Chương X GIỌNG NÓI CỦA SARUMAN
Họ đi qua đường hầm đổ nát rồi đứng lại trên một đống đá lớn, ngây nhìn tòa tháp đá Orthanc đen đúa với rất nhiều ô cửa sổ, vẫn còn đầy vẻ hăm dọa giữa cảnh điêu tàn khắp xung quanh. Nước lũ gần như đã rút hết. Đây đó vẫn còn đọng lại những ao nước tối tăm, phủ đầy váng và mảnh vụn; thế nhưng phần lớn bãi đất hình vòng cung khổng lồ đã lại trơ trụi, một vùng hoang vu nhớp nhúa và ngổn ngang đất đá, nham nhở những miệng hố tăm tối, và lỗ chỗ những cột kèo nghiêng ngả chỗ này chỗ kia. Nằm ở mép cái bồn vỡ nát ấy là những gò và đống dốc khổng lồ, như đá cuội bị cơn bão lớn đánh dạt lên; bên ngoài nữa là vùng thung lũng xanh và lộn xộn trải lên tận khe dài giữa hai nhánh núi tối tăm. Họ thấy một đội kỵ binh đang dò dẫm tìm đường đi qua cảnh hoang tàn; họ đang đi vào từ mặt Bắc, và đã tiến đến gần Orthanc.
“Ở đó có Gandalf, Théoden và đội quân của ông ấy!” Legolas nói. “Chúng ta hãy đến gặp họ!”
“Hãy bước đi thận trọng!” Merry nói. “Nhiều phiến đá lỏng ra có thể lật ngược và ném các anh xuống hố sâu, nếu các anh không cẩn thận.”
Họ men theo những gì còn sót lại của con đường từ cổng vào Orthanc, đi thật chậm rãi, bởi những phiến đá lát đều nứt vỡ và trơn trượt. Đội kỵ binh, thấy họ đang tiến đến, liền dừng lại dưới bóng tháp đá chờ họ. Gandalf thúc ngựa lên trước gặp họ.
“Chà, Cây Râu và tôi đã có vài cuộc trao đổi thú vị, và đã lên được một vài kế hoạch,” ông nói, “và tất cả chúng tôi đều được nghỉ ngơi đầy đủ. Giờ chúng ta lại sắp lên đường. Tôi hy vọng tất cả hội đồng hành các anh cũng đã được nghỉ ngơi, và lấy lại sức?”
“Vâng,” Merry nói. “Nhưng những cuộc trao đổi của bọn cháu đều bắt đầu và kết thúc trong khói thuốc. Tuy thế bọn cháu cũng cảm thấy bớt ác cảm với Saruman hơn trước.”
“Thật vậy sao?” Gandalf nói. “Chà, còn ta thì không. Giờ ta có một nhiệm vụ cuối cùng cần thực hiện trước khi đi: Ta phải đến chào từ biệt Saruman. Nguy hiểm, và chắc hẳn là vô ích nữa; nhưng vẫn phải được làm cho xong. Ai muốn có thể đi cùng ta - nhưng hãy cảnh giác, và đừng cợt nhả! Đây không phải lúc đùa.”
“Tôi sẽ đi,” Gimli nói. “Tôi muốn thấy hắn để xem liệu hắn có thực sự trông giống ông không.”
“Vậy làm sao anh có thể phân biệt được, cậu Người Lùn?” Gandalf nói. “Trong mắt anh Saruman có thể trông giống tôi, nếu điều đó phù hợp với mục đích của ông ta đối với anh. Liệu anh có đủ sáng suốt để nhận ra tất cả trò lừa gạt của ông ta không? Thôi thì, ta cũng cứ để xem thế nào. Ông ta có lẽ sẽ ngại ngùng không muốn hiện diện trước cùng lúc bao nhiêu cặp mắt. Nhưng tôi đã ra lệnh tất cả người Ent phải lánh mặt, nhờ vậy chúng ta may ra có cơ hội thuyết phục ông ta ra ngoài.”
“Nguy hiểm thế nào vậy?” Pippin hỏi. “Lão ta sẽ bắn chúng ta, và thối lửa ra từ cửa sổ; hay lão ta có thể niệm chú lên chúng ta từ xa?”
“Điều cuối cùng là có khả năng nhất, nếu cậu phi đến cổng nhà ông ta với một trái tim nhút nhát,” Gandalf nói. “Nhưng chẳng ai biết ông ta có thể làm được gì, hay có thể tìm cách làm gì. Chẳng hề an toàn khi tiếp cận con thú hoang đã cùng đường. Và Saruman thì có những quyền năng cậu chẳng thể đoán ra được. Hãy cảnh giác giọng nói của ông ta!”
Giờ họ đã đến được chân tòa tháp Orthanc. Nó màu đen, mặt đá lấp lánh như thể vừa bị nhúng ướt. Toàn bộ các mặt đá đều sắc cạnh như vừa mới được cắt gọt. Có vài vết xước, và ít mảnh vỡ nhỏ dài gần chân tháp, đó là tất cả dấu vết mà nó phải mang sau cơn thịnh nộ của người Ent.
Ở mặt phía Đông, tại góc giữa hai trụ đá, có một cửa vào lớn, cao so với mặt đất; phía trên là một ô cửa chớp, mở ra một ban công có những chấn song sắt chặn xung quanh. Dẫn lên ngưỡng cửa là một cầu thang gồm hai mươi bảy bậc rộng bản bằng kỹ thuật lạ lùng nào đó được đẽo ra từ cùng thứ đá đen xây tháp. Đó là lối duy nhất vào trong tháp; nhưng vẫn còn nhiều cửa sổ cao đục sâu vào những mặt tường cứ trèo lên mãi: ở nơi cao tít chúng hé nhìn như những con mắt nhỏ trên các mặt dựng đứng của bốn chiếc sừng.
Đến chân cầu thang Gandalf và nhà vua xuống ngựa. “Tôi sẽ lên đó,” Gandalf nói. “Tôi đã từng vào trong Orthanc và tôi biết mối nguy hiểm đang chờ.”
“Và tôi cũng sẽ đi lên,” nhà vua nói. “Tôi già rồi, và chẳng còn sợ nguy hiểm nào nữa. Tôi muốn được nói chuyện với kẻ thù đã gây cho tôi quá nhiều điều khổ sở. Éomer sẽ đi cùng tôi để thấy đôi chân già nua này không chùn lại.”
