Chương II HỘI ĐỒNG CỦA ELROND
Sáng hôm sau, Frodo dậy sớm, cảm thấy tươi tỉnh và khỏe khoắn. Cậu tản bộ dọc hiên nhà phía trên dòng Bruinen ồn ã, ngắm vầng thái dương nhợt nhạt và lạnh lẽo mọc trên những đỉnh núi xa, và chiếu xuống, xiên qua màn sương bạc mỏng manh; sương mai trên những tấm lá vàng lấp lánh, và những mạng nhện đan dệt lung linh ở mỗi bụi cây. Sam đi ngay bên cạnh cậu, không nói không rằng, chỉ say sưa hít ngửi không khí, thỉnh thoảng lại hướng cặp mắt ngỡ ngàng về phía những ngọn núi cao hùng vĩ phía Đông. Trên đỉnh núi tuyết phủ trắng.
Cạnh một lối rẽ, trên một chỗ ngồi được tạc vào đá, ho bắt gặp Gandalf và Bilbo đang mải mê nói chuyện. “Chào buổi sáng!” Bilbo nói. “Đã sẵn sàng cho cuộc họp hội đồng thật lớn chưa nào?”
“Cháu đã sẵn sàng cho mọi thứ,” Frodo trả lời. “Nhưng trên hết hôm nay cháu muốn đi dạo và khám phá thung lũng này. Cháu muốn vào khu rừng thông phía trên kia.” Cậu chỉ tay ra tít phía mặt Bắc Thung Đáy Khe.
“Sau này cháu có thể có cơ hội,” Gandalf nói. “Nhưng bây giờ chúng ta chưa thể lên kế hoạch nào đâu. Hôm nay sẽ có rất nhiều điều phải nghe và quyết định.”
Trong lúc họ còn đang mải nói chuyện, một tiếng chuông bỗng vang lên lanh lảnh. “Đó là tiếng chuông triệu tập cuộc họp Hội Đồng của Elrond,” Gandalf kêu lên. “Đi thôi! Cả cháu lẫn Bilbo đều được triệu mời đấy.”
Frodo và Bilbo nhanh chóng nối gót lão phù thủy theo con đường uốn khúc dẫn về ngôi nhà; đằng sau họ, Sam, vị khách không mời và nhất thời bị lãng quên, lẽo đẽo đi theo.
Gandalf dẫn họ tới mái hiên, nơi Frodo găp gỡ bạn bè đêm hôm trước. Buổi sáng mùa thu trong mát giờ đã bừng sáng trong thung lũng. Tiếng nước ùng ục vọng lên ồn ào từ phía lòng sông sủi bọt. Chim hót líu lo và một vẻ thanh bình lan tỏa khắp vùng đất. Với Frodo, cuộc trốn chạy ngàn cân treo tợi tóc, và những đồn đại hãi hùng về bóng đêm đang dần che phủ thế giới ngoài kia, giờ chỉ còn đọng lại như ký ức của một giấc mơ phiền não; thế nhưng những khuôn mặt ngoảnh ra chờ đón khi họ bước vào lại đầy vẻ u tối.
Elrond có mặt ở đó, và nhiều người khác nữa đang ngồi im lặng quanh ông. Frodo nhìn thấy Glorfindel và Glóin; trong một góc phòng, Sải Chân Dài ngồi một mình lại khoác bộ áo cũ kỹ dãi dầu sương gió của chàng. Elrond kéo Frodo lại ngồi bên cạnh ông và giới thiệu cậu với mọi người:
“Hỡi các bạn, đây là một người Hobbit, Frodo con trai Drogo. Hiếm có ai tới đây mang nhiệm vụ gấp gáp và trải qua nhiều hiểm nguy hơn cậu ấy.”
Rồi ông chỉ và giới thiệu tên những người mà Frodo chưa từng gặp mặt trước đó. Có một Người Lùn trẻ hơn ngồi cạnh Glóin: con trai ông, Gimli. Bên cạnh Glorfindel là những cố vấn khác của nhà Elrond, đứng đầu là Erestor; đi cùng ông còn có Galdor, một người Tiên đến từ Cảng Xám, ông đến đây vì công chuyện của Círdan Người Đóng Tàu. Còn có một người Tiên lạ mặt nữa trong bộ áo quần màu lục và nâu, Legolas, đến đây thay mặt cha là Thranduil, Vua Tiên phía Bắc rừng Âm U. Ngồi tách ra một chút là một gã đàn ông cao lớn với khuôn mặt đẹp và quý phái, mái tóc màu sẫm, đôi mắt xám và cái nhìn nghiêm nghị, đầy kiêu hãnh.
Gã phục trang và đi ủng như thể để du hành bằng ngựa; và quả thực dù trang phục của gã ta đắt tiền còn áo choàng thì viền lông thú, song chúng đều lấm lem bởi một hành trình dài. Gã đeo vòng cổ bạc có đính một viên ngọc trắng; tóc gã cắt đến ngang vai. Gã đeo trên mình bộ đai da treo chiếc tù và lớn bịt bạc một đầu giờ đang đặt trên đầu gối. Gã nhìn Frodo và Bilbo với vẻ kinh ngạc.
“Và đây,” Elrond quay lại phía Gandalf nói, “là Boromir, người đến từ miền Nam. Anh đến đây khi bình mình vừa rạng để xin ý kiến. Ta đã mời anh dự họp, bởi ở đây những thắc mắc của anh sẽ được giải đáp.”
* * *
Giờ đây không cần phải kể hết những điều được bàn bạc và tranh luận tại Hội Đồng. Đa phần đều nói đến những sự kiện đã xảy ra ở thế giới bên ngoài, đặc biệt là ở miền Nam, và ở cả những vùng đất rộng lớn phía Đông Dãy Núi Mù. Frodo đã được nghe đồn rất nhiều về những điều này; riêng câu chuyện của Glóin thì mới mẻ với cậu, vậy nên khi ông Người Lùn nói, cậu lắng nghe chăm chú. Dường như là ở giữa những công trình tráng lệ chính tay mình tạo nên, trái tim những Người Lùn sống trong Ngọn Cô Độc vẫn phiền muộn.
“Đến nay đã là nhiều năm trước,” Glóin kể, “một bóng đen lo âu đã trùm lên tộc chúng tôi. Lúc đầu nó tới chúng tôi không nhận thức được. Bắt đầu có những lời xì xào lén lút: rằng chúng tôi đang bị nhốt trong một vùng đất chật chội, và rằng thế giới rộng lớn bên ngoài có nhiều của cải hơn và huy hoàng hơn. Vài người đã nhắc đến Moria: công trình hoành tráng của các bậc cha ông chúng tôi mà ngôn ngữ Người Lùn gọi là Khazad-dûm; rồi họ tuyên bố giờ chính là lúc chúng tôi có đủ tiềm lực và quân số để quay lại đó.”
Glóin thở dài. “Moria! Moria! Kỳ quan của thế giới Phương Bắc! Nơi đó chúng tôi đã đào bới quá sâu và đã làm thức tỉnh nỗi sợ hãi không tên. Những đền đài mênh mông của nó đã bị bỏ trống từ lâu kể từ thuở con cháu Durin tháo chạy. Nhưng giờ đây chúng tôi lại nói về nó với niềm khao khát, cả nỗi khiếp sợ nữa; bởi chưa có Người Lùn nào dám bước chân qua cánh cửa Khazad-dûm trong suốt bao nhiêu đời vua, chỉ có một mình Thrór, và ngài đã phải bỏ mạng. Tuy nhiên rốt cuộc Balin vẫn nghe theo những lời xì xào đó và quyết tâm lên đường; và mặc dù Dáin miễn cưỡng lắm mới ưng thuận cho đi, ông vẫn mang theo Ori, Óin và rất nhiều người khác nữa, và họ tiến về phía Nam.
“Ấy đã là gần ba mươi năm về trước. Ban đầu chúng tôi nhận được khá nhiều tin tức, có vẻ tốt lành: rằng họ đã vào đến Moria và khởi đầu một công trình khổng lồ. Rồi tất cả bỗng rơi vào im lặng, từ Moria thảy đều bặt vô âm tín từ đó.
“Thế rồi khoảng một năm trước, một sử giả đến gặp Dáin, nhưng không phải từ Moria - mà từ Mordor: một kỵ sĩ trong đêm; hắn ta gọi Dáin ra cổng. Chúa tể Sauron Vĩ Đại, hắn nói vậy, ướm hỏi tình bằng hữu của chúng tôi. Đổi lại hắn sẽ tặng những chiếc nhẫn, như hắn đã làm trước kia. Và hắn rốt ráo hỏi han tin tức về người Hobbit, họ là giống dân gì, họ sinh sống ở đâu. ‘Bởi Sauron biết,’ tên sứ giả nói, ‘các ông đã từng quen một kẻ giống này.’
