← Quay lại trang sách

Tính Chuyện Làm Ăn

BỊ BẠN BÈ DỒN ÉP QUÁ MỨC, hắn mới nâng ly rượu lên uống cạn và sửa soạn đứng dậy. Thực tình hắn đã say mèm. Chiếc cà-vạt đã được nới ra khiến hắn có cái vẻ sộc lệch đến độ đàng điếm. Nhưng hắn bất cần. Năm nay hắn đã ngót ngoét ba chục tuổi đầu rồi. Gần hết mái tóc màu hung hung của hắn đã chuyển sang màu muối tiêu. Tại hắn xấu máu một phần, và tại hắn ưu tư quá sớm nữa. Ưu tư thì nói cho ngay chả đứa nào ở vào cái lứa tuổi hắn, hay trên lứa tuổi của hắn, và cả dưới lứa tuổi của hắn, tóm lại là những người xung quanh hắn, lại không ưu tư cả. Nhưng đặc biệt trong đám bạn bè, dường như hắn tỏ ra ưu tư nhiều hơn cả. Người hắn nhỏ nhắn, mặt xương xương lại choắt nữa, và hắn với cái hoàn cảnh đã cấu tạo ra hắn đã khiến hắn có những lời lẽ bi quan yếm thế, nên bạn bè phong cho hắn cái biệt hiệu Thuấn Gàn. Và vì thấy rằng bi quan yếm thế mãi cũng chẳng dẫn tới đâu cả, hay đúng hơn nỗi bi quan yếm thế của hắn đã đạt đến cực độ khiến hắn sinh ra giễu cợt, châm biếm cay đắng, do đó hắn lại có thêm cái biệt hiệu Thuấn Hạt Tiêu - nhưng có vài đứa độc miệng, gọi hắn là Thuấn...Ớt Chỉ-thiên, dường như cũng để ám chỉ cái phần bộ nhỏ nhắn đến độ xinh xắn trên thân thể hắn nữa.

Nhưng dù là Thuấn Gàn, hay Thuấn Hạt Tiêu hay gì gì đi chăng nữa, thì cũng phải nhận rằng hắn không phải là đứa có ác tâm bao giờ. Trái lại, hắn là một người dễ mến, nói chuyện khá có duyên - đôi khi hơi quá lố trong cách thức pha trò, - tính tình thẳng thắn đến độ thực thà, song cũng nặng mặc cảm thua sút thiên hạ nên dễ sinh ra nghĩ ngợi xa xôi.

Quả thực thì hôm naỵ hắn không muốn đứng dậy kể chuyện tiếu lâm tị nào. Cái lý do đơn giản là hắn say, mà lại say giữa một tiệc cưới, thì hắn chỉ muốn ôm mặt khóc, khóc cho cái nỗi côi cút của mình. Thường những lúc ban ngày ban mặt, đương khi hứng khởi với chúng bạn, hắn vẫn ca tụng sự tự do của nếp sống độc thân. Đó là những lúc hắn cứng cỏi, hắn yêu đời, hắn yêu người. Còn những đêm khuya khoắt, những lúc chán nản, bị bạn bè chơi gác hay phản bội, lừa gạt, hắn nghĩ đến một người đàn bà gọi-là-vợ-mình, một người không bao giờ có thể phản bội được mình... Nhưng cuộc sống mỗi ngày một đắt đỏ, lương lính của hắn thì cố định, chỉ đủ tiền mua thuốc lá và ăn quà sáng, uống bia lai rai, đến cơm ăn hằng bữa cũng phải về ăn boóng cha mẹ, và đến cái giường cũng phải nằm nhờ mấy cô em, (nếu chúng nó cần nằm thì hắn lại trải chiếu xuống đất nằm đỡ vậy), thì thử hỏi làm sao hắn có thể cưu mang nổi một cô vợ bây giờ? Lại còn con cái nữa? Chẳng lẽ đừng sinh đẻ gì?