“Tùy ngài thôi,” Gandalf nói. “Aragorn sẽ đi cùng tôi. Cứ để những người khác chờ chúng ta dưới chân cầu thang. Họ sẽ nghe và nhìn đủ rõ, nếu có bất cứ thứ gì đáng nghe hay nhìn.”
“Không được!” Gimli nói. “Legolas và tôi muốn được nhìn gần hơn. Bọn tôi là những người duy nhất ở đây đại diện cho dòng dõi của mình. Chúng tôi cũng sẽ theo sau.”
“Vậy thì đi!” Gandalf nói, và vừa dứt lời ông đã bước lên thang, Théoden đi bên cạnh ông.
Ở hai bên cầu thang đội Kỵ Sĩ Rohan ngồi trên lưng ngựa lo lắng, họ đưa ánh mắt tăm tối nhìn lên tòa tháp khổng lồ, e sợ những điều sẽ xảy ra với đức vua của họ. Merry và Pippin ngồi trên bậc thang thấp nhất, vừa thấy bản thân hèn mọn, vừa thấy không an toàn.
“Từ đây đến cổng tận nửa dặm nhớp nhúa!” Pippin thì thầm. “Ước gì em có thể lẩn lại vào phòng gác mà không bị ai phát hiện! Bọn mình đến làm gì chứ? Có ai cần bọn mình đâu.”
Gandalf đứng trước cửa Orthanc lấy gậy đập lên đó. Nó vang lên âm thanh trống rỗng. “Saruman, Saruman!” ông hét lên bằng giọng ra lệnh sang sảng. “Saruman hãy ra đây!”
Suốt một lúc lâu không hề có tiếng trả lời. Rồi rốt cục ô cửa sổ phía trên cửa cũng được mở then, nhưng chẳng thấy bóng người nào trong khoảng miệng tối.
“Ai đó?” một giọng nói cất lên. “Ngươi muốn gì?”
Théoden rùng mình. “Tôi biết giọng nói đó,” ông nói, “và tôi nguyền rủa cái ngày tôi lần đầu nghe thấy nó.”
“Hãy đi tìm Saruman, hỡi Gríma Lưỡi Giun, bởi ngươi đã trở thành chân chạy của ông ta,” Gandalf nói. “Và đừng lãng phí thời gian của chúng ta!”
Cánh cửa sổ đóng lại. Họ chờ đợi. Đột nhiên một giọng nói khác cất lên, trầm và êm ái, chỉ nghe âm thanh cũng đã thấy quyến rũ. Hiếm người nào không đề phòng mà nghe phải giọng nói đó có thể nhắc lại những lời họ vừa nghe thấy; nhưng nếu có thể, họ sẽ hoang mang, bởi chẳng có mấy sức mạnh trong lời lẽ. Phần lớn những gì họ nhớ được chỉ là niềm vui sướng khi nghe giọng đó vang lên, tất cả những gì nó nói dường như đều thông thái và có lý, và sự đồng tình chóng vánh làm dâng lên trong họ niềm khao khát cũng được tỏ ra thông thái như vậy. Khi những người khác cất lời, tiếng họ dường như đều lỗ mãng và khó nghe tương phản với giọng kia, và nếu họ phản bác lại giọng nói kia, nỗi tức giận sẽ bừng lên trong trái tim người bị bỏ bùa. Đối với một số người thứ bùa mê này chỉ duy trì trong lúc giọng đó nói với họ, đến khi nó chuyển sang người khác thì họ mỉm cười, như người ta vẫn làm khi đã nhìn thấu được mánh khóe trò xảo thuật, trong khi người bên cạnh há miệng ngạc nhiên. Nhưng đối với rất nhiều người khác chỉ cần âm thanh của giọng nói cất lên là đã đủ khiến họ bị mê hoặc; còn đối với những ai đã bị chinh phục thì bùa chú vẫn còn duy trì ngay cả khi họ đã đi xa, và họ sẽ luôn nghe thấy giọng nói nhỏ nhẹ đó thì thầm thúc giục. Nhưng không một ai có thể thờ ơ; không một ai có thể bỏ ngoài tai những lời lẽ khẩn khoản và những mệnh lệnh của nó nếu không viện đến nỗ lực của tinh thần và ý chí, chừng nào chủ nhân giọng nói còn làm chủ nó.
“Sao nào?” giờ nó hỏi một câu nhẹ nhàng. “Tại sao các người lại làm kinh động đến sự nghỉ ngơi của ta? Các người không định cho ta chút bình yên nào cả đêm lẫn ngày sao?” Âm điệu giọng nói nghe như thể một trái tim nhân từ đang sầu não vì những tổn thương không đáng nhận.
Họ nhìn lên, đầy kinh ngạc, bởi họ không hề nghe được âm thanh nào cho thấy lão đang đến; và họ nhìn thấy một hình hài đang đứng bên tay vịn ban công, nhìn xuống họ: một lão già, trùm tấm áo choàng lớn mà chẳng ai có thể nói được màu gì, bởi sắc màu thay đổi ngay khi họ đưa mắt hoặc khi lão cử động. Khuôn mặt lão dài, vầng trán cao, đôi mắt tối trũng sâu, thật khó thăm dò, cho dù giờ đây nó nhìn đầy vẻ nghiêm nghị và nhân từ, và cả một chút mệt mỏi. Râu tóc lão trắng phau, nhưng vẫn còn nhiều sợi đen quanh môi và tai lão.
“Giống, song lại không giống,” Gimli nói khẽ.