“Nghe vậy chúng tôi đã lo âu cực độ, nên chúng tôi không trả lời. Nhưng rồi hắn ta hạ chất giọng gớm ghiếc xuống, chỉ thiếu nước nói năng thật ngọt. ‘Sauron chỉ yêu cầu một bằng chứng nhỏ cho tình bạn của các ông,’ hắn ta nói; ‘các ông hãy tìm tên trộm này,’ đây là chữ hắn ta dùng, ‘hãy đoạt lại từ y, dù muốn hay không, một chiếc nhẫn nhỏ, món đồ chơi tầm thường hết sức mà y đã lấy trộm. Đó chỉ là món đồ chơi Sauron thích thú và cũng là cơ hội để các ông thể hiện thiện chí. Tìm thấy nó, các ông sẽ có lại được bộ ba nhẫn mà các vị tông tổ Người Lùn trước đây từng sở hữu, và vương quốc Moria cũng thuộc về các ông mãi mãi. Chỉ có được tin tức về tên trộm, y còn sống hay không và hiện đang ở đâu, các ông vẫn sẽ được phần thưởng hậu hĩnh và tình bạn trường tồn của Chúa tể. Còn từ chối, mọi việc sẽ không ổn thỏa đâu. Các ông dám từ chối?’
“Nói đến đó, hắn thở phì ra như tiếng rắn, khiến tất cả những người xung quanh thảy đều run rẩy, nhưng Dáin nói: ‘Ta không đồng ý hay từ chối. Ta phải cân nhắc kỹ thông điệp này đã, xem nó có ý nghĩa thực sự gì bên trong lớp vỏ bọc đẹp đẽ.’
“ ‘Cân nhắc cho kỹ, nhưng không được lâu quá,’ hắn ta nói.
“ ‘Thời gian là của ta, ta muốn nghĩ bao lâu là do ta quyết định,’ Dáin trả lời.
“ ‘Chỉ đúng vào lúc này thôi,’ hắn nói, rồi thúc ngựa phi vào bóng đêm.
“Trái tim các thủ lĩnh chúng tôi trở nên nặng trĩu, kể từ đêm đó. Chẳng cần phải nghe thứ giọng gớm ghiếc của tên sứ giả chúng tôi mới hiểu lời cảnh báo của hắn vừa răn đe nhưng cũng vừa lừa phỉnh; bởi chúng tôi đã biết trước thế lực vừa quay lại Mordor chẳng hề thay đổi, và hắn đã từng phản bội tổ tiên chúng tôi. Tên sứ giả đó quay lại thêm hai lần nữa, nhưng lần nào cũng phải ra về trắng tay. Lần thứ ba và cùng là lần cuối, hắn nói vậy, sẽ sớm đến thôi, trước cuối năm nay.
“Cuối cùng Dáin cử tôi đến báo cho Bilbo về việc ông ấy đang bị Kẻ Thù săn đuổi, và nếu được, thì tìm hiểu tại sao hắn khao khát chiếc nhẫn này, chiếc nhẫn tầm thường hết sức này. Chúng tôi cũng đến cầu xin Elrond lời cố vấn. Bởi Bóng Tối đang ngày một dày đặc và kéo đến ngày một gần. Chúng tôi còn phát hiện ra những tên sứ giả cũng đến tìm Vua Brand thành bang Thung Lũng, và ông ấy hoảng sợ. Chúng tôi sợ là ông ấy sẽ đầu hàng. Chiến tranh đang được chuẩn bị từ biên giới phía Đông vương quốc ông. Nếu chúng tôi không trả lời, Kẻ Thù rất có thể sẽ điều những Con Người dưới quyền hắn tấn công Vua Brand, và cả Dáin nữa.”
“Ông tới đây là đúng,” Elrond nói. “Hôm nay ông sẽ được nghe mọi điều giúp ông hiểu được mục đích của Kẻ Thù. Ông cũng chẳng thể làm được gì, ngoài việc chống lại hắn, dù còn hy vọng hay tuyệt vọng. Nhưng ông sẽ không phải đương đầu một mình đâu. Ông sẽ biết mối họa của ông chỉ là một phần mối họa của cả thế giới phía Tây. Ôi chiếc Nhẫn! Chúng ta có thể làm gì đây với chiếc Nhẫn, chiếc nhẫn tầm thường hết sức, món đồ chơi mà Sauron yêu dấu này? Đó là định mệnh mà chúng ta sẽ buộc phải định đoạt.
“Đó là lý do các bạn được gọi tới đây. Ta nói được gọi cho dù ta không gọi các bạn, những người xa lạ từ những vùng đất xa xôi đến với ta. Các bạn đã đến và tất cả cùng gặp mặt tại đây, vào đúng thời điểm này, có vẻ như một điều ngẫu nhiên. Thế nhưng hoàn toàn không phải vậy. Hãy tin rằng tất cả đã được sắp đặt như vậy để cho chúng ta, những người ngồi đây, mà không phải ai khác, phải tìm ra giải pháp cho mối nguy của thế giới này.
“Vì vậy giờ đây những điều đã được giữ kín với mọi người ngoại trừ một số ít cho đến tận hôm nay sẽ được nói ra công khai. Trước tiên, để mọi người có thể hiểu hơn hiểm họa này là gì, Sự Tích chiếc Nhẫn sẽ được kể từ lúc khởi đầu cho đến bây giờ. Ta sẽ bắt đầu sự tích, mặc dầu ai đó khác sẽ kết thúc nó.”
Thế rồi tất cả lắng nghe trong khi Elrond, bằng chất giọng trong trẻo của mình, kể về Sauron và Bộ Nhẫn Quyền Năng, và quá trình rèn ra chúng từ thế giới thời Kỷ Đệ Nhị cách đây đã lâu lắm rồi. Vài người đã nghe qua một phần câu chuyện, nhưng câu chuyện trọn vẹn thì chưa ai được biết, vì thế mọi con mắt đều hướng về Elrond sợ hãi và kinh ngạc khi ông kể về những thợ rèn Tiên thị quốc Eregion và mối quan hệ của họ với Moria, kể cả niềm say mê học hỏi đã khiến họ bị Sauron gài bẫy. Bởi khi đó hắn vẫn chưa chường mặt độc ác để phải dè chừng, họ nhận được hỗ trợ từ hắn để hoàn thiện kỹ năng siêu việt trong chế tác; nhưng cùng lúc hắn đã học tất cả bí quyết của họ và phản bội lại họ, bí mật rèn chiếc Nhẫn Chúa trong ngọn Núi Lửa để trở thành chủ nhân tất cả bọn họ. Thế nhưng Celebrimbor đã phát hiện ra, bèn giấu đi Bộ Ba do mình chế tạo, để rồi chiến tranh nổ ra khiến đất đai bị tàn phá thành hoang phế, còn cánh cổng Moria thì đóng sập.
Thế rồi suốt những năm tháng tiếp sau đó ông đã lần theo dấu chiếc Nhẫn; nhưng vì câu chuyện đó đã được kể lại ở nơi khác, và đích thân Elrond cũng đã chép lại trong quyển sách tích truyền của ông, chúng ta sẽ không dẫn ra đây. Vì đó là một câu chuyện rất dài, đầy những sự việc lừng lẫy và gớm ghiếc, và cho dù Elrond cố kể thật vắn tắt, mặt trời cũng đã lên rất cao, và buổi sáng trôi qua cũng là lúc ông ngưng kể.
Ông còn kể về Númenor, sự hưng thịnh và suy tàn của vương quốc ấy, cả hành trình trở lại Trung Địa của Các Vua Con Người từ đáy sâu Đại Dương, trên đôi cánh bão tố. Rồi Elendil Khôi Vĩ và những người con trai dũng mãnh, Isildur và Anárion, trở thành những lãnh chúa vĩ đại, gây dựng nên vương quốc Bắc là Arnor, vương quốc Nam là Gondor, phía trên cửa sông Anduin. Thế nhưng Sauron đất Mordor đã tấn công họ, và họ khởi xướng Liên Minh Cuối Cùng giữa Tiên và Con Người, và các đạo quân của Gil-galad và Elendil cùng duyệt binh tại Arnor.
