìn ngắm biết bao khuôn mặt đẹp đẽ tụ hội cùng nhau; ánh lửa vàng ruộm nhảy múa trên khuôn mặt họ, tỏa ánh sáng lung linh trên tóc họ. Đột nhiên cậu chú ý thấy một bóng người nhỏ nhắn vận đồ đen ngồi trên ghế đẩu cách không xa phía bên kia đống lửa, lưng dựa lên một cột trụ. Ở bên cạnh ông, trên nền nhà, có một cốc nước và ít mẩu bánh mì. Frodo tự hỏi liệu ông ta có bị ốm không (giả sử người ta có thể ốm được ở Thung Đáy Khe) vì không thấy tham gia bữa tiệc. Đầu ông ta gục sâu xuống ngực trong giấc ngủ, nếp áo choàng đen kéo che kín mặt.

Elrond tiến tới đứng bên cạnh bóng hình lặng lẽ ấy. “Dậy thôi, ông chủ nhỏ!” ông vừa nói vừa cuời. Rồi quay về phía Frodo, ông gật đầu ra hiệu. “Frodo, cuối cùng thì khoảnh khắc cháu mong đợi đã đến,” ông nói. “Đây là người bạn mà lâu nay cháu vẫn hằng mong nhớ.”

Bóng áo đen ngước đầu, vén nếp áo trùm che mặt.

“Bác Bilbo!” Frodo bất chợt nhận ra và hét lên, rồi cậu nhào tới.

“Xin chào, Frodo cháu yêu!” Bilbo cất lời. “Cuối cùng thì cháu cũng đến được đây. Ta đã hy vọng cháu tới được. Chà, chà! Ta nghe nói bữa tiệc này vậy là được tổ chức để chào mừng cháu đấy. Cháu thích chứ?”

“Sao bác không ở đó?” Frodo hét lên. “Và tại sao cháu không được gặp bác sớm hơn?”

“Bởi vì cháu ngủ suốt. Chứ ta thì đã đến gặp cháu vô khối lần. Ngày nào ta cũng cùng Sam ngồi bên cháu. Con về bữa tiệc, dạo này ta không ham thích những chuyện ấy lắm. Vì ta còn có nhiều việc khác phải làm.”

“Bác phải làm gì vậy?”

“Thì ngồi suy ngẫm. Dạo đây ta vẫn thường làm việc ấy rất nhiều, và đây chính là nơi tốt nhất để làm, tất nhiên. Dậy thôi ấy à!” ông nói, nhướn một mắt lên nhìn Elrond. Có ánh sáng lấp lánh trong mắt ông và Frodo không hề thấy dấu vết nào của cơn buồn ngủ. “ông bảo dậy thôi nhưng tôi có ngủ đâu, thưa Chủ Nhân Elrond. Nếu muốn biết thì các vị đã rời bữa tiệc quá sớm và làm phiền tôi trong lúc đang sáng tác một ca khúc đấy. Tôi đang bí ở một vài câu, và đang suy ngẫm; nhưng giờ đây tôi không dám chắc mình có thể ra được đáp án nữa. Sắp sửa lại hát hò ầm ĩ đến nỗi đuổi sạch ý tưởng trong đầu tôi mất thôi. Tôi cần phải nhờ anh bạn Dúnadan giúp một tay mới được. Anh ấy đâu rồi nhỉ?”

Elrond cười phá lên. “Anh ấy sẽ được tìm thấy,” ông nói. “Rồi hai vị sẽ vào một góc mà hoàn thành tác phẩm, và chúng tôi sẽ nghe mà đánh giá trước khi kết thúc cuộc vui này.” Mấy người đưa tin được cử đi tìm bạn của Bilbo, mặc dù chẳng ai biết anh ta hiện đang ở đâu, hay tại sao anh ta lại không có mặt tại bữa tiệc.