“Nhưng mà kìa,” giọng nói nhỏ nhẹ lại cất lên. “Ta biết ít nhất hai cái tên trong số các người. Ta biết Gandalf quá rõ nên chẳng mong gì ông ta đến đây nhờ vả hay tìm lời khuyên. Nhưng ngài, Théoden Chúa đất Mark Rohan, ta nhận ra ngài qua ngọn cờ cao quý ngài mang, và hơn nửa qua gương mặt đẹp đẽ của Gia Tộc Eorl. Hỡi người con quả cảm của Thengel Ba lần danh tiếng! Tại sao ngài chưa bao giờ đến đây, với tư cách một người bạn? Ta đã mong mỏi được gặp ngài biết bao, hỡi nhà vua hùng mạnh trên những miền đất phía Tây, và đặc biệt là trong những năm gần đây, để cứu ngài khỏi những lời khuyên bảo độc ác và khờ dại đã vây lấy ngài! Song đã quá muộn rồi sao? Bất kể những điều sai quấy đã đổ xuống ta, than ôi! người Rohan đã góp phần không nhỏ, ta vẫn sẽ giúp ngài, và cứu ngài khỏi cảnh suy tàn đang đến gần không cách gì cản lại, nếu ngài vẫn tiếp tục con đường ngài đã bước lên. Thực thế, chỉ còn mình ta đủ sức trợ giúp ngài bây giờ.”
Théoden mở miệng như thể định nói điều gì, nhưng ông chẳng nói một lời. Ông nhìn lên khuôn mặt Saruman cùng cặp mắt đen uy nghiêm đang chĩa xuống ông, rồi nhìn sang Gandalf ngay bên cạnh ông; và dường như ông đang lưỡng lự. Gandalf không tỏ dấu hiệu nào; chỉ đứng im như đá, như đang nhẫn nại chờ đợi một hiệu lệnh nào đó vẫn chưa tới. Đội Kỵ Sĩ ban đầu còn xôn xao, họ rì rầm tỏ vẻ đồng tình với lời nói của Saruman; nhưng rồi họ cũng im lặng, như người bị bỏ bùa. Họ dường như nhận ra Gandalf chưa bao giờ nói chuyện khéo léo và phải lẽ với đức vua của họ đến như vậy. Giờ đây mọi cư xử của ông đối với Théoden đều có vẻ thô lỗ và kiêu ngạo. Một bóng tối trườn đến phủ lên trái tim họ, nỗi sợ hãi trước mối nguy khủng khiếp: kết cục tối tăm cho đất Mark mà Gandalf đang đẩy họ tới, trong khi Saruman đứng bên cánh cửa dẫn ra lối thoát, hé mở ra để một tia sáng chiếu vào. Một bầu im lặng nặng nề trùm xuống.
Nhưng chính Gimli người lùn là người đột nhiên phá vỡ bầu im lặng. “Lời lẽ của tên phù thủy này toàn lộn ngược đầu xuống đất thôi,” gã vừa gầm lên vừa nắm lấy cán rìu. “Theo ngôn ngữ của Orthanc giúp đỡ có nghĩa là tàn lụi, và cứu có nghĩa là giết, thật rõ ràng. Thế nhưng bọn ta đến đây không phải để cầu xin.”
“Hãy yên lặng!” Saruman nói, trong chốc lát giọng của lão bớt đi vẻ khéo léo, một tia sáng lóe lên trong mắt lão rồi vụt tắt. “Ta còn chưa nói với anh, Gimli, con trai Glóin,” lão nói. “Quê nhà của anh cách đây xa lắc, anh có bận tâm gì tới những rắc rối trên vùng đất này. Thế nhưng anh sa lầy trong đó không phải là dự kiến của anh, và vì thế ta sẽ không trách cứ vai trò mà anh đã đóng - một vai trò gan dạ không thể nghi ngờ. Nhưng ta khẩn thiết mong anh, trước tiên hãy cho phép ta nói chuyện với Vua Rohan, hàng xóm của ta, và từng là bạn của ta.
“Ngài sẽ nói gì đây, hỡi Théoden Vương? Ngài sẽ hưởng hòa bình cùng tôi chứ, và toàn bộ những hỗ trợ mà hiểu biết của tôi, đúc kết từ bao năm qua, có thể mang lại? Chúng ta sẽ cùng nhau bàn bạc để đề phòng những ngày tháng xấu xa, và chữa lành mọi thương tổn bằng thiện chí có thể khiến đất đai của cả hai chúng ta trổ hoa đẹp đẽ hơn bất cứ khi nào trước đây chứ?”
Tuy nhiên Théoden vẫn chưa trả lời. Chẳng ai biết ông đang đấu tranh cùng cơn giận dữ hay nỗi ngờ vực. Éomer đã lên tiếng.
“Thưa chúa thượng, hãy nghe thần!” anh ta nói. “Giờ chúng ta đang cảm nhận được mối nguy đã được cảnh báo trước. Chúng ta đã ra trận giành chiến thắng rốt cục chỉ để đứng ngây ngốc trước lão già dối trá cùng chiếc lưỡi chẻ bọc mật ngọt thôi sao? Nếu biết nói, con sói sập bẫy cũng sẽ nói điều tương tự với chó săn. Thật ra thì hắn có thể mang đến cho người thứ hỗ trợ gì được? Tất cả những gì hắn mong muốn chỉ là thoát khỏi cảnh khốn cùng của mình. Nhưng người định thương lượng với tên bội bạc và giết người này sao? Hãy nhớ đến Théodred tại Khúc Cạn, và ngôi mộ của Háma ở Hẻm Helm!”
“Nếu nói về miệng lưỡi độc địa thì sẽ phải nói gì về miệng lưỡi của anh đây, đồ rắn non?” Saruman nói, và nỗi tức giận vụt qua lão giờ đã dễ dàng nhận thấy. “Nhưng nào, Éomer, con trai Éomund!” lão lại tiếp tục giọng nhẹ nhàng. “Mỗi người có một vai trò. Vai trò của anh là quả cảm trong chiến tranh, và anh sẽ được vinh dự bằng cách đó. Hãy giết những kẻ mà chúa của anh coi là kẻ thù, và lấy đó làm thỏa mãn. Đừng can dự vào những chính sách mà anh không hiểu. Nhưng có lẽ, nếu chính anh trở thành một vị vua, anh sẽ nhận thấy mình cần phải lựa chọn bạn bè thận trọng. Tình bạn của Saruman và quyền năng của Orthanc không thể dễ dàng vứt bỏ, dù có thứ phẫn uất nào, có thật hay ảo tưởng, giấu mình đằng sau. Anh mới thắng một trận đánh chứ không phải cuộc chiến - với sự giúp đỡ của một thế lực mà anh chẳng thể trông đợi thêm được nữa. Có thể sau đây anh sẽ bắt gặp Bóng Tối của Khu Rừng ngay trước cửa nhà anh: nó vốn thất thường, không lý trí, và chẳng hề yêu mến Con Người.