Kể đến đây Elrond ngưng lại thở dài. “Ta vẫn còn nhớ như in vẻ tráng lệ những ngọn cờ trận,” ông nói. “Nó làm ta liên tưởng đến vẻ huy hoàng thuở Cựu Niên và các đội quân Beleriand, biết bao vị vương tử và thống lĩnh vĩ đại đã tụ hội. Nhưng vẫn chẳng được đông đảo, được đẹp đẽ bằng cái ngày núi lửa Thangorodrim sụp đổ, và người Tiên tưởng rằng cái ác đã vĩnh viễn chấm dứt, nhưng hóa ra lại không phải vậy.”
“Ngài vẫn còn nhớ sao?” Frodo hỏi, cậu ngạc nhiên đến nỗi buột miệng nói ra suy nghĩ của mình. “Vì cháu nghĩ,” cậu lắp bắp khi Elrond quay về phía cậu, “cháu nghĩ cuộc lâm chung của Gil-galad đã xảy ra cách đây lâu lắm rồi.”
“Hoàn toàn chính xác,” Elrond trang trọng trả lời. “Nhưng ký ức của ta thậm chí bắt đầu từ thuở Cựu Niên. Eärendil là thân phụ ta, sinh ra tại Gondolin từ trước khi thành phố sụp đổ; và mẹ ta là Elwing, con gái của Dior, con trai của Lúthien vương quốc Doriath. Ta đã được chứng kiến ba kỷ nguyên ở miền Tây thế giới, có quá nhiều thất bại và những chiến thắng vô ích.
“Ta là sứ giả của Gil-galad và đã hành quân cùng đội quân của Người. Ta có mặt tại Trận Dagorlad, trước cánh Cổng Đen đất Mordor, nơi chúng ta đã chiếm ưu thế: bởi trước Giáo Thần Aeglos của Gil-galad, hay dưới Bảo Kiếm Narsil của Elendil, không kẻ thù nào có thể chống lại. Ta chứng kiến cuộc giao đấu cuối cùng trên sườn núi Orodruin, nơi Gil-galad tử trận, Elendil ngã xuống, và thanh Narsil đã gãy dưới mình Người; thế nhưng bản thân Sauron cũng bị đánh bại, Isildur nắm đốc thanh kiếm gãy của cha mình cắt chiếc Nhẫn ra khỏi tay hắn, và chiếm lấy làm của riêng.”
Đến đây, gã đàn ông lạ mặt tên Boromir chen vào. “Vậy ra đó là những gì đã xảy ra với chiếc Nhẫn!” gã thốt lên. “Nếu câu chuyện này có bao giờ được kể ở miền Nam đi nữa, người ta cũng đã quên từ lâu rồi. Tôi đã từng được nghe về chiếc Nhẫn Báu này của kẻ chúng tôi không gọi tên; nhưng chúng tôi tưởng nó đã bị phá hủy vĩnh viễn trong đống đổ nát của lãnh địa đầu tiên hắn dựng nên. Thì ra Isildur đã lấy đi! Quả là một tin quan trọng.”
“Than ôi! Đúng vậy,” Elrond nói. “Isildur đã lấy và đáng lẽ không nên thế. Đúng ra đã phải ném nó xuống ngọn lửa trong lòng núi Orodruin ngay tại đó, nơi nó được tạo ra. Nhưng có rất ít người nhận thấy điều Isildur làm. Chỉ có mình ông ấy chiến đấu bên cha trong cuộc giao chiến tuyệt mệnh đó; bên cạnh Gil-galad chỉ có Círdan và ta. Nhưng Isildur không chịu nghe theo lời khuyên của chúng ta.
“Ông ấy nói: ‘Ta sẽ coi đây như cái giá chuộc lại cái chết của cha ta, cả em trai ta nữa,’ và không cần biết chúng ta đồng ý hay không, ông ấy đã chiếm nó để giữ làm của báu. Nhưng chẳng lâu sau ông ấy bị nó phản bội đến mất mạng; vì lẽ đó người miền Bắc gọi nó là Tai Ương của Isildur. Nhưng dù sao chết vẫn còn tốt hơn những gì khác nó hẳn có thể gây ra cho ông ấy.
“Tin này chỉ lan lên phía Bắc, và cũng chỉ có vài người biết. Anh không nghe gì về chuyện này thì cũng không có gì lạ Boromir ạ. Từ đống đổ nát trên Đồng Diên Vĩ, nơi Isildur bỏ mạng chỉ có ba người vượt núi trở về được sau chặng dài rong ruổi. Một trong số này là Ohtar, tùy tùng của Isildur, mang theo mình những mảnh gươm vỡ của Elendil, và trao lại cho Valandil, người kế vị Isildur, khi đó chỉ là một đứa trẻ gửi tại Thung Đáy Khe này. Nhưng thanh Narsil đã gãy, ánh sáng của nó đã tắt, và nó vẫn còn chưa được rèn lại.
“Có phải ta đã gọi chiến thắng của Liên Minh Cuối Cùng là vô ích không? Cũng không hoàn toàn như vậy, nhưng cuộc chiến không đạt được mục đích ban đầu. Sauron thất bại, nhưng chưa bị tiêu diệt. Chiếc Nhẫn của hắn thất lạc, nhưng chưa bị phá hủy. Ngọn Tháp Tối bi đổ vỡ, nhưng nền móng vẫn còn nguyên, vì được tạo ra nhờ quyền năng của chiếc Nhẫn; một khi nó vẫn còn, nền ấy vẫn sẽ tồn tại. Nhiều người Tiên và nhiều Con Người hùng mạnh, và biết bao bạn bè của họ nữa, đã bỏ mạng trong cuộc chiến đó. Anárion bị giết chết, Isildur bị giết chết; Gil-galad và Elendil cũng không còn. Sẽ chẳng bao giờ có được một liên minh Người và Tiên như vậy nữa; bởi Con Người cứ sinh sôi nảy nở, trong khi thế hệ Lứa Đầu ngày càng mai một, và hai loài dân trở nên xa cách. Và cũng kể từ đó, dòng giống Númenor bắt đầu suy tàn, và tuổi đời của họ cũng dần ngắn lại.
“Ở miền Bắc, sau cuộc chiến tranh và cuộc tàn sát ở Đồng Diên Vĩ, giống Người Tây Châu cũng bị thu hẹp lại, thành phố Annúminas bên bờ Hồ Bóng Tà dần rơi vào cảnh hoang tàn; lớp người kế vị Valandil đã rời đi, và lên sống ở Fomost trên Khu Đồi Bắc, tuy nhiên giờ đây nơi này cũng đã bị tàn phá. Con Người gọi nơi ấy là Rãnh Người Chết, và họ sợ phải đặt chân lên đó. Chúng dân vương quốc Arnor ngày một giảm, rồi bị những kẻ thù của họ nuốt chửng; lãnh thổ của họ tàn phai, chỉ còn lại những gò đống xanh non trong vùng đồi cỏ.
“Ở miền Nam, vương quốc Gondor trụ vững trong một thời gian dài, thậm chí có giai đoạn còn trở nên hưng thịnh, gợi lại đôi chút thời huy hoàng của Númenor, trước khi sụp đổ. Họ đã xây những tòa tháp cao, những công trình vững chãi, và bến cảng cho cơ man tàu thuyền; và vầng vương miện mang cánh của Các Vua Con Người được mọi tộc dân kính nể. Thủ phủ của họ là thành phố Osgiliath, Thành Lũy Muôn Sao, và giữa thành phố đó dòng Sông Cả chảy. Họ còn xây dựng Minas Ithil, Tháp Mặt Trăng Lên ở phía Đông, trên một vai Dãy Núi Bóng Đêm; còn về phía Tây, dưới chân Dãy Núi Trắng, họ làm Minas Anor, Tháp Mặt Trời Lặn. Ở đó, trước sân điện Vua, có trồng một cây màu trắng, hạt giống lấy từ cái cây mà Isildur mang đến trong chuyến vượt bể sâu, cây này trước đó lại lấy hạt từ Eressëa, và trước đó nữa có nguồn gốc từ chính Tây Cực thời Nguyên Thủy xa xưa khi thế giới vẫn còn non trẻ.
“Thế nhưng trong những năm tháng thấm thoắt trôi vèo nơi vùng Trung Địa, dòng giống Meneldil con trai Anárion phai tàn, và cây Trắng bắt đầu khô héo, dòng máu Númenor bất đầu pha trộn với những chủng người thấp kém hơn. Và rồi sự cảnh giác đối với thành trì Mordor bắt đầu lơi lả, những thứ hắc ám mò mẫm trở lại Gorgoroth. Đến một lúc cái ác bắt đầu khuếch trương thanh thế, chúng chiếm lấy Minas Ithil, đóng đô tại đó, biến nó thành một nơi khủng khiếp, và nó mang tên mới là Minas Morgul, Tháp Ma Thuật. Rồi Minas Anor cũng bị đổi tên mới thành Minas Tirith, tòa Tháp Canh; và hai thành phố này dấn vào cuộc chiến tranh trường cửu, thế nhưng Osgiliath nằm ở giữa thì bị bỏ hoang, chỉ còn lại những cái bóng len lỏi trong đống đổ nát.