Những ý nghĩ ấy lại trở lại với hắn trong đám tiệc cưới hôm naỵ, mãnh liệt hơn bất cứ lúc nào hết bởi vì chúng nằm trong cái phản ứng chua xót đối với nỗi thèm khát được ôm ấp một người đàn bà hoàn toàn thuộc quyền sở hữu của mình thay vì những cô gái điếm mà hắn thường chỉ tìm đến để giải quyết mà thôi. Hắn càng tưởng tượng đến sự nồng ấm của một cuộc sống có đôi có lứa bao nhiêu, hắn càng cảm thấy chua xót cay đắng cho nỗi đơn độc của mình bấy nhiêu. Cùng với men rượu đang ngấm dần vào các mạch máu, những cảm nghĩ của hắn sắp hóa thành niềm cảm xúc dâng lên đọng lại trong mấy hạch nước mắt thì có tiếng người gọi tên hắn:

- Ê, Thuấn Gàn! Mày trúng mối rồi!

Hắn gượng lại và đảo mắt nhìn quanh bàn tiệc đang ồn ào tràn ngập những tiếng cười nói vỗ tay. Thì ra, họ vừa dốc những giọt rượu cuối cùng ra khỏi cái chai rượu, rồi đặt cái chai không vào giữa bàn, và một người búng cho cái chai xoay tròn cho đến khi cái chai ngừng lại, đầu chai trỏ trúng người nào thì người ấy phải đứng lên kể một câu chuyện vui, càng tiếu lâm càng hay ; để rồi sau đó sẽ được cô dâu tặng cho một cái hôn lên má.

Thuấn ngất ngưởng đứng dậy, lưỡi đã líu như bị ai cắt mất, giọng nói lè nhè sai bét như người ngọng. Hắn bị lôi cuốn vào cái vui chung của mọi người. Và hắn ra cái điều trịnh trọng:

- Thưa cô dâu chú rể, thưa quí vị quan viên hai họ....Luật đã đặt ra thì người quân nhân phải thi hành. Nhưng tôi xin có lời thưa trước cùng quí vị quan viên hai họ, là tôi chỉ biết kể chuyện tục thôi đấy ạ. Vậy quí vị họ nhà gái có mặt ở đây, nghe xong, xin bỏ qua cho thì tôi mới dám vào đề ạ...

Nhiều tiếng vỗ tay bốp bốp nổi lên hòa với những tiếng la cổ võ. Có những khuôn mặt đã hồng hào lại đỏ thêm, cúi gằm xuống hay nghiêng vào với nhau nhỏ nhỏ to to và tủm tỉm cười.

Thuấn hai tay nắm lấy nhau giơ cao tỏ ý cảm tạ, rồi ngất ngưởng tiếp:

- Xin cảm tạ. Xin cảm tạ. Bây giờ tôi xin vào đề...

Mắt Thuấn hơi liếc về phía mấy cô phù dâu trong đó có Hảo, em gái cô dâu mà Bằng, chú rể, đã nói nhỏ sẽ giới thiệu cho hắn. Hắn đã nghĩ thầm: “ Cũng chỉ để mà biết vậy thôi, chứ nước nôi mẹ gì đâu. Mình không còn đủ sức tin vào cái gì cả... Chỉ được cái mồm miệng đỡ tay chân vầy vậy thôi! Thời buổi này... ” Hảo trạc độ mười sáu mười bẩy, sắc đẹp vừa phải, thân hình cân đối, còn đang đi học. Bẳng bảo: “ Cứ kể ra, “ dấm ” thì cũng vừa, mày! ” Thuấn ngao ngán: “Cũng chẳng vừa đâu. Con gái nó lớn như thổi ấy. Tao sợ khéo không tao phải “dín ” cái con em út của vợ mày, cái con nhỏ thân hình còn thẳng đuột kia kìa, mới vừa! ”. Bằng thụi một quả vào vai bạn:“Nếu thế, chi bằng mày đợi vợ tao đẻ con gái đi rồi xin làm rể tao, có phải hơn không?!” Thuấn nhăn răng ra cười hì hì: “ Tao còn đang do dự, chưa dám nói, đấy thôi! Không dè được mầy khai thông trước cho, đỡ quá! Vậy từ đây tao xin gọi mày là nhạc gia, nhé! ” Tuy vậy, Thuấn cũng tìm cho bằng được đôi mắt của Hảo trước khi vào đề câu chuyện:

- Có hai vợ chồng mới cưới....