Trong khi đó Frodo và Bilbo ngồi sát bên nhau, Sam cũng nhanh chóng tìm một chỗ ngay gần đó. Họ thì thầm nói chuyện, chẳng hề nhận ra người ta đang vui đùa ca hát khắp trong sảnh quanh họ. Bilbo chẳng có nhiều chuyện để kể về bản thân sau khi rời Hobbit Thôn, ông đã lang thang vô định, đi dọc theo Đường Cái hay trong miền đồng quê hai bên đường, thế nhưng không hiểu sao ông lại chỉ hướng đến Thung Đáy Khe.

“Ta đến đây mà chẳng phiêu lưu gì mấy,” ông nói, “sau khi nghỉ ngơi lấy sức, ta lại cùng Người Lùn tới thăm thành bang Thung Lũng: hành trình cuối cùng đấy. Ta sẽ không phiêu lưu nữa. Ông bạn già Balin đã ra đi. Rồi ta quay lại đây, và ở lại cho đến nay. Ta đã làm việc này việc kia. Ta đã viết thêm ít chương sách, và dĩ nhiên là sáng tác vài bài hát. Đôi khi họ vẫn hát đấy, nhưng chắc chỉ để làm vui lòng ta thôi, ta nghĩ vì dù sao chúng cũng chưa thực sự đủ hay so với Thung Đáy Khe. Thế rồi ta nghe và ta nghĩ. Thời gian có vẻ như chẳng trôi đi ở nơi này: nó ở lại. Quả là một nơi tuyệt vời.

“Ta đã được nghe đủ loại tin tức, tin từ phía bên kia Dãy Núi, cả từ phía Nam lên, nhưng gần như chẳng có tin nào từ Quận. Ta có nghe chuyện chiếc Nhẫn, dĩ nhiên rồi. Gandalf vẫn lui tới đây luôn. Nhưng không phải ông ấy kể ta nghe tất cả, vài năm gần đây ông ấy trở nên kín miệng hơn bao giờ hết. Anh chàng Dúnadan kể còn nhiều hơn. Thật lạ là chiếc nhẫn của ta lại gây ra nhiều phiền toái đến vậy! Tiếc là Gandalf không thể nhận ra sớm hơn. Lẽ ra ta đã có thể tự mình mang thứ đó đến đây từ lâu rồi mà không gặp phải rắc rối nào. Có lúc ta đã tính quay về Hobbit Thôn để làm điều đó; nhưng ta bắt đầu già rồi, còn bọn họ ý ta là Gandalf và Elrond, thì lại không cho phép. Có vẻ như họ sợ Kẻ Thù đang truy lùng ta ráo riết, và sẽ băm vằm ta ra nếu hắn bắt được ta đi tung tẩy trong Miền Hoang Vu.

“Rồi Gandalf còn nói: ‘Chiếc Nhẫn đã được trao rồi, Bilbo. Sẽ chẳng tốt cho ông hay cho bất cứ ai, nếu ông cứ cố can dự với nó lần nữa.’ Một kiểu dặn dò thật kỳ lạ, đúng kiểu Gandalf. Song ông ấy nói sẽ chú ý chăm sóc cháu nên ta đành phó mặc thôi. Ta mừng phát khiếp khi thấy cháu vẫn bình an vô sự.” Ông ngập ngừng, đoạn nhìn Frodo vẻ nghi ngại.

“Cháu có nó đây không?” ông thì thầm hỏi. “Ta không thể ngăn được tò mò, cháu biết đấy, sau tất cả những gì ta đã được nghe. Ta sẽ rất vui nếu được ngó qua dù chỉ một chút.”

“Cháu có,” Frodo miễn cưỡng đến kỳ lạ trả lời. “Trước đây nó thế nào thì đến giờ vẫn vậy.”

“Ta muốn nhìn nó chỉ một lát,” Bilbo nói.