“Vậy là đã nhiều đời người kế tiếp kể từ ngày ấy. Nhưng các Lãnh Chúa Minas Tirith vẫn tiếp tục chiến đấu, thách thức kẻ thù của chúng ta, bảo vệ con đường Sông Cả từ Argonath ra Đại Dương. Và tại đây, phần câu chuyện mà ta kể đã đến gần đoạn kết. Bởi trong thời Isildur, Chiếc Nhẫn Thống Trị đã biến mất khỏi hiểu biết của mọi người, còn Bộ Ba được giải phóng ra khỏi ách cai trị của nó. Thế nhưng giờ đây chúng lại một lần nữa cận kề tai họa, bởi thật đáng buồn là chiếc Nhẫn Chúa đã được tìm thấy. Những người khác sẽ kể về việc tìm thấy nó ra sao, bởi ta không liên quan nhiều trong chuyện này.”
Ông vừa ngừng lời Boromir đã đứng phắt dậy trước mặt họ, cao lớn và kiêu hãnh. “Hãy cho phép tôi, thưa Chủ Nhân Elrond,” gã nói, “trước tiên là nói thêm về Gondor, bởi tôi đến từ chính nơi đó, và sẽ tốt hơn cho mọi người nếu biết điều gì đang xảy ra. Tôi cho rằng, bởi có quá ít người biết về kỳ công của chúng tôi, nên họ không ý thức được mối nguy hiểm của chính mình, nếu chúng tôi thất bại.
“Đừng tin rằng dòng máu Númenor đã phai tàn trên mảnh đất Gondor, cũng đừng nghĩ tất cả vinh quang và kiêu hãnh xưa bị quên lãng. Nhờ sự dũng cảm của chúng tôi, những giống dân hoang dã phía Đông vẫn bị kiềm chế, và nỗi kinh hoàng Morgul vẫn chưa thể đến gần; và chỉ nhờ thế tự do và hòa bình mới có được nơi những miền đất phía sau thành trì của chúng tôi, nghĩa là phần lớn miền Tây. Thế nhưng nếu đường Sông Cả bị đánh chiếm, điều gì sẽ xảy ra?
“Và thời khắc đó có lẽ sẽ chẳng còn bao lâu nữa. Kẻ Thù Không Tên đã trỗi dậy. Khói lại một lần nữa bốc lên từ Orodruin mà chúng tôi vẫn gọi là Đỉnh Định Mệnh. Quyền lực của Vùng Đất Đen được tăng cường, và chúng tôi đang bị vây hãm ngặt. Khi Kẻ Thù trở lại, người của chúng tôi đã bị đẩy ra khỏi Ithilien, mảnh đất đẹp đẽ bờ Đông dòng Sông Cả, cho dù chúng tôi vẫn còn cài lại đó một cứ điểm vũ trang mạnh mẽ. Nhưng ngay trong năm nay, vào những ngày tháng Sáu, Mordor đột nhiên tuyên chiến, và chúng tôi đã bị quét sạch. Chúng tôi bị lép vế về quân số bởi Mordor đã liên minh với dân miền Đông và bọn Haradrim tàn bạo; nhưng chúng tôi không thất bại vì quân số. Bởi đã có một quyền năng mà chúng tôi chưa từng đối mặt trước đó.
“Vài người kể lại đã nhìn thấy một hình thù gì đó, giống như một kỵ sĩ đen khổng lồ, một bóng tối dưới ánh trăng. Bất cứ nơi nào hắn tràn qua, hung dữ điên cuồng liền tràn ngập tâm can kẻ thù, còn nỗi sợ hãi ập xuống những người can đảm nhất trong chúng tôi, vì thế cả người lẫn ngựa đều tháo chạy. Duy chỉ có một nhóm tàn quân thuộc lực lượng phía Đông quay lại phá hủy cây cầu cuối cùng còn trụ giữa đống hoang tàn của Osgiliath.
“Tôi thuộc đội quân giữ cây cầu đó, cho đến khi nó sập xuống ngay sau lưng chúng tôi. Chỉ có bốn người sống sót nhờ biết bơi: em trai tôi, bản thân tôi, và hai người khác nữa. Song chúng tôi vẫn tiếp tục chiến đấu để giữ toàn tuyến bờ Tây dòng Anduin; nên người dân cư ngụ phía sau ca tụng chúng tôi bất cứ khi nào họ nghe đến tên chúng tôi: ca tụng nhiều nhưng giúp được thì ít. Giờ đây chỉ còn mỗi Rohan sẵn sàng cử người đến khi chúng tôi kêu gọi.
“Trong thời khắc tồi tệ ấy, tôi nhận nhiệm vụ vượt qua nhiều lý đường hiểm nguy đến với Elrond: tôi đã một mình trải qua cuộc hành trình dài một trăm mười ngày đường. Nhưng tôi đến đây không phải để tìm đồng minh chiến tranh. Người ta vẫn nói, quyền năng của Elrond là sự thông thái chứ không phải vũ khí. Tôi đến đây để xin lời khuyên và tìm giải đáp cho những lời khó hiểu. Bởi lẽ ngay đêm trước cuộc đột kích thình lình của Mordor, em trai tôi đã có một giấc mơ trong giấc ngủ chập chờn; rồi sau cuộc chiến em tôi mơ thấy giấc mơ tương tự lần nữa, và một lần đến cả tôi.
“Trong giấc mơ đó, bầu trời phía Đông tối sầm, sấm chớp nổi lên ầm ầm, thế nhưng ở phía Tây một vầng sáng nhạt vẫn còn rơi rớt, và từ đó tôi đã nghe thấy một giọng nói, xa nhưng rõ, thét lớn:
Hãy tìm đến Thanh Kiếm gãy
Tại Imladris nương nhờ;
Tại đó sẽ nghe khuyên dạy
Mạnh hơn Morgul ngải bùa.
Tại đó sẽ thấy chứng vật
Báo Định Mệnh đã gần bên:
Tai Ương Isildur tỉnh giấc,
Người Tí Hon sẽ bước lên.
Chúng tôi chẳng hiểu mấy ý nghĩa của lời ca nên đã nói chuyện này với cha chúng tôi, Denethor, Chúa thành Minas Tirith, một người rất am hiểu các tích truyện Gondor. Cha tôi chỉ nói rằng Imladris là một địa danh cổ của người Tiên chỉ một thung lũng miền viễn Bắc, nơi Elrond Á Tiên cư ngụ, người uyên bác nhất trong số các bậc thầy về học vấn. Vì thế em trai tôi, hiểu được tình cảnh đang tuyệt vọng tới mức nào, nôn nóng muốn nghe theo giấc mơ đi tìm Imladris; nhưng vì cuộc hành trình đầy những ngờ vực và nguy hiểm, nên tôi đích thân lên đường. Cha tôi miễn cưỡng để tôi ra đi, và tôi đã lang thang ngày này qua ngày khác trên những con đường bị lãng quên, tìm kiếm ngôi nhà của Elrond, mà rất nhiều người đã nghe tiếng, nhưng biết nó ở đâu lại chẳng có bao nhiêu.”
“Và giờ đây trong ngôi nhà của Elrond, anh sẽ được làm rõ thêm vài điều,” Aragorn đứng dậy nói. Chàng đặt thanh kiếm bên mình lên mặt bàn trước mặt Elrond, lưỡi kiếm đã bị rời ra làm hai mảnh. “Đây chính là Thanh Kiếm Gãy!” chàng nói.
“Vậy ngươi là ai, và ngươi có liên quan gì đến Minas Tirith?” Boromir hỏi trong khi hướng cái nhìn đầy dò xét vào khuôn mặt hốc hác của chàng Tuần Du trong bộ áo choàng bạc màu sương gió.
“Đây là Aragorn con trai Arathorn,” Elrond trả lời; “và anh ấy là hậu duệ nhiều đời của Isildur con trai Elendil thành Minas Ithil. Anh ấy hiện là Thủ Lĩnh của người Dúnedain miền bắc, giờ đây chẳng còn lại nhiều người thuộc tộc đó nữa.”
“Vậy thì nó phải thuộc về anh, chứ hoàn toàn không phải tôi!” Frodo sửng sốt hét lên, bật người đứng dậy, cứ như thể cậu nghĩ chiếc Nhẫn sẽ bị đòi lấy ngay lập tức.