Có một vài tiếng lèm bèm của bọn dàn ông:

- Biết rồi! Khổ lắm, nói mãi... ãi...

Nhưng Thuấn không cần để ý. Rượu làm hắn hăng. Hắn kể mà cũng chẳng biết mình kể gì. Lưỡi hắn líu lại. Và rồi hắn kể xong câu chuyện. Mặt hắn đỏ gay. Hắn cảm thấy da mặt mình căng thẳng. Mặc dù đã nghe kể về chuyện này rồi, nhưng vì đang lúc bốc bởi có rượu và vì câu chuyện vẫn có thể làm cho người nghe bật cười hay tủm tỉm một mình mỗi khi nghe hay nghĩ tới, nên bọn đàn ông con trai phát lên cười rầm rầm ngả nghiêng làm những cái ly trên bàn va vào nhau kêu lanh canh ; trong khi bọn con gái mặt đỏ nhừ hay ngơ ngác không hiểu vì trừ cô dâu lên mười tám ra, tất cả đều chỉ độ mười lăm, mười sáu hay mười bẩy tuổi là cùng. Tiếng cười ở bàn cô dâu chú rể vọng đến các bàn xung quanh gồm những ông bà đứng tuổi hoặc đã già cả thuộc vai vế cha chú của cô dâu chú rể. Họ đều quay lại nhìn bàn bọn trẻ với cái nhìn bao dung. Một vài người nhận xét:

- Lính tráng có khác! Đi đến đâu là ồn ào đến đấỵ!

- Dễ thường trong bọn chỉ có mình thằng Bằng lấy vợ?

- Lính tráng mà lại độc thân nữa thì quỉ, ma và học trò cũng phải đành chịu thua nhường chức vô địch!...

Ở bàn bên này, Thuấn cười đến rung cả người, quên cả liếc nhìn Hảo. Có một lúc hắn ngậm miệng lại cố nín cười - dường như hắn cười vì một lý do khác hơn là vì câu chuyện tiếu lâm do chính hắn vừa kể - và lưỡi hắn chợt cảm thấy một vị mằn mặn, ươn ướt...