“Nhưng hỡi vị chúa Rohan thân mến, ta đáng bị gọi là kẻ giết người, bởi những con người gan dạ đã ngã xuống ngoài chiến trường ư? Nếu ngài tham chiến, một cách không cần thiết, bởi tôi không mong muốn điều đó, thì sẽ có người bị giết. Thế nhưng nếu tôi là một kẻ giết người vì cớ đó, thì cả Gia Tộc Eorl đều bị vấy bẩn tội giết người; bởi họ đã tham gia biết bao cuộc chiến, và đã tấn công biết bao nhiêu người bất tuân theo họ. Song với một số người họ vẫn thiết lập hòa bình sau đó, mà ngoại giao chẳng bao giờ là điều tồi tệ cả. Tôi nói điều này, Théoden Vương: chúng ta sẽ sống hòa bình, sẽ trở thành bằng hữu chứ, ngài và tôi? Quyền quyết định việc này là ở chúng ta.”
“Chúng ta sẽ sống hòa bình,” rốt cục Théoden cũng lên tiếng khó nhọc và nghe không rõ. Nhiều người trong đội Kỵ Sĩ hét lên mừng rỡ. Théoden giơ tay lên. “Phải, chúng ta sẽ sống hòa bình,” giờ ông nói bằng giọng rõ ràng, “chúng ta sẽ sống hòa bình, khi ngươi và những việc làm của ngươi đều đã bị xóa sổ - và cả những việc làm của tên chủ nhân tăm tối mà ngươi muốn giao nộp bọn ta vào tay. Ngươi là một tên dối trá, Saruman, và là một kẻ làm đồi bại trái tim con người. Ngươi chìa tay cho ta, nhưng ta lại chỉ thấy được duy nhất một ngón tay với móng vuốt Mordor. Tàn bạo và lạnh lùng! Ngay cả nếu cuộc chiến ngươi nhắm vào ta là chính nghĩa - mà thực ra là không, bởi dù ngươi có thông thái gấp mười lần nữa ngươi vẫn không có quyền cai trị ta và những gì thuộc về ta vì lợi ích riêng như ngươi thèm khát - ngay cả thế, ngươi sẽ nói gì về những ngọn đuốc của ngươi ở Westfold và những đứa trẻ nằm chết ở đó? Và chúng đã băm vằm xác Háma ngay trước cổng Lũy Tù Và, sau khi anh ta đã chết. Khi nào ngươi treo cổ trên ô cửa sổ đó để mua vui cho chính lũ quạ của nhà ngươi thì ta sẽ sống hòa bình cùng ngươi và Orthanc được. Gia Tộc Eorl chịu đựng thế đủ rồi. Dù ta chỉ là một đứa con kém cỏi của những tổ tiên vĩ đại, nhưng ta không thèm liếm ngón tay của ngươi đâu. Hãy tìm chỗ nào khác đi. Nhưng ta e rằng giọng nói của ngươi đã mất đi sự mê hoặc rồi đấy.”
Đội Kỵ Sĩ ngây nhìn lên Théoden như những người vừa choàng tỉnh khỏi cơn mơ. Giọng chủ nhân vang lên trong tai họ nghe khàn như giọng quạ già sau khi vừa nghe tiếng nhạc của Saruman. Thế nhưng trong chốc lát Saruman không còn tự chủ được vì tức tối. Lão vươn người ra khỏi tay vịn như thể định lấy gậy đập nhà vua. Trước mắt một số người dường như họ đột nhiên nhìn thấy một con rắn đang cuộn mình chuẩn bị tấn công.
“Treo cổ cho lũ quạ!” lão rít lên khiến họ rùng mình vì sự thay đổi gớm ghiếc đó. “Đồ lẩm cẩm! nhà của Eorl là cái thá gì ngoài cái chuồng gia súc lợp rơm nơi bọn kẻ cướp say mèm rúc trong mùi hôi thối, và lũ con đốn mạt lăn trên sàn giữa lũ chó? Chúng đã thoát được giá treo cổ quá lâu rồi. Nhưng vòng thòng lọng đang đến đấy, nó xiết vào chậm rãi, nhưng sẽ chặt cứng vào lúc cuối cùng. Cứ treo đi nếu ngươi muốn!” Giờ thì giọng nói lại thay đổi, bởi lão lại dần dần làm chủ được bản thân. “Ta không biết tại sao mình lại đủ kiên nhẫn nói chuyện với ngươi. Bởi ta không cần ngươi, cũng chẳng cần bầy cưỡi ngựa nhỏ bé kia, những kẻ bỏ chạy cũng nhanh chẳng kém gì tiến đánh, Théoden Chúa Ngựa ạ. Ngày xưa ta đã đề nghị với ngươi một đất nước vượt quá cả phẩm chất và sự khôn ngoan của ngươi. Ta đã đề nghị lại lần nữa, để những người mà ngươi dẫn bậy có thể chọn đường sáng suốt hơn. Vậy mà ngươi đáp lại ta bằng khoác lác và chửi rủa. Cứ như vậy đi. Hãy cút về những túp lều của ngươi đi!
“Nhưng còn ngươi, Gandalf! Vì ngươi ít ra ta cũng cảm thấy đau lòng, cảm thấy xấu hổ thay. Làm sao ngươi có thể chịu đựng được lũ bạn đường đó chứ? Bởi ngươi là một kẻ cao ngạo, Gandalf ạ - và cũng không hề vô cớ, vì ngươi có trí tuệ cao thượng và đôi mắt có thể nhìn sâu xa. Đến giờ ngươi cũng không định nghe lời khuyên của ta sao?”
Gandalf cựa mình nhìn lên. “Ông còn điều gì chưa nói trong cuộc gặp gỡ lần trước của chúng ta sao?” ông hỏi. “Hay phải chăng ông có những lời muốn nuốt?”