Lúc thay quần áo, Frodo đã nhận ra rằng trong khi cậu ngủ chiếc Nhẫn đã được ai đó lồng vào một sợi xích đeo cổ mới, nhẹ nhưng chắc. Cậu từ từ lôi dây ra. Bilbo vội chìa tay. Nhưng Frodo nhanh chóng thu lại chiếc Nhẫn. Cậu ngạc nhiên và khổ sở nhận ra trước mắt hình như không phải Bilbo nữa; một bóng đen như phủ xuống giữa họ, và qua bóng tối ấy cậu thấy mình đang nhìn trừng trừng vào một sinh vật nhỏ thó nhăn nheo có khuôn mặt đói khát và đôi tay xương xẩu sờ soạng. Cậu bỗng muốn giáng cho sinh vật đó một cú.

Tiếng nhạc, tiếng hát quanh họ bắt đầu lắng dần, rồi bầu tĩnh lặng trùm xuống. Bilbo liếc vội khuôn mặt Frodo và lấy tay che ngang mắt mình. “Giờ thì ta hiểu rồi,” ông nói. “Cất nó đi! Ta xin lỗi: xin lỗi vì cháu đã phải hứng lấy gánh nặng này: xin lỗi vì mọi chuyện. Không lẽ các cuộc phiêu lưu lại không thể đến hồi kết? Ta chắc là không. Lúc nào cũng phải có kẻ khác nối tiếp câu chuyện. Chà, làm sao khác được. Ta không biết hoàn thành cuốn sách này liệu có ích lợi gì không? Nhưng giờ thì chúng ta khỏi bận tâm về nó - nghe những Tin Tức nóng hổi nào! Hãy kể cho ta mọi điều về Quận!”

Frodo bèn giấu chiếc Nhẫn, và bóng tối tan đi mà chẳng hề để vương lại một mảnh ký ức. Ánh sáng và âm nhạc Thung Đáy Khe lại tấu lên xung quanh cậu. Bilbo lại cười đùa thật hạnh phúc. Tất cả những tin tức ở Quận mà Frodo có thể kể - thỉnh thoảng lại được Sam bổ sung và chỉnh lý - đều khiến ông vô cùng hứng thú, từ vụ đốn cái cây bé tẹo đến trò tinh nghịch của đứa trẻ nhỏ nhất Hobbit Thôn. Họ say sưa kể về những việc xảy ra ở Tứ Tổng đến nỗi không để ý thấy một người đàn ông vận quần áo màu lục sẫm đang đi tới. Anh ta đứng đó một lúc lâu nhìn xuống họ với nụ cười trên môi.

Đột nhiên Bilbo ngước mắt lên nhìn. “A, cuối cùng thì anh cũng đã ở đây rồi, Dúnadan!” ông hét lên.

“Sải Chân Dài!” Frodo nói. “Anh có nhiều tên quá nhỉ.”

“Ồ, Sải Chân Dài là cái tên ta chưa từng được nghe trước đây,” Bilbo nói. “Tại sao cháu lại gọi anh ta như vậy?”

“Ở Bree người ta gọi tôi vậy,” Sải Chân Dài vừa nói vừa phá lên cười, “và đó cũng là cái tên người ta giới thiệu tôi với cậu ấy.”

“Vậy sao bác gọi anh ấy là Dúnadan?” Frodo hỏi.

“Chính xác là anh bạn Dúnadan,” Bilbo trả lời. “Ở đây anh ta thường được gọi như vậy. Nhưng ta cứ tưởng cháu hiểu tiếng Tiên ít nhất cũng đủ biết dún-adan chứ; nghĩa là Con Người phương Tây, người Númenor. Nhưng đây không phải là lúc để lên lớp!” Ông quay về phía Sải Chân Dài. “Anh đã ở đâu vậy, hả anh bạn của tôi? Sao anh không dự bữa tiệc? Tiểu thư Arwen cũng có ở đó đấy.”