“Nó không thuộc về ai trong chúng ta,” Aragorn nói; “nhưng đã có thống nhất rằng cậu nên giữ nó thêm một thời gian nữa.”
“Hãy đưa chiếc Nhẫn ra đây, Frodo!” Gandalf trang nghiêm nói. “Đã đến lúc rồi. Hãy đưa nó ra, để Boromir hiểu phần còn lại của câu đố mà anh ấy nghe được.”
Im lặng bao trùm, mọi con mắt đều đổ dồn vào Frodo. Cậu run rẩy vì nỗi xấu hổ và sợ hãi bất ngờ; và cậu thấy miễn cuỡng khi phải lấy chiếc Nhẫn ra và ghê tởm lúc chạm tay vào nó. Cậu ước mình ở đâu thật xa. Chiếc Nhẫn tỏa sáng rồi chập chờn khi bàn tay run rẩy của cậu đưa nó ra trước mắt họ.
“Hãy nhìn Tai Ương của Isildur!” Elrond nói.
Cặp mắt Boromir sáng lên, dán chặt vào chiếc vành vàng. “Người Tí Hon!” gã lẩm bẩm. “Ngày định mệnh của Minas Tirith cuốì cùng cũng đã đến rồi sao? Nhưng sao chúng tôi phải đi tìm một thanh kiếm gãy để làm gì?”
“Lời ca không hề nói định mệnh của Minas Tirith,” Aragorn nói. “Nhưng định mệnh và cả những chiến công hiển hách đều đã ở gần lắm rồi. Bởi Thanh Kiếm Gãy chính là Bảo Kiếm của Elendil, nó gãy dưới mình Người khi Người ngã xuống. Những người kế vị đã trân quý nó trong khi các báu vật gia truyền khác đều thất lạc, bởi người xưa đã truyền lại giữa chúng tôi rằng kiếm sẽ được rèn lại một khi chiếc Nhẫn, Tai Ương của Isildur, được tìm thấy. Giờ đây anh đã nhìn thấy thanh kiếm anh kiếm tìm, anh còn đòi hỏi gì nữa? Anh có mong muốn Gia tộc Elendil trở lại Vuơng quốc Gondor không?”
“Tôi đến đây không phải để cầu xin ân huệ, mà chỉ mong được giải đáp một cậu đố,” Boromir trả lời kiêu hãnh. “Song chúng tôi đang chịu nhiều sức ép, và thanh Bảo Kiếm của Elendil sẽ giúp ích hơn cả trông mong của chúng tôi - ấy là nếu thứ như thế còn có thể trở về từ bóng tối của quá khứ.” Boromir nhìn lại Aragorn, ánh mắt đầy vẻ nghi ngờ.
Frodo có cảm giác Bilbo sốt ruột nhấp nhổm bên cạnh mình. Rõ ràng ông đang khó chịu thay cho bạn mình. Đột nhiên ông đứng dậy tuôn ra một tràng:
Đích thực là vàng thời không lấp lánh,
Lang thang cô lánh chẳng cứ lạc đường;
Cội khỏe thân cường dẫu già không mạt,
Rễ sâu bám chặt phạm nào tuyết sương.
Từ đống tro tàn sẽ khêu lại lửa,
Giữa đêm phong tỏa ánh sáng bật ra;
Lưỡi thép gãy lìa lại rèn sắc bén,
Kẻ không vương miện tái hồi ngai vua.
“Có thể không được hay, nhưng vào thẳng vấn đề - nếu anh còn cần gì thêm ngoài lời nói của Elrond. Và nếu điều đó đáng để anh phải vượt qua một trăm mười ngày đường để nghe, thì tốt nhất hãy nghe cho rõ.” Nói đoạn ông khịt mũi ngồi xuống.
“Ta đã sáng tác nó đấy,” ông thì thầm với Frodo, “tặng anh chàng Dúnadan, khi lần đầu nghe anh ta kể về bản thân cách đây lâu lắm rồi. Ta gần như ước sao những ngày tháng phiêu lưu chưa chấm dứt, để ta có thể theo anh ta khi thời của anh ta đến.”
Aragorn nhìn ông mỉm cười; rồi chàng lại quay về phía Boromir. “Về phần mình, tôi tha thứ cho sự hoài nghi của anh,” chàng nói. “Bề ngoài tôi chẳng có gì giống với Elendil và Isildur, nếu chiểu theo hai bức tượng đang đứng oai nghiêm ở sảnh Denethor. Tôi chỉ là một kẻ kế vị Isildur chứ không phải bản thân Người. Tôi đã phải trải qua một cuộc sống dài và vất vả; và bao nhiêu lý từ nơi đây tới Gondor chỉ là một phần nhỏ bé trong những cuộc hành trình của tôi. Tôi đã vượt qua biết bao con sông, biết bao ngọn núi, băng qua biết bao thảo nguyên, thậm chí từng đặt chân đến những xứ sở xa xôi Rhûn hay Harad, nơi những vì sao cũng hoàn toàn lạ lẫm.
“Nhưng quê hương tôi, như tôi hằng có, chính là ở miền Bắc. Ở đó con cháu Valandil từng sinh sống bền vững qua bao thế hệ, con trai nối tiếp từ cha. Rồi thời đại của chúng tôi bắt đầu tăm tối, dòng giống bắt đầu mai một, thế nhưng Bảo Kiếm vẫn luôn có người gìn giữ. Và có điều này tôi muốn nói với anh, Boromir, trước khi tôi kết thúc. Chúng tôi là những người đơn độc, những Tuần Du giữa vùng hoang, những thợ săn - nhưng chỉ suốt đời săn đuổi những đầy tớ của Kẻ Thù; vì giờ đây chúng ở khắp nơi, chứ không ở riêng gì Mordor.
“Này Boromir, nếu Gondor là ngọn tháp vững chãi, chúng tôi lại đóng một vai trò khác. Có rất nhiều thứ hiểm ác mà tường cao cùng kiếm sáng của các anh không chống đỡ nổi. Các anh biết rất ít về những vùng đất bên ngoài biên giới các anh. Anh nói tới hòa bình và tự do ư? Miền Bắc chắc đã chẳng biết thế nào là tự do với hòa bình, nếu không có chúng tôi. Nỗi sợ hãi hẳn đã dễ dàng tiêu diệt cả hai điều ấy. Nhưng khi những thứ đen tối tràn đến từ những ngọn đồi không nhà không cửa, hay bò ra từ những khu rừng không ánh mặt trời, chúng lại chạy trốn khi giáp mặt chúng tôi. Con đường nào còn có người dám bước chân, sự an toàn nào còn lưu lại trên những mảnh đất yên tĩnh, hay bên trong ngôi nhà của những con người chất phác, nếu người Dúnedain bận say ngủ, hay đều đã dắt tay nhau xuống mồ?
“Thế mà chúng tôi ít được biết ơn hơn các anh. Các lữ khách cau mày khi thấy chúng tôi, người nông thôn gọi chúng tôi bằng những cái tên khinh miệt. Tôi là ‘Sải Chân Dài’ trong mắt một gã béo xác sống cách quân thù chỉ một ngày đường, chúng dễ dàng đóng băng trái tim gã, hay tàn phá cái làng nhỏ xinh của gã, nếu gã không có chúng tôi canh gác ngày đêm. Nhưng chúng tôi thà như vậy còn hơn phải khác đi. Nếu những người dân chất phác được thoát khỏi sợ hãi và lo âu, cứ để họ sống chất phác, và chúng tôi vẫn sẽ giữ bí mật để họ tiếp tục được như vậy. Đó luôn là nghĩa vụ của dòng dõi chúng tôi, bất kể năm tháng cứ dài thêm và cỏ cây vẫn mọc.
“Nhưng giờ đây thế giới lại một lần nữa thay đổi. Giờ khắc mới đã đến. Tai Ương của Isildur đã được tìm ra. Trận chiến đã cận kề. Bảo Kiếm sẽ được rèn lại. Tôi sẽ tới Minas Tirith.”
“Anh nói Tai Ương của Isildur đã được tìm thấy,” Boromir hỏi. “Tôi đã thấy chiếc nhẫn sáng trên tay Người Tí Hon kia; thế nhưng người ta nói cái chết của Isildur đã xảy ra từ trước khi bắt đầu kỷ nguyên này. Làm sao Hội Đồng Thông Thái biết chắc được đây là chiếc nhẫn của Người? Và nó đã đi đâu trong ngần ấy năm, cho đến khi được mang đến đây bởi một người đưa tin quá đỗi lạ lùng như vậy?”
“Điều đó sẽ được giải thích,” Elrond lên tiếng.