Saruman ngừng lại. “Nuốt ư?” lão ngạc nhiên hỏi, như thể khó hiểu lắm. “Nuốt lời ư? Ta đã gắng sức khuyên bảo những điều tốt cho ngươi, vậy mà ngươi chẳng thèm đếm xỉa. Ngươi cao ngạo và chẳng thích thú gì những lời khuyên nhủ, vì quả thật đã có sẵn một kho những thông thái của riêng ngươi. Nhưng ta nghĩ vào thời điểm đó ngươi đã sai lầm vì cố tình hiểu nhầm ý định của ta. Ta e rằng vì hăm hở muốn thuyết phục ngươi, ta đã đánh mất lòng kiên nhẫn, và thực sự ta rất lấy làm hối hận. Bởi ta không có ý xấu với ngươi; và ngay lúc này đây cũng không hề có, cho dù ngươi quay lại với ta dắt theo bọn hung dữ và dốt nát. Làm sao ta nghĩ xấu cho ngươi được? Chẳng phải cả hai chúng ta đều là thành viên một hội đồng cao quý cổ xưa, và là hai kẻ ưu tú nhất Trung Địa sao? Tình bạn của chúng ta sẽ có ích cho cả hai. Chúng ta vẫn còn có thể cùng nhau đạt được nhiều điều nữa, để sửa chữa cảnh hỗn loạn trên thế giới. Chúng ta hãy hiểu lấy nhau, và gạt bỏ khỏi tâm tưởng bọn người nhỏ bé này! Cứ để chúng chờ đợi những quyết sách của chúng ta! Vì lợi ích chúng ta sẵn sàng bù đắp quá khứ, và đón nhận ngươi. Ngươi không định hội ý cùng ta ư? Ngươi không định lên đây ư?”
Quyền năng mà Saruman đưa vào nỗ lực cuối cùng này ghê gớm đến nỗi không một ai đứng trong tầm nghe mà không phải động tâm. Nhưng giờ đây sự mê hoặc lại khác hẳn. Họ nghe thấy sự quở trách nhẹ nhàng của một đấng quân vương đối với một viên tể tướng lầm lỗi nhưng vẫn được hết mực sủng ái. Thế nhưng họ lại không được vào, chỉ có thể lắng nghe ngoài cửa những lời không dành cho họ: như những đứa trẻ hư hỏng hay những đầy tớ dốt nát đang nghe lỏm những đàm đạo khó hiểu của bậc cha chú, và tự hỏi nó sẽ ảnh hưởng đến số mệnh của chúng thế nào. Hai người ấy thuộc một đẳng cấp hơn hẳn họ: đáng kính và thông thái. Không phải nghi ngờ nữa, họ sẽ liên minh. Gandalf sẽ đi lên tòa tháp, để bàn bạc những vấn đề sâu sắc vượt ra khỏi khả năng lĩnh hội của họ trong những căn phòng trên cao của Orthanc. Cánh cổng sẽ đóng lại, và họ sẽ bị bỏ lại bên ngoài, bị xua đuổi để chờ được ban việc hay hình phạt. Ngay cả trong đầu Théoden ý nghĩ cũng đã hình thành, như một màn đêm nghi ngại: “Ông ấy sẽ phản bội chúng ta; ông ấy sẽ đi - chúng ta sẽ bị bỏ rơi.”
Nhưng rồi Gandalf phá lên cười. Những tưởng tượng chợt tan biến như một làn khói.
“Saruman, Saruman!” Gandalf vẫn vừa cười vừa nói. “Saruman, ông chọn nhầm đạo lộ trong đời mất rồi. Ông lẽ ra phải làm thằng hề của nhà vua mà kiếm bánh ăn, và kiếm phẩm trật nữa, bằng cách bắt chước theo các cố vấn của người ta. Chao ôi!” ông ngừng lại, kiềm bớt cơn cười cợt. “Hiểu lấy nhau ư? Tôi sợ là tôi đã vượt ra ngoài khả năng lĩnh hội của ông. Nhưng ông, Saruman, giờ tôi đã hiểu ông quá rõ. Tôi nhớ rõ những lý lẽ và hành động của ông hơn là ông tưởng đấy. Lần trước tôi đến thăm, ông đã là cai ngục của Mordor rồi, và suýt nữa tôi đã bị giải đến đó. Không, người khách một khi đã phải trốn bằng đường mái thì sẽ phải nghĩ kỹ hơn mới quay lại bằng đường cửa chính. Không, tôi không nghĩ mình sẽ lên đó đâu. Nhưng nghe đây, Saruman, hãy nghe lần cuối cùng! ông không định xuống đây ư? Isengard đã cho thấy nó ít vững chắc hơn kỳ vọng và trí tưởng tượng của ông. Vậy có lẽ những điều khác ông vẫn tin tưởng cũng vậy. Rời bỏ chúng trong chốc lát không phải là một việc tốt sao? Để quay sang những điều mới mẻ, có thể lắm chứ? Hãy nghĩ cho kỹ, Saruman! Ông không định xuống ư?”
Một bóng đen thoáng lướt qua khuôn mặt Saruman; rồi nó trở nên trắng bệch. Trước khi lão có thể lấp liếm được, họ đã nhìn thấy được đằng sau chiếc mặt nạ là nỗi khổ não của một tâm trí hồ nghi, vừa miễn cưỡng ở lại nhưng lại sợ phải rời bỏ nơi ẩn náu. Lão lưỡng lự trong giây lát, khiến mọi người nín thở. Rồi lão lên tiếng, lần này giọng the thé và lạnh lùng. Niềm kiêu hãnh và sự thù hận đang chinh phục lão.
“Ta có xuống không?” lão nhạo báng. “Một người tay không tấc sắt có nên xuống nói chuyện với lũ kẻ cướp ngoài ngưỡng cửa không? Ta vẫn nghe rõ ngươi từ trên này. Ta không phải là thằng ngu, và ta không tin ngươi, Gandalf. Chúng không đứng công khai trên cầu thang của ta, nhưng ta biết những con quỷ rừng hoang dã đang ẩn nấp ở đâu, theo lệnh của ngươi.”
“Kẻ bội tín lúc nào cũng đa nghi,” Gandalf mệt mỏi trả lời. “Nhưng ông không cần phải lo lắng cho mạng ông. Tôi không muốn giết ông, hay gây đau đớn gì cho ông, như ông lẽ ra phải biết nếu ông thực sự hiểu tôi. Và tôi có quyền năng đủ để bảo vệ ông. Tôi cho ông một cơ hội cuối cùng. Ông có thể rời khỏi Orthanc, tự do - nếu ông chọn đường đó.”