Thuấn là đứa con thứ sáu trong một gia đình có trên dưới khoảng gần một tá anh chị em tương đối đủ ăn, nhưng không lấy gì làm dư đã lắm. Ông bà cụ thân sinh ra anh em Tuấn đã có tuổi. Dường như sau khi lo vợ lo chồng cho năm đứa con lớn rồi, ông bà đã cảm thấy mệt mỏi kiệt quệ, không còn hơi sức nào mà lo cho những đứa còn lại nữa, đành bỏ mặc. Lẽ thường, những người anh người chị, sau khi đã yên phận mình, thì phải thay bố mẹ lo chuyện gia đình cho các em còn nhỏ. Nhưng cuộc sống mỗi ngày một chật vật, một đắt dỏ. Chính các anh chị Thuấn lo chạy ăn chạy mặc cho con cái họ còn chưa xong, nói chi đến việc lo cho các em. Vả lại, chính họ cũng không hiểu được thực sự bọn trẻ như Thuấn bây giờ muốn gì để mà lo giùm cho nữa. Những lúc mấy anh em trai ngật ngưỡng ngồi uống rượu với nhau (việc này rất hiếm khi xảy ra, vì mặc dù cũng thuộc một thế hệ, nhưng người anh lớn của Thuấn lại hơn Thuấn tới hai lần tuổi, nên rút cục vẫn có sự khác biệt trong vấn đề thông cảm), khi thì Thuấn kêu sống tự do không ràng buộc vợ con là sướng ; khi thì Thuấn than muốn lấy vợ mà không có tiền hay không đủ sức nuôi vợ với số lương lính. Thật chẳng biết thế nào mà bắt mạch bọn trẻ như Thuấn cả thì làm sao mà dám giới thiệu ai cho bây giờ. Đành theo câu “ anh em kiến giả nhất phận ” vậy. Vả lại, gia đình Thuấn tuy anh em đông, mà mỗi người vẫn có thói quen sống lấy cuộc sống của mình, mạnh ai người nấy lo. Từ ngày thôi học, nhập ngũ và trong suốt thời gian nằm ở quân trường, cái liên hệ duy nhất của Thuấn với gia đình là những lá thư gửi về nhà xin tiền tiêu và những cái măng-đa con con ở nhà gửi ra cho Thuấn. Từ ngày xin được về Sài-gòn làm, với số lương chỉ đủ ăn sáng và mua thuốc lá, Thuấn đành về nhà ăn cơm chực và ngủ nhờ. Đã bao phen tính chuyện kiếm ăn thêm để có thêm chút tiền, mà rồi rút cục đâu vẫn hoàn đấy. Muốn làm gì thì cũng phải có vốn. Thuấn đào đâu ra vốn bây giờ. Sự túng quẫn làm Thuấn đôi khi có những ý tưởng không coi đạo đức vào đâu cả. Như có một dạo Thuấn đành cam tâm cặp kè với một cô vũ nữ già xoay ra nghề dạy khiêu vũ. Về sau, cô tình nhân già này dở chứng ghen quá mức khiến Thuấn chạỵ luôn, nghĩ rằng mình không có duyên với cái nghề đào mỏ mấy bà sồn sồn kiểu như anh chồng người Ý trong phim “Mùa Xuân của Bà Stone”. Không thể trách Thuấn đã tính đến chuyện làm ăn theo kiểu xi-nê sau dăm ba lần trượt cái tú tài phần một đến phải đi lính. Và Thuấn lại trở về với cuộc sống ngày hai buổi đi làm về nhà ăn chực. Mỗi ngày Thuấn trở thành bạt mạng thêm, ăn nói bi quan và coi cuôc sống không có một giá trị tinh thần nào đáng kể - cái cuộc sống mà thang giá trị đang bị đảo lộn bởi vật chất, bởi tiền bạc, danh vọng. Thuấn có quan niệm rất đơn giản: trong một xã hội đảo điên như vậy, nếu phải làm bất cứ một việc gì để có tiền, hắn cũng không từ. Hắn đã không từ làm một thử “ đàn ông được bao ”, thì hắn cũng chẳng từ làm bất cứ cái gì khác, miễn là ra tiền. Dù trong thâm tâm hắn vẫn còn le lói cái ý thức ngay thẳng chân thực, chưa đến nỗi ăn không của ai, lường gạt ai bao giờ.

Từ ngày trại hắn xảy ra cái tình trạng cắm trại trăm phần trăm đến giờ, những buổi tối không biết làm gì, người ta tụ tập nhau lại sát phạt tơi bời. Lẽ cố nhiên, không tiền, hắn chỉ biết chầu rìa. Nhưng xung quanh hắn có những tên có tiền mà vẫn chầu rìa, để xem có anh nào cháy túi thì cho mượn tiền dưới hình thức cầm đồ. Đồ cầm đây có thể là sợi dây chuyền, đồng hồ, bộ đồ mồi, giầy, xe gắn máy, xe hơi, và thậm chí cả đến những cái giấy chứng chỉ tại ngũ, thẻ lương v.v... Tóm lại, cái gì có thể cầm được là họ cầm với một cái giá nào đó tùy theo giá trị của món đồ và nhu cầu gỡ gạc của đương sự.

Thuấn không tiền chầu rìa, thoạt đầu chia bài để lấy xâu ; sau hắn lân la tìm hiểu về nghề cầm đồ. Và hắn nghĩ chỉ còn có một cách, với đôi chút hy vọng mong manh... Hắn nghĩ “ Chỉ có nước liều về dỗ dành bà cụ đứng ra vay tiền giùm... Chứ như thế này đến bao giờ mới khá dược?! Bảo đợi hết chiến tranh giải ngũ về xoay sở làm ăn, biết đến bao giờ chiến tranh mới hết cho mà đợi?! ” Tuy vậy, Thuấn cũng thấy khó khăn lắm. Bà cụ đã đứng ra vay tiền cho một lần để mua cái xe Honda đi làm, nợ cũ chưa trả xong thì xe bị mất. Chẳng biết lần nầy...