“Đừng vội thưa Chủ Nhân!” Bilbo nói. “Mặt Trời đã lên quá đỉnh và tôi thấy cần thứ gì đó để lấy sức,”
“Ta đâu đã gọi ông,” Elrond cười. “Nhưng ta sẽ làm vậy ngay bây giờ. Hãy đến đây! Hãy kể cho chúng ta nghe câu chuyện của ông. Và nếu ông vẫn chưa phổ thơ cho nó, thì ông cứ kể nó bằng văn xuôi. Càng ngắn gọn thì ông càng sớm được lấy sức.”
“Tốt thôi,” Bilbo nói. “Tôi sẽ làm như ngài yêu cầu. Bây giờ tôi sẽ kể câu chuyện thật, và nếu ai đó ở đây đã từng nghe tôi kể khác,” - ông liếc sang phía Glóin - “tôi xin họ hãy quên đi và tha thứ cho tôi. Bởi hồi ấy tôi chỉ muốn vật báu đó là của tôi, và cũng muốn gỡ bỏ danh hiệu kẻ cắp đã được đặt cho tôi. Giờ đây có lẽ tôi đã hiểu mọi thứ rõ ràng hơn đôi chút. Dẫu sao thì câu chuyện xảy ra thế này.”
Đối với vài người có mặt ở đó, câu chuyện của Bilbo hoàn toàn mới mẻ, họ lắng nghe với vẻ sửng sốt khi ông già Hobbit, thật tình là khoái chí, kể lại chi tiết cuộc phiêu lưu của mình cùng Gollum. Ông không hề bỏ sót một câu đố nào. Và có lẽ ông đã kể nốt cả chuyện bữa tiệc sinh nhật và sự biến mất của mình khỏi Quận nếu ông còn được tiếp tục; nhưng Elrond đã giơ tay ra hiệu.
“Kể hay lắm, ông bạn của ta,” Elrond nói, “nhưng lần này thế là đủ rồi. Hiện tại chỉ cần biết chiếc Nhẫn đã được trao cho Frodo người thừa kế của ông là đủ. Giờ hãy để cậu ấy lên tiếng!”
Và rồi dù không sẵn lòng như Bilbo, Frodo vẫn kể lại tất cả những gì cậu đã gặp phải cùng chiếc Nhẫn từ ngày nó được trao cho cậu cất giữ. Từng bước trong cuộc hành trình của cậu từ Hobbit Thôn đến Khúc Cạn sông Bruinen đều được hỏi han và suy xét rồi cả những gì cậu có thể nhớ về lũ Kỵ Sĩ Đen cũng được thẩm tra. Cuối cùng cậu lại được ngồi xuống.
“Không tồi,” Bilbo nói với cậu. “Lẽ ra cháu đã có được hẳn một câu chuyện hay ho, nếu bọn họ không cứ liên tục ngắt lời. Ta đã cố ghi lại một vài điều, nhưng chúng ta sẽ phải ngồi lại với nhau để ôn lại toàn bộ chuyện này lúc nào đó, nếu ta muốn viết nó vào sách. Sẽ có hẳn vài chương về những gì đã xảy ra trước khi cháu đến được đây!”
“Vâng, sẽ là một câu chuyện dài,” Frodo trả lời. “Nhưng cháu thấy câu chuyện có vẻ vẫn chưa trọn vẹn. Cháu còn muốn biết nhiều nữa, đặc biệt là về ông Gandalf.”
Galdor đến từ Cảng Xám, ngồi ngay bên cạnh, nghe được cậu nói. “Cậu đã nói trúng ý ta,” ông lên tiếng, rồi quay về phía Elrond nói: “Hội Đồng Thông Thái có thể có lý do chính đáng để tin rằng báu vật của anh chàng tí hon này quả thật chính là chiếc Nhẫn Báu từ lâu tranh cãi, thế nhưng đối với một số người chưa tường tận vấn đề, điều này có vẻ thật khó tin. Vậy nên chăng chúng ta cần được nghe bằng chứng? Và tôi cũng muốn hỏi điều này. Saruman thì sao? Ông ta vốn am tường tích truyện về Bộ Nhẫn, nhưng ông ta lại không có mặt cùng chúng ta đây. Ông ta sẽ chỉ bảo điều gì - nếu cũng nghe được những gì chúng ta nghe?”
“Những câu hỏi mà ông đưa ra, Galdor ạ, đều liên quan đến nhau,” Elrond nói. “Tôi không định bỏ qua đâu, và tất cả sẽ được trả lời. Nhưng đấy là phần mà Gandalf phải làm sáng tỏ; và tôi gọi ông ấy sau cùng, bởi đó là vị trí danh dự, và trong tất cả sự việc này, ông ấy luôn là người chủ trì.”
“Galdor ạ,” Gandalf nói, ‘Với một số người, tin tức của Glóin, và cuộc truy lùng Frodo đã đủ chứng minh báu vật của anh chàng tí hon này là thứ có giá trị lớn đối với Kẻ Thù. Vậy mà nó lại là một chiếc nhẫn. Ta phải hiểu ra sao? Bộ Chín thì Nazgûl cất giữ. Bộ Bảy đã bị lấy mất hoặc bị phá hủy,” Nghe đến đây Glóin cựa mình trong ghế, nhưng không nói gì. “Bộ Ba thì chúng ta đã biết rồi. Vậy chiếc nhẫn này là gì mà hắn lại quan tâm nhiều đến thế?
“Quả là có một khoảng thời gian bỏ trống dài dặc giữa Sông Cả và Dãy Núi, giữa thời điểm thất lạc và tìm thấy. Nhưng khoảng trống trong nhận thức của Hội Đồng Thông Thái cuối cùng cũng đã được lấp đầy. Cho dù quá chậm. Bởi Kẻ Thù đã ở sát đằng sau, thậm chí còn gần sát hơn cả tôi e ngại. Và thật may là chỉ đến tận năm nay, đúng vào mùa hè này, có vẻ thế, hắn mới biết được toàn bộ sự thật.
“Chắc vài người ở đây vẫn còn nhớ, nhiều năm trước chính tôi đã liều mạng vượt qua cánh cổng của tên Hắc Thuật Sĩ ở Dol Guldur, và bí mật khám phá những con đường của hắn, rồi sau đó phát hiện ra những gì chúng ta vẫn sợ là sự thực: hắn không phải ai khác mà chính là Sauron, Kẻ Thù muôn năm cũ của chúng ta, rốt cuộc đã định hình và phục hồi quyền năng trở lại. Có lẽ vài người cũng vẫn còn nhớ Saruman đã can ngăn chúng ta công khai hành động chống lại hắn ta, nên trong suốt thời gian dài chúng ta chỉ theo dõi. Và cuối cùng, khi cái bóng của hắn ta trở nên hùng mạnh, Saruman nhượng bộ, và Hội Đồng đã triển khai sức mạnh để đẩy lùi cái ác ra khỏi rừng Âm U - đó cũng chính là năm tìm ra chiếc Nhẫn này: nếu đó là sự tình cờ, thì quả là một sự tình cờ kỳ lạ.
“Thế nhưng đúng như Elrond tiên đoán, chúng ta đã hành động quá muộn. Sauron cũng theo dõi chúng ta, và đã chuẩn bị để chống lại chúng ta, từ xa cai quản Mordor qua Minas Morgul, nơi Chín bầy tôi của hắn chiếm cứ, cho tới khi tất cả đều sẵn sàng. Rồi hắn nhượng bộ trước chúng ta, nhưng chỉ là nghi binh để trốn chạy, vì chẳng lâu sau hắn đã tới tòa Tháp Tối, chính thức công khai danh tính. Rồi đến lần cuối cùng Hội Đồng mở họp; vì tới đó chúng ta đã biết là hắn đang săn lùng chiếc Nhẫn Chúa ráo riết hơn bao giờ hết. Chúng ta khi ấy đã e sợ hắn biết được những tin tức về nó mà chúng ta không hề hay biết. Thế nhưng Saruman đã phủ nhận, và lặp lại điều ông ta từng nói với chúng ta trước đây rằng chiếc Nhẫn Chúa sẽ không bao giờ được tìm thấy ở Trung Địa.