“Nghe hay đấy,” Saruman cười khinh miệt. “Rất đúng cung cách của Gandalf Phù Thủy Xám: thật cha chú, và thật tốt bụng. Ta không nghi ngờ gì việc ngươi thấy Orthanc rất tiện nghi, còn sự ra đi của ta thì lại quá thuận tiện. Thế nhưng tại sao ta lại phải đi? Và ngươi nói ‘tự do’ là có ý gì? Ta đoán chừng là có những điều kiện nào đó?”
“Ông có thể thấy lý do đáng để ra đi ngay từ ô của sổ đó,” Gandalf trả lời. “Những điều khác sẽ nảy ra trong suy nghĩ của ông. Thuộc hạ của ông đã bị tiêu diệt và giải tán; ông đã biến hàng xóm thành kẻ thù; và ông đã lừa gạt chủ nhân mới của ông, hay đã định tâm làm vậy. Khi con mắt hắn hướng về đây, nó sẽ chuyển sang màu đỏ thịnh nộ. Còn khi tôi nói ‘tự do’ thì tôi thật sự hàm ý ‘tự do’: tự do khỏi ràng buộc, khỏi xiềng xích hay mệnh lệnh: tự do đến bất cứ đâu ông muốn, thậm chí, thậm chí là Mordor, Saruman, nếu ông mong vậy. Nhưng trước tiên ông phải nộp cho tôi Chìa Khóa Orthanc, và pháp trượng của ông. Chúng sẽ là vật thế chấp cho tư cách của ông, sẽ được trao trả sau này, nếu ông xứng đáng.”
Khuôn mặt Saruman tím lại, méo xệch vì tức giận, một tia sáng đỏ lóe lên trong mắt lão. Lão cười man dại. “Sau này!” lão kêu lên, giọng lão cao lên thành tiếng gào thét. “Sau này! Phải, ta đoán là khi ngươi cũng có luôn được Chìa Khóa của chính Barad-dûr; và vương miện của bảy vị vua, và cả pháp trượng của Năm Phù Thủy, và đã mua được cho mình đôi ủng lớn hơn nhiều lần đôi ngươi đang đi bây giờ. Một kế hoạch thật khiêm tốn. Hầu như chẳng cần đến sự giúp đỡ của ta! Ta có nhiều việc khác phải làm. Đừng có ngu xuẩn. Nếu ngươi muốn đàm phán với ta, trong khi còn có cơ hội, hãy cút đi, và quay lại đây khi nào ngươi tỉnh táo hơn! Và hãy để lại ở nhà bọn cắt cổ và lũ khố rách áo ôm đang lòng thòng sau đuôi ngươi! Chúc một ngày tốt lành!” Lão quay người đi khỏi ban công.
“Quay lại, Saruman!” Gandalf nói bằng giọng ra lệnh. Trước sự kinh ngạc của mọi người khác, Saruman lại quay người, và như thể bị kéo đi ngoài ý muốn, lão chậm rãi quay lại chỗ tay vịn sắt, tì vào đó, thở nặng nhọc. Khuôn mặt lão nhăn nhó và quắt lại. Bàn tay lão nắm chặt cây trượng đen nặng nề như bộ móng vuốt.
“Ta còn chưa cho phép ngươi đi,” Gandalf nghiêm khắc nói. “Ta vẫn chưa xong đâu. Ngươi đã trở thành một tên ngu xuẩn, Saruman, song lại đáng thương. Ngươi vẫn có thể quay lưng lại với sự điên rồ và xấu xa, và trở thành có ích. Thế nhưng ngươi đã quyết định ở lại mà gặm nhấm sự kết thúc của mưu đồ cũ kỹ. Vậy thì cứ việc ở lại! Thế nhưng ta cảnh cáo ngươi, ngươi sẽ không thoát ra dễ dàng nữa đâu. Trừ khi những bàn tay đen tối từ phương Đông vươn ra tóm lấy ngươi. Saruman!” ông thét, giọng ông vang lên đầy sức mạnh và uy quyền. “Hãy xem đây, ta không phải Gandalf Phù Thủy Xám, người đã bị ngươi phản bội. Ta là Gandalf Phù Thủy Trắng, người đã trở lại từ cái chết. Giờ ngươi không còn màu nữa, và ta phế truất ngươi khỏi hội Phù Thủy và Hội Đồng Thông Thái.”
Ông giơ tay, nói chậm rãi bằng một giọng rõ ràng và lạnh lùng. “Saruman, cây trượng của ngươi đã vỡ.” Nghe tiếng rắc lớn, cây trượng tách ra thành nhiều mảnh ngay trên tay Saruman, đầu gậy rơi xuống chân Gandalf. “Đi đi!” Gandalf nói. Thét lên một tiếng Saruman ngã nhào về phía sau rồi bò đi. Đúng lúc đó một vật nặng nề chói sáng từ phía trên rơi xuống. Nó nảy khỏi tay vịn sắt, ngay khi Saruman bỏ đi, và phóng xuống ngay sát đầu Gandalf, đập xuống cầu thang nơi ông đang đứng. Tay vịn kêu vang rồi gãy rời. Cầu thang nứt toác, tóe ra những tia lửa lấp lánh. Nhưng khối cầu vẫn nguyên vẹn: nó lăn xuống theo những bậc thang, một khối cầu thạch anh, màu tối, nhưng lại bừng lên với một trái tim lửa. Pippin chạy theo sau và kịp nhặt lên trước khi nó lăn xuống một vũng nước.
“Tên xỏ lá sát nhân!” Éomer hét lên. Nhưng Gandalf vẫn thản nhiên. “Không, thứ đó không phải do Saruman ném,” ông nói, “tôi nghĩ thậm chí còn không phải do lệnh hắn. Nó rơi xuống từ một cửa sổ cao tít phía trên. Tôi cho rằng đó là cú ném giã biệt của cậu Lưỡi Giun, nhưng đã bị ngắm trượt.”
“Có lẽ ngắm kém là do hắn không xác định được mình ghét ai hơn, ông hay Saruman,” Aragorn nói.
“Cõ lẽ vậy,” Gandalf nói. “Hai tên đó làm bầu bạn với nhau chắc chẳng lấy gì làm thoải mái: chúng sẽ gặm nhấm nhau bằng lời lẽ. Nhưng đòn trừng phạt là xác đáng. Nếu Lưỡi Giun còn sống mà ra khỏi Orthanc, là hắn đã nhận được nhiều hơn những gì hắn xứng đáng rồi.