Bà Cả Đương vừa bỏm bẻm nhai trầu, vừa nói:

- Thôi đi cậu! Nợ cũ của cậu còn kia, đã trả hết đâu, mà cậu lại còn nhờ tôi đứng ra vay hộ nữa!? Có mà mặt dày mặt thớt...

Tuy nói vậy, nhưng bà Cả cũng lấy làm đau đớn lắm. Bà biết mình còn sống đấy mà không lo cho con thì quả là một cái tội. Bà thương cho lũ con còn lại, mà chẳng biết làm sao. Cũng chỉ tại chồng bà ích kỷ, hà tiện và có máu mê cờ bạc mới nên nỗi. Nghĩ đến đó, bà bỗng ứa nước mắt ra. Bà nói:

- Chồng đã vậy, con lại cũng chẳng ra gì nốt. Tao nghĩ nhiều lúc muốn đi tu hay chết quách đi cho rồi. Hôm bán cái nhà để trả nợ cho bố mày, còn được mấy trăm ngàn đưa cho thằng anh cả của mày nó đem buôn bán làm ăn, định để kiếm lấy tí lời hằng tháng mà thuốc thang, rồi khi chết thì có tiền đó mà ma chay. Ngờ đâu, lời đâu chẳng thấy lại mất mẹ nó cả vốn. Thế này rồi đến khi tao chết chắc đến bó chiếu mất. Rồi thằng anh thứ của mày lại còn phàn nàn sao tao không chia gia tài cho nó... Bây giờ đến mày nữa!

Thuấn ngồi đực mặt ra, bực bội. Vì lần này không biết là lần thứ bao nhiêu rồi hắn phải nghe câu chuyện của mẹ. Tuy nói là nói vậy thôi, chứ bà Cả chẳng bao giờ oán giận các con được lâu. Những lúc có dịp kể lể, bà vẫn kể lể cho vợi sầu đau vậy thôi.

- Tưởng đâu đẻ con trai cho nhiều thì được nhờ vả. Rút cục, lại còn bị ăn đẽo nữa! Khổ không hả trời?!

Bà Cả ngồi sụt sịt khóc. Thuấn phát bực:

- Bây giờ còn trời đâu ra nữa mà mẹ cứ gọi trời! Có trời thì đâu cuộc đời có đảo diên như thế này! Bây giờ chỉ có người với người với nhau thôi. Nhanh tay thì vơ vào. Không nhanh tay thì thiệt. Mẹ vay hộ con lần này nữa thôi.

Rồi Thuấn kể về cách thức làm ăn bằng nghề cầm đồ lưu động cho mẹ nghe. Bà Cả đã thôi không khóc nữa, cứ ngồi ngẩn ra mà nghe. Bà đã thấy ngườỉ ta xây nhà lầu xe hơi bằng nghề cầm đồ - cái nghề mà dạo chân ướt chân ráo từ Bắc di cư vào Nam, bà đã lấy làm lạ lùng không ít. Lạ nhất và buồn cười nhất là người ta cầm cả từ cái quần Mỹ-a, cái áo bà ba trở đi. Bây giờ bà nghe lại có cả vụ cầm giấy tờ này nọ bà lại càng ngạc nhiên hơn nữa. Thấy mẹ lắng nghe mình nói, Thấn càng hăng, càng ra sức thuyết phục:

- Trong trại con có một thằng trung sĩ giàu vì nghề đó. Bây giờ nó chẳng thiết đến cái lương chết đói mà vẫn sống ung dung. Trong nhà đủ cả ti-vi, tủ lạnh, máy giặt, xe hơi...Con thấy chỉ có cách đó thôi. Chứ mẹ tính, với nghề sửa máy bay của con, đành rằng nếu giải ngũ thì có thể ra làm hãng hàng không dân sự dễ dàng với lương cao thật đấy. Song, biết đến bao giờ mới hết chiến tranh cho mà giải ngũ! Mà sống hoài như thế này thì rồi làm sao?