Sải Chân Dài nhìn xuống Bilbo một cách nghiêm trang. “Tôi biết,” anh nói. “Nhưng tôi cũng thường xuyên phải bỏ những trò vui sang một bên. Elladan và Elrohir không gọi mà trở về từ Miền Hoang Vu, và họ mang những tin tức mà tôi buộc phải nghe ngay lập tức.”

“Ôi, anh bạn thân mến,” Bilbo nói, “giờ thì anh đã được nghe tin rồi, chẳng lẽ không thể dành cho tôi một lát sao? Tôi muốn nhờ anh giúp một chuyện cần kíp. Elrond nói bài hát này cần phải được hoàn thành trước khi buổi tối nay kết thúc, mà tôi lại bí quá. Hãy vào một góc rồi cùng trau chuốt nó nào!”

Sải Chân Dài mỉm cười. “Được thôi!” anh nói. “Cho tôi nghe đi!”

Frodo bị bỏ lại một mình một lúc lâu, bởi Sam đã ngủ thiếp đi rồi. Cậu cảm thấy đơn độc và có phần buồn bã, cho dù cư dân Thung Đáy Khe đang tụ hội khắp xung quanh. Nhưng những người gần cậu đều chẳng nói năng gì, chỉ chú ý lắng nghe những điệu nhạc lời ca mà chẳng hề để tâm đến điều gì nữa. Frodo cũng bắt đầu lắng nghe.

Thoạt tiên, vẻ đẹp của giai điệu và sự hòa trộn của ca từ ngôn ngữ Tiên khiến Frodo mê mẩn ngay khi cậu bắt đầu lắng tai nghe, cho dù cậu không hiểu được nhiều. Lời ca như thể có hình thù, và ảo ảnh về những miền đất xa xôi, những tạo vật chói sáng mà cậu chưa từng hình dung hiển hiện ra trước mắt cậu; đại sảnh rực ánh lửa như biến thành màn sương vàng trên mặt biển sôi trào thở than bên những ranh giới của thế gian. Rồi không khí mầu nhiệm dần trở nên huyền ảo, cho đến khi cậu cảm thấy một con sông vàng bạc dài vô tận cuốn cậu đi, vô số kể những hình thù của nó vượt quá khả năng lĩnh hội của cậu; nó hòa vào bầu không khí rộn ràng chúng quanh cậu, rồi nó dội vào cậu và dìm cậu xuống. Cậu nhanh chóng chìm duới sức nặng sáng ngời của nó vào vương quốc sâu thẳm của giấc ngủ.

Ở đó cậu lang thang trong một giấc mơ bằng âm nhạc đã hóa thành dòng nước chảy, và rồi đột ngột, chuyển thành một giọng hát. Dường như đó chính là giọng Bilbo đang ngâm nga những thi khúc. Lúc đầu lời ca còn yếu ớt nhưng càng lúc càng rõ ràng.

Eärendil là nhà hàng hải,

Arvenien trú lại đã lâu;

vào rừng quý Nimbrethil chàng đốn

gỗ bạch dương về đóng con tàu;

bạc trắng mịn dệt buồm đón gió

đèn lồng treo sáng lóa bạc gò,

mũi tạc dáng thiên nga cong vút,

rạng rỡ soi đèn đuốc hiệu cờ.

Chàng nai nịt lối quân vương cổ,

bạc kết vòng giáp bó quanh mình;

mặt khiên sáng chữ rune chạm trổ

đánh lạc đường họa ách đao binh;

cánh cung vốn sừng rồng nên gọt,

mun rừng sâu đem vót thành tên,

yểm tâm giáp thiết đan vòng bạc,

ngọc tủy làm bao kiếm danh truyền;

thanh kiếm thép chói ngời quả cảm,

sắt kim cang đúc mũ trụ cao,

lông đại bàng chóp cùng ngất ngưởng,

đính ngực chàng viên lục bảo châu.