“Đây rồi, chàng trai, để ta cầm nó! Ta chẳng yêu cầu cậu đụng đến nó,” ông hét lên, quay ngoắt lại khi thấy Pippin đang bước lên thang, đi chậm chạp, như thể đang mang theo thứ gì đó nặng nề lắm. Ông đi xuống gặp cậu và vội vàng đón lấy khối cầu tăm tối từ tay chàng Hobbit, gói vào những nếp gấp áo choàng. “Ta sẽ chăm sóc thứ này,” ông nói. “Ta đoán nó không phải thứ Saruman muốn ném đi.”
“Nhưng có thể hắn vẫn còn những thứ khác để ném đấy,” Gimli nói. “Nếu cuộc tranh luận đến đây là chấm dứt, thì ít ra chúng ta hãy đi khỏi tầm ném đá!”
“Đã chấm dứt rồi,” Gandalf nói. “Chúng ta đi thôi.”
Họ quay lưng lại cửa tháp Orthanc, rồi đi xuống. Đội kỵ binh vui mừng hoan hô nhà vua, và chào mừng Gandalf. Bùa chú của Saruman đã hết hiệu nghiệm: họ đã nhìn thấy hắn bị ra lệnh phải quay lại, và phải bò đi khi bị đuổi.
“Vậy là xong,” Gandalf nói. “Giờ tôi phải tìm Cây Râu cho ông ấy biết mọi việc đã tiến triển thế nào.”
“Chắc ông ấy phải đoán được chứ?” Merry nói. “Sự việc còn có khả năng kết thúc theo bất cứ cách nào khác không?”
“Không mấy khả năng,” Gandalf trả lời, “dù chúng đã rơi vào một tình huống ngàn cân treo sợi tóc. Thế nhưng ta vẫn có lý do thử làm điều đó; khoan dung có và ít khoan dung hơn cũng có. Truớc tiên Saruman đã được cho thấy rằng quyền năng giọng nói của hắn đã yếu đi. Hắn không thể vừa là bạo chúa vừa là cố vấn. Khi âm mưu đã chín muồi nó không thể là bí mật lâu mãi. Song hắn đã rơi vào bẫy, và cố thỏa thuận với các nạn nhân từng người một, trong khi những người khác lắng nghe. Rồi ta đã cho hắn một lựa chọn cuối cùng và cũng là một lựa chọn công bằng: từ bỏ cả Mordor lẫn những âm mưu riêng của hắn, và chuộc lỗi bằng cách giúp đỡ chúng ta trong lúc cần thiết. Hắn biết chúng ta cần gì, chẳng ai có thể biết rõ hơn. Lẽ ra hắn đã có thể đem lại sự hỗ trợ lớn lao. Thế nhưng hắn đã quyết định từ chối, và giữ lấy quyền lực ở Orthanc. Hắn không tuân lệnh ai hết, chỉ ra lệnh thôi. Giờ hắn phải sống trong sự kinh hoàng với bóng đêm Mordor, song vẫn mơ tưởng đến việc thoát ra lành lặn. Gã ngu xuẩn bất hạnh! Hắn sẽ bị nuốt chửng, nếu quyền lực phương Đông vươn tay đến tận Isengard. Chúng ta thì không thể tiêu diệt Orthanc từ bên ngoài, nhưng Sauron - ai biết hắn có thể làm được những gì?”
“Nhưng nếu Sauron không khuất phục được thì sao? Ông sẽ làm gì lão?” Pippin hỏi.
“Ta ư? Chẳng gì cả!” Gandalf nói. “Ta sẽ chẳng làm gì hắn hết. Ta chẳng thích chế ngự. Rồi hắn sẽ thế nào? Ta chẳng thể nói được. Ta đau lòng vì biết bao thứ tốt đẹp giờ đang thối rữa trong tòa tháp đó. Tuy nhiên đối với chúng ta mọi thứ đã diễn ra không đến nỗi tệ. Vận mệnh đã thay đổi thật kỳ lạ! Thù hận thường gây hại cho chính nó! Ta đoán rằng, ngay cả nếu có vào đó, chúng ta cũng chẳng tìm thấy báu vật nào bên trong Orthanc quý giá hơn thứ Lưỡi Giun đã ném xuống chúng ta.”
Một tiếng rít the thé cất lên, rồi bất chợt ngưng bặt, từ một ô cửa sổ mở trên cao.
“Có vẻ như Saruman cũng nghĩ vậy,” Gandalf nói. “Chúng ta rời khỏi chúng thôi!”
Giờ họ quay lại cái cổng đổ nát. Họ còn chưa kịp vượt ra ngoài cổng vòm, thì từ trong bóng tối của những đống đá nơi họ đứng lúc nãy, Cây Râu cùng một tá người Ent khác bước tới. Aragorn, Gimli và Legolas kinh ngạc ngây ra nhìn họ.
“Đây là ba trong số những bạn đồng hành của tôi, Cây Râu,” Gandalf nói. “Tôi đã nói về họ, nhưng ông vẫn chưa gặp họ.” Ông giới thiệu tên từng người.
Người Ent Già nhìn họ thật lâu và dò xét, và lần lượt hỏi chuyện họ. Cuối cùng ông ta quay sang Legolas. “Vậy là anh đã đi mãi từ rừng Âm U đến đây, phải không chàng Tiên tốt bụng của ta? Nó từng là một khu rừng rất tuyệt!”
“Và vẫn còn như vậy,” Legolas nói. “Nhưng không quá tuyệt đến mức chúng tôi, những người sinh sống ở đó, lại không còn hứng thú ngắm nhìn những cây cối khác. Tôi thiết tha muốn được du ngoạn qua Khu Rừng của Fangorn. Tôi mới chỉ vừa bước qua hiên rừng ấy đã chẳng hề muốn quay ra.”
Đôi mắt Cây Râu ánh lên vẻ hài lòng. “Ta hy vọng anh sẽ thực hiện được mong muốn đó, trước khi dãy đồi kịp già cỗi hơn,” ông ta nói.