“ ‘Tệ nhất thì,’ ông ta nói, ‘Kẻ Thù cũng chỉ biết rằng chúng ta không giữ nó, rằng nó vẫn đang thất lạc. Nhưng hắn nghĩ, những gì mất rồi có thể tìm lại được. Nên đừng sợ! Kỳ vọng của hắn sẽ lừa gạt chính hắn. Chẳng phải là tôi đã nghiên cứu kỹ vấn đề này ư? Nó đã rơi xuống dòng Sông Cả Anduin; và từ lâu lắm rồi, khi Sauron vẫn còn đang ngủ kỹ, nó đã trôi từ Sông Cả xuống Đại Dương. Cứ mặc nó nằm lại đó đến tận Hồi Kết.’ ”
Gandalf chìm vào im lặng, nhìn chằm chằm về phía Đông, qua cánh cổng vòm, đến tận những đỉnh xa tít của Dãy Núi Mù, dưới những chân núi ấy bao năm ròng tiềm ẩn mối họa cho cả thế giới. Lão thở dài.
“Khi đó tôi đã sai lầm,” lão cất lời. “Tôi đã bị lời lẽ của Saruman Thông Thái ru ngủ; phải chi tôi đã tìm kiếm sự thật sớm hơn, mối nguy của chúng ta giờ đây chắc hẳn đã giảm đi nhiều.”
“Tất cả chúng ta đều sai lầm,” Elrond nói, “mà nếu không có sự đề phòng của ông, có lẽ giờ này Bóng Tối đã trùm xuống chúng ta rồi. Ông nói tiếp đi!”
“Ngay từ đầu trái tim đã bồn chồn nhắc nhở tôi, trái lại với những gì lý trí cố thuyết phục tôi,” Gandalf tiếp, “và tôi nóng lòng muốn biết bằng cách nào vật này lại rơi vào tay Gollum, và gã đã sở hữu nó trong bao lâu. Vì thế tôi để mắt theo dõi gã, đoán chẳng bao lâu gã sẽ ra khỏi bóng tối để truy lùng báu vật của gã. Gã đã tới thật, nhưng rồi gã trốn thoát mà không bị phát hiện. Và hỡi ôi! Tôi đã để mặc việc này, chỉ quan sát và chờ đợi, như chúng ta vẫn rất thường làm.
“Thời gian trôi đi với biết bao điều phải lo lắng, cho đến khi những nghi ngại của tôi bị đánh thức dậy lần nữa để trở thành nỗi sợ hãi thình lình. Chiếc nhẫn của người Hobbit từ đâu ra? Phải làm gì với nó, nếu lo sợ của tôi là sự thật? Những việc ấy cần được quyết định. Nhưng tôi vẫn chưa nói điều tôi kinh sợ này với ai, vì hiểu được hiểm họa của lời thổ lộ không đúng lúc, nếu nó đi chệch hướng. Trong tất cả những cuộc chiến lâu dài với tòa Tháp Tối, sự phản bội vẫn luôn là kẻ thù lớn nhất của chúng ta.
“Đó là chuyện mười bảy năm về trước. Ít lâu sau tôi nhận thấy rằng một đội quân do thám, thậm chí có cả chim lẫn thú, đã dồn về Quận, và nỗi sợ của tôi lớn dần. Tôi kêu gọi sự giúp đỡ của người Dúnedain, và họ tăng cường theo dõi nhiều hơn; tôi cũng mở lòng mình với Aragorn, người kế vị Isildur.”
“Còn tôi,” Aragorn lên tiếng, “thì bàn rằng chúng tôi cần phải săn lùng Gollum, cho dù đã có vẻ quá muộn. Và vì con cháu của Isildur cần phải cật lực sửa chữa lỗi lầm của Isildur, nên tôi đã sát cánh cùng Gandalf trong cuộc truy tìm dài đằng đẵng vô vọng này.”
Rồi Gandalf kể làm thế nào họ đã kiếm tìm suốt cả chiều dài Vùng Đất Hoang, xuống tận Dãy Núi Bóng Tối và bờ bao Đất Mordor. “Ở đó chúng tôi nghe tin đồn về gã, chúng tôi đoán gã đã ẩn nấp tại vùng đồi tối rất lâu; vậy mà chúng tôi vẫn không thể tìm ra gã, nên cuối cùng tôi đã tuyệt vọng. Và rồi trong nỗi tuyệt vọng, tôi bỗng nghĩ ra một bài thử có thể khiến cuộc truy lùng Gollum không còn cần thiết nữa. Chính chiếc nhẫn có thể tự khai nhận nó có phải Nhẫn Chúa hay không. Tôi nhớ lại những gì đã nghe được ở Hội Đồng: khi đó tôi chỉ nghe loáng thoáng lời Saruman nói. Bây giờ thì tôi nghe chúng rõ ràng trong tim tôi.
“ ‘Bộ Chín, Bộ Bảy, và Bộ Ba,’ ông ta nói, ‘đều có đính những loại đá quý riêng. Nhưng Nhẫn Chúa thì không. Nó tròn vành không hề có thêm thứ gì tô điểm, và nó cũng là một trong những chiếc nhẫn nhỏ hơn; tuy vậy kẻ chế tác đã đánh dấu lên nó, mà những kẻ thành thạo biết đâu có thể nhìn thấy và đọc được.’
“Ông ta không nói những dấu hiệu đó là gì. Vậy ai có thể biết được? Chính là kẻ đã chế tác ra nó. Thế còn Saruman? Tri thức về tích truyện của ông ta có thể rộng lớn, nhưng vẫn cần phải có nguồn. Ai đã nắm rõ trong tay ngoại trừ Sauron trước khi nó bị thất lạc? Chỉ duy nhất Isildur.
“Với suy nghĩ đó, tôi đã ngừng cuộc truy tìm và ngay lập tức đi đến Gondor. Những ngày xưa các thành viên ở hội tôi vẫn được tiếp đón nồng hậu ở đó, đặc biệt là Saruman. Ông ta đã trở thành khách thường xuyên của các Chúa thành. Thế nhưng Chúa Denethor không còn tỏ ra trọng thị tôi như trước đây, chỉ miễn cưỡng cho phép tôi được nghiên cứu những cuộn giấy và sách vở mà ông tích trữ.
“ ‘Nếu đúng là ông chỉ muốn đọc các bản ghi chú thời xưa và lịch sử hình thành của thành phố như ông nói thì xin cứ việc!’ ông ta nói. ‘Bởi đối với tôi những điều đã qua còn chẳng tăm tối bằng những gì sắp tới, mà đó là điều tôi quan tâm. Nhưng trừ phi ông tài giỏi hơn cả Saruman, người đã nghiên cứu ở đây rất lâu rồi, còn thì ông sẽ không thể tìm được điều gì đó mà tôi, người thông tuệ nhất về tích truyện ở thành phố này, chưa được biết.’
“Denethor đã nói vậy đấy. Tuy nhiên trong số sách vở của ông ta lại có rất nhiều bản ghi mà hiện nay ít người đọc được, ngay cả đối với các nhà am tường tích truyện, bởi những ký tự và ngôn ngữ thời đó đã trở nên mù mờ tối nghĩa với con người sau này. Và Boromir ạ, ở Minas Tirith vẫn còn lưu một cuộn giấy do chính Isildur viết, mà tôi nghĩ ngoài tôi với Saruman chưa ai đọc từ thời suy tàn của các vị vua. Bởi sau cuộc chiến tại Mordor, Isildur đã không hành quân đi ngay, như nhiều người vẫn kể.”
“Có thể là dân miền Bắc kể,” Boromir chen vào. “Bởi ở Gondor mọi người đều biết rằng Người đã ghé qua Minas Anor trước tiên và lưu lại đó một thời gian cùng cháu trai Meneldil, dạy bảo ngài, rồi trao cho ngài quyền cai trị Vương Quốc Nam. Trong thời gian đó, Người đã trồng chồi non cuối cùng của Cây Trắng để tưởng nhớ người em trai.”
“Cũng trong thời gian đó, ông ấy đã viết cuộn giấy này,” Gandalf nói; “và có vẻ như điều đó không được Gondor nhớ tới. Bởi cuộn giấy này liên quan đến chiếc Nhẫn, và Isuldur đã viết trong đó như sau:
Chiếc Nhẫn Báu sẽ lên đường tới làm bảo vật gia truyền của Vương Quốc Bắc; thế nhưng những ghi chép về nó sẽ để lại Gondor, nơi một phần con cháu của Elendil sinh sống, để phòng khi ký ức về những sự kiện trọng đại này trở nên phai mờ.
“Sau lời mở đầu này, Isildur đã mô tả lại chiếc Nhẫn khi ông có được nó.