Dưới trăng sáng sao xa rẽ nước

ngày mỗi xa bờ Bắc dông dài,

luồng nước phép đưa sai đẩy lạc

chốc đã ngoài hải vực trần ai.

Né Dải Băng Hẹp hàm nghiến siết

những đồi băng lẩn quất bóng đen,

né hoang địa bỏng ran diêm ngục,

chàng bẻ tàu chưa thoát lênh đênh

càng thêm lạc giữa miền sao tắt,

Đêm Hư Vô chàng gặp sau cùng,

vượt qua đêm, nhưng sao trước mắt

chẳng thấy bờ ánh sáng hằng mong.

Gió thịnh nộ xô tàu vùn vụt,

lòng rối bời rẽ bọt chạy cuồng

Tây sang Đông mông lung vô đích

chẳng ngờ đang nhắm mạch quê hương.

Kìa vỗ cánh Elwing tìm đến,

màu lửa bừng thắp sáng đêm đen;

kim cương quý cũng tài nào sánh

đốm lửa trong ngọc bạch cổ chim.

Viên Silmaril thắt vầng trán rộng,

nàng trao chàng lửa sống không tàn,

mày cháy rực cho tim dũng cảm,

chàng bẻ tàu nhằm thẳng vào đêm;

Thế Giới Ngoài vẫy vùng bão nổi

vượt Đại Dương thốc tới bên buồm,

Tarmenel gửi cơn gió dội

cuốn tàu theo hơi thổi căm căm,

bốc qua nẻo vắng chân phàm tục

như nương oai thần chết nhanh bay

qua bể xám hoang vu sầu muộn

thoắt từ Đông đã vượt sang Tây.

Xuyên Đêm Trường Cửu chàng trở lại

trên ngọn đen đỉnh sóng rú gào

qua hải lý tối bờ bến đắm

thuở Thời Gian còn chửa bắt đầu,

đến bãi ngọc trai reo tiếng nhạc

ngân nga nơi thế giới tận cùng,

nơi sóng cả bạc đầu dồn dập

khua vàng tươi ngọc lợt chen lăn.

Chàng thấy Núi Thiêng lừng lững mọc

giữa ánh tà chạm gót Valinor,

và mảnh đất Eldamar thấp thoáng

cuối biển khơi bao dặm xa mờ.

Chân lưu lạc mừng đêm đã thoát

cảng trắng nay đã cập bồi hồi,

chàng ngắm Quê Tiên xanh bát ngát,

gió cũng thơm, mà náu dưới Đồi

Ilmarin, trắng như sắc kính

nhấp nhánh trong thung lũng vách thành,

bao ngọn tháp Tirion đuốc sáng

soi mình trong Hồ Bóng long lanh.

Chàng nghỉ lại tạm quên phiêu bạt,

các tiên đem điệu khúc dạy thuần,

bô lão kể chuyện xưa kỳ tích,

hạc vàng đưa chỉ cách chơi nhuần.

Tiên phục trắng họ trao chàng mặc,

bảy ngọn đèn phái trước dẫn đường,

quá Calacirian quạnh vắng

tiến vào miền núp bóng hoang lương.

Chàng tới sảnh vĩnh hằng bất tận

năm lại năm xán lạn theo nhau,

Ilmarin trên Núi Thiêng vách dựng

trị vì Vua Cả đến muôn sau;

lần đầu sảnh nghe vang tiếng kể

chuyện giống Người cho chí nòi Tiên,

tai nghe chuyện như nhìn tranh vẽ

xứ bên kia đất cấm lệnh truyền.

Họ liền đóng cho chàng tàu mới

bằng mithril lắp với kính tiên

mũi lấp lánh; chẳng cần chèo mái,

chẳng buồm căng nóc bạc cột thuyền:

Silmaril thay đèn lồng nóc gắn

tắm hiệu cờ lửa sống không tàn

chính tay đức Elbereth đặt,

rồi đoái thương, người tặng cho chàng

đôi cánh trắng mang mạng bất tử,