“Tôi sẽ đến, nếu vận mệnh tốt đẹp,” Legolas nói. “Tôi đã thỏa thuận với bạn tôi rằng, nếu tất cả đều ổn thỏa, chúng tôi sẽ cùng nhau đến Fangorn - nếu được ông cho phép.”
“Bất cứ người Tiên nào đi cùng anh cũng đều được chào đón,” Cây Râu nói.
“Người bạn tôi nói tới không phải là một người Tiên,” Legolas nói. “Ý tôi là Gimli, con trai Glóin đây.” Gimli cúi thấp người, cây rìu trượt khỏi thắt lưng gã rơi loảng xoảng xuống đất.
“Hoom, hm! À ra vậy,” Cây Râu nói, đôi mắt đen chằm chằm nhìn gã. “Một gã lùn và lại cầm rìu! Hoom! Ta có thiện chí với người Tiên; nhưng anh đòi hỏi nhiều quá đấy. Đây là một tình bạn kỳ lạ!”
“Trông thì có vẻ lạ,” Legolas nói, “nhưng chừng nào Gimli còn sống thì tôi không đến Fangorn một mình đâu. Rìu của anh ấy không dùng cho cây cối, mà cho cổ Orc, hỡi Fangorn, Chủ Nhân của Khu Rừng Fangorn. Anh ấy đã đốn được bốn mươi hai tên trong trận chiến.”
“Hoo! Thế nào!” Cây Râu nói. “Câu chuyện hay hơn rồi đấy! Chà, chà, mọi việc sẽ đi theo ý muốn của chúng; và không cần thiết phải vội vã đối mặt với chúng ngay. Nhưng giờ chúng ta phải chia tay một thời gian. Đã dần đến cuối ngày rồi, mà Gandalf nói các anh phải đi trước khi trời tối, còn Chúa đất Mark thì sốt ruột muốn về nhà của mình.”
“Phải, chúng tôi phải đi, và phải đi bây giờ,” Gandalf nói. “Tôi sợ rằng sẽ phải đem đi cả lính gác cổng của ông. Thế nhưng ông sẽ xoay xở tốt mà không cần đến họ.”
“Có lẽ vậy,” Cây Râu nói. “Nhưng tôi sẽ nhớ họ. Bọn tôi đã trở thành bạn bè trong quãng thời gian ngắn đến nỗi tôi nghĩ mình bắt đầu mắc chứng vội vã rồi - có lẽ là quay ngược về lại tuổi trẻ. Thế nhưng họ là thứ mới mẻ đầu tiên dưới ánh Mặt Trời hoặc Mặt Trăng mà tôi thấy được sau những ngày tháng dài đằng đẵng. Tôi sẽ không quên họ đâu. Tôi đã đưa tên họ vào Danh Sách Dài. Người Ent sẽ nhớ điều đó.
Ent từ đất nở, già như núi đồi,
bước chân rất dài, uống nước rất thích;
Hobbit trẻ nít, ham nhất là ăn,
vóc thì nhỏ xinh, cười thì khanh khách,
họ sẽ còn là bạn chừng nào lá cây còn trổ. Xin từ biệt! Nhưng nếu các cháu nghe được tin tức gì ở vùng đất êm đềm của các cháu, ở Quận, hãy nhắn cho ta! Các cháu hiểu ý ta rồi đấy: tin tức hay dấu vết gì của Ent phụ. Hãy tự đến nếu các cháu có thể!”
“Bọn cháu nhớ rồi!” Merry và Pippin đồng thanh nói, rồi họ vội vã quay đi. Cây Râu nhìn theo họ và vừa im lặng một lúc vừa lắc đầu trầm tư. Rồi ông ta quay về phía Gandalf.
“Vậy Saruman không chịu đi sao?” ông ta nói. “Tôi không nghĩ hắn sẽ đi. Tim hắn mục ruỗng như tim một gã Huorn đen. Tuy nhiến nếu tôi bị đánh bại và tất cả cây cối của tôi bị đốn hạ tôi cũng sẽ không đi chừng nào vẫn còn một cái lỗ tăm tối để trốn.”
“Không,” Gandalf nói. “Nhưng ông chưa từng âm mưu bao phủ cả thế giới bằng cây cối của ông và bóp nghẹt tất cả những vật sống khác. Còn ở kia, Saruman vẫn tiếp tục nuôi dưỡng lòng thù hận và lại dệt nên những tấm lưới hắn còn đủ sức dệt. Hắn giữ Chìa Khóa Orthanc. Nhưng không được để hắn trốn thoát.”
“Dĩ nhiên là không! Người Ent sẽ đảm nhận việc đó,” Cây Râu nói. “Saruman sẽ không đặt chân ra ngoài tháp đá mà không được sự cho phép của tôi. Người Ent sẽ canh chừng hắn.”
“Tốt rồi!” Gandalf nói. “Đó là những gì tôi hy vọng. Giờ tôi có thể đi và chuyển sang những công chuyện khác, bớt đi được một nỗi lo. Nhưng ông cần phải thận trọng. Nước đã rút rồi. Tôi sợ là đặt lính canh xung quanh tòa tháp cũng chưa đủ đâu. Tôi không nghi ngờ rằng có những lối đi sâu được đào bên dưới Orthanc, và rằng Saruman hy vọng chẳng mấy chốc sẽ có thể đi và đến mà không bị để ý thấy. Nếu ông đảm nhận công việc, tôi xin ông lại để nước tràn vào; và cứ như vậy đến chừng nào Isengard trở thành một ao nước tĩnh, hoặc ông phát hiện ra những lối thoát. Khi toàn bộ những khu vực ngầm đã ngập nước và những lối thoát bị bịt kín, thì Saruman sẽ buộc phải ở trên tháp cao mà nhìn ra ngoài cửa sổ.”
“Cứ tin vào người Ent!” Cây Râu nói. “Chúng tôi sẽ tìm kiếm từ đầu đến chân thung lũng và lật từng viên sỏi. Cây cối sẽ quay lại sinh sống ở đây, những cây già, những cây hoang. Chúng tôi sẽ gọi nó là Rừng Canh. Sẽ không một con sóc nào đến được đây mà tôi không biết. Cứ tin vào người Ent! Chừng nào bảy lần quãng thời gian hắn hành hạ chúng tôi còn chưa trôi qua, chừng đó chúng tôi còn không ngơi canh chừng hắn.”