Nó nóng rực khi tôi lần đầu tiên nhặt nó lên, nóng như hòn than đỏ, khiến bàn tay tôi cháy sém, đến nỗi tôi nghĩ mình sẽ chẳng bao giờ thoát ra khỏi nỗi đau đớn nó gây ra. Thế nhưng ngay khi tôi viết những dòng này, nó đã nguội đi nhiều, và có vẻ như đang nhỏ lại, cho dù hình dáng và vẻ đẹp vẫn vẹn toàn. Dòng chữ khắc trên nó, lúc đầu rõ ràng như ngọn lửa đỏ, giờ đây đã mờ dần đến nỗi khó lòng đọc được nữa. Nó được viết bằng tuồng chữ của người Tiên ở Eregion, bởi ở Mordor không hề có chữ viết thích hợp với tuyệt tác tinh xảo này; thế nhưng ngôn ngữ lại hoàn toàn xa lạ đối với tôi. Tôi đoán đó là thứ tiếng của Vùng Đất Đen, bởi nghe hết sức thô kệch và bỉ lậu. Tôi không biết nó nói những điều hắc ám gì, nhưng tôi có chép lại sau đây một bản phòng khi nó phai đi không thể nhớ lại được nữa. Có lẽ chiếc Nhẫn thiếu đi sức nóng từ bàn tay Sauron đen nhưng cháy như lửa, cũng vì thế Gil-galad đã bị tiêu diệt; cũng có thể nếu chất vàng được nung nóng những ký tự sẽ lại rõ ràng như cũ. Thế nhưng về phần mình tôi sẽ không bao giờ nỡ làm tổn thương vật này: nó là thứ đẹp đẽ duy nhất giữa mọi thứ Sauron từng làm ra. Nó là bảo bối với tôi, cho dù tôi đã phải trả cho nó một cái giá đau đớn khôn cùng.
“Cuộc truy tìm của tôi chấm dứt ngay khi tôi đọc được những dòng chữ này. Bởi những ký tự được đồ lại đó đúng như Isidur đã suy đoán, ghi bằng ngôn ngữ của Mordor và những đầy tớ Tháp Tối. Những gì nói ở đó đã được biết từ trước. Bởi vào cái ngày Sauron lần đầu xỏ chiếc Nhẫn Chúa vào tay, Celebrimbor, người chế tác ra Bộ Ba, đã nhận thấy hắn, từ xa người đã nghe được hắn nói ra những lời này, và vì thế mưu đồ độc ác của hắn bị phát giác.
“Tôi từ biệt Denethor ngay sau đó, thế nhưng khi tôi đang trên đường hướng lên phía Bắc, từ Lórien có tin cho tôi rằng Aragorn vừa đi qua con đường đó, và anh ấy đã tìm thấy sinh vật gọi là Gollum. Vì thế tôi trước hết đến gặp anh ấy, nghe anh ấy kể chuyện. Còn những nguy hiểm chết người một mình anh ấy đã phải trải qua thì tôi chẳng dám đoán định.”
“Chẳng có nhiều để kể về những hiểm nguy đó đâu,” Aragorn lên tiếng. “Nếu một người buộc phải bước vào tầm quan sát của Cánh Cổng Đen, hay giẫm chân lên đồng hoa chết chóc trong Thung Lũng Morgul, dĩ nhiên anh ta sẽ gặt hái được nguy hiểm. Cuối cùng tôi cũng đã tuyệt vọng và bắt đầu cuộc hành trình quay về nhà. Nhưng rồi may mắn sao tôi thình lình bắt gặp đúng thứ cần tìm: những vết chân mềm bên một đầm lầy. Khi đó, dấu chân vẫn còn mới và nhanh thoăn thoắt, không dẫn tới Mordor mà lại đi ra từ đó. Tôi đã men theo rìa Đầm Lầy Chết để đuổi theo vết chân, và rồi tôi đã có được gã. Lẩn trong một vũng nước đọng, nhìn chòng chọc xuống nước khi đêm tối buông xuống, tôi đã bắt gã, Gollum. Người gã phủ đầy nhớt xanh. Tôi e rằng gã sẽ chẳng bao giờ thích tôi đâu, bởi gã đã cắn trả, còn tôi thì cũng chẳng hề tỏ ra lịch sự. Thế nhưng tôi vẫn không thể moi từ miệng gã ra bất cứ điều gì ngoại trừ những vết răng. Quãng đường về là phần tồi tệ nhất trong hành trình, canh chừng gã cả ngày lẫn đêm, bắt gã đi trước đeo vòng thòng lọng quanh cổ, bịt miệng gã, cho đến khi gã phải thuần phục vì đói khát, dẫn gã tới rừng Âm U. Tôi trao gã cho người Tiên, bởi chúng tôi đã thống nhất từ trước là sẽ làm thế; và tôi cũng mừng vì được giải thoát khỏi mùi hôi thối của gã. Về phần mình, tôi không bao giờ muốn phải trông thấy gã thêm một lần nào nữa; thế nhưng Gandalf đã tới và nói chuyện với gã rất lâu.”
“Đúng vậy, lâu và mệt mỏi,” Gandalf nói, “nhưng không phải vô ích. Trước hết, câu chuyện gã kể về mất mát của gã hoàn toàn trùng hợp với những gì Bilbo vừa thành thật kể ra lần đầu tiên; nhưng cái đó không đáng kể máy, bởi tôi đã đoán được ra từ trước. Mà là lần đầu tiên tôi được biết rằng chiếc nhẫn của Gollum xuất hiện từ Sông Cả đoạn gần Đồng Diên Vĩ. Và tôi cũng được biết rằng hắn đã sở hữu nó rất lâu. Qua nhiều thế hệ so với giống loài bé nhỏ của gã. Quyền năng của chiếc nhẫn đã kéo dài tuổi thọ của gã vượt xa mức độ thông thường; mà thứ quyền năng đó chỉ có các Nhẫn Báu mới thi triển được.
“Còn nếu thế vẫn chưa đủ để chứng minh, Galdor ạ, vẫn còn bài thử tôi đã nhắc đến hồi nãy. Trên mặt chiếc nhẫn tròn vành không tô điểm mà ông đã thấy giơ lên kia, dòng chữ Isildur đã mô tả vẫn có thể đọc được, nếu ai có đủ ý chí để nung vật bằng vàng đó vào trong lửa một lúc. Tôi đã làm như vậy, và đọc được dòng chữ sau đây:
Ash nazg durbatulûk, ash nazg gimbatul, ash nazg thrakatulûk agh burzum-ishi krimpatul.”
Tất cả đều sững sờ nghe giọng thầy phù thủy đổi khác. Nó bất chợt trở nên đe dọa, hùng mạnh, và nghiệt ngã như đá. Như có bóng đêm tràn qua vầng mặt trời giữa trưa nắng; trong phút chốc, dưới mái hiên tối sầm xuống. Tất cả đều rúng động, ngay cả người Tiên cũng phải bưng tai.
“Xưa nay chưa ai dám thốt ra thứ ngôn ngữ đó tại Imladris này, Gandalf Áo Xám,” Elrond nói, khi bóng tối trôi qua và tất cả đã lại thở được.
“Và chúng ta hãy hy vọng sẽ không còn bất cứ ai nói nó ra ở đây nữa,” Gandalf trả lời. “Tuy nhiên tôi không cầu khẩn sự tha thứ của ngài, thưa Chủ Nhân Elrond. Bởi nếu không muốn thứ ngôn ngữ đó sớm vang lên ở mọi ngóc ngách miền Tây, thì tất cả hãy gạt bỏ mọi nghi ngờ bởi thực tế vật này chính là thứ Hội Đồng Thông Thái đã tuyên bố: báu vật của Kẻ Thù, chứa hết thảy tà ác của hắn và bao hàm trong nó phần lớn sức mạnh trước kia của hắn. Ngay từ Những Năm Đen Tối, Thợ Rèn thị quốc Eregion đã nghe được, và biết rằng họ đã bị phản bội:
Một Nhẫn Chúa thống trị tất cả, một Nhẫn Chúa tìm ra hết
Một Nhẫn Chúa tập hợp tất cả, trong bóng tối trói buộc hết
“Thưa các bạn, cũng cần biết là tôi còn tìm hiểu thêm được nhiều điều từ Gollum. Gã miễn cưỡng nói và những câu chuyện của gã cũng chẳng rõ ràng, nhưng không phải nghi ngờ gì nữa, gã đã tới Mordor, và ở nơi đó đã bị cưỡng bức thú nhận tất cả những gì gã biết. Chính vì vậy, Kẻ Thù giờ đã biết rằng Nhẫn Chúa đã được tìm thấy, rằng nó lưu lại ở Quận trong một thời gian dài; và vì thuộc hạ của hắn đã truy đuổi nó gần đến tận cửa nhà chúng ta, hắn sẽ sớm biết, hoặc có thể đã biết, ngay lúc này, rằng chúng ta đang giữ nó ở đây.”
Tất cả ngồi lặng một lúc lâu, cho đến k