Bà Cả gật gù:

- Ừ, thì cũng phải tính chứ! Mày năm nay cũng gần ba mươi rồi còn gì, phải không? Cũng phải nghĩ đến chuyện lấy vợ đẻ con nữa chứ! Nhưng mà... biết vay ai bây giờ?

Nói xong, bà Cả lại thở dài đánh thượt một cái. Bà thấy thương cho lũ con nhỏ. Từ ngày gia đình sa sút, bà đành phó mặc chuyện dựng vợ gả chồng của lũ nhỏ cho... cuộc đời. Con trai thì không có tiền cưới vợ cho nó. Mà con gái thì không có tiền cho chúng nó làm của hồi môn, cũng khổ. Đến nước đó thì có muốn giữ danh giữ giá, giữ nề giữ nếp cũng khó. Các cụ bảo “phú quý sinh lễ nghĩa ” vì vậy. Chẳng phú quý thì lễ nghĩa cũng đành xếp qua một bên với cái chép miệng vậy, chứ biết sao bây giờ. Vả lại, bà cũng già cả rồi, đến cái chết của chính mình cũng còn lo không có hòm chôn, nói chi đến cái gì khác nữa bây giờ. Thương con đành để bụng vậy. Phải chi bà có tài buôn bán khéo léo như mẩv bà bạn góa chồng của mình, thì cũng đỡ khổ. Phó mặc cuộc đời cho người đàn ông nó bấp bênh như vậy đó. Hại thay, chính cái điều đó lại do mấy đứa con gái nhỏ của bà nhận thấy. Vì thế mà mấy người em gái của Thuấn đứa nào cũng tự lo liệu lấy cuộc đời của mình, bằng cách này hay bằng cách khác. Và chính chúng nó đã tuyên bố rằng thời đại nào cũng vậy, nhất là thời đại của chúng nó, chẳng nên trông chờ nhiều ở người đàn ông. Khi nghe mấy đứa con gái tuyên bố như vậy, bà cho rằng chúng nó quả mới. Bây giờ nghĩ lại, bà thấy thật thẩm thía. Quả thật là chẳng nên trông chờ ở ai, cả chồng lẫn con nữa. Không trách được con gái thời nay nó táo tợn, không còn e lệ bao nhiêu! Thậm chí con Thiên, em kế của Thuấn, nẳng nặc theo thuyết phủ nhận không chịu làm đám cưới linh đình, mà chỉ muốn in ít thiếp báo suông, rồi hai bên đương sự đưa nhau ra tòa làm giấy giá thú. Thiên lý luận: “Bắt nhà trai bỏ tiền ra tổ chức đám cưới đám hỏi, có khác nào mình bị người ta mua về? Chưa kể sau đó còn nai lưng ra trả nợ nữa! Sao không để tiền đó mà sắm cửa sắm nhà cho vợ chồng có chỗ mà chui ra chui vào có hơn không?” Quả thực, bà Cả không tài nào hiểu được bọn trẻ bâỵ giờ chúng nó nghĩ cái gì trong đầu.

Thuấn đợi mẹ nguôi nguôi, rồi mới lên tiếng:

- Hay mẹ thử hỏi chị Hân xem. Con thấy chị ấy có tiền...

Hân là người con thứ năm của bà Cả. Chồng nàng đóng thiếu tá, cũng nghèo rớt mùng tơi. Nhưng nhờ mấy năm làm tiểu-đoàn-trưởng tại một tỉnh cao nguyên, cũng cố kiếm chác chút đỉnh do một đôi sự tình cờ, chứ không thì dễ cũng vẫn nghèo như ai vì tính anh rất thẳng thắn, hiền lành.

Bà Cả ngẫm nghĩ:

- Đã chắc gì nó cho vay dấy! có mười mấy lạng vàng thì nó cũng phải bọc đấy cho con nó chứ. Chồng nó đi hành quân, nay núi này, mai rừng nọ, chẳng biết sống chết ra sao, nó phải lo bọc lấy gia đình nó chứ.

- Mình vay chứ mình có xin đâu mà sợ. Vay rồi lại trả chứ bộ quỵt luôn đâu. Con cần độ một trăm thôi.

Bà Cả im lặng một hồi lâu, rồi chép miệng:

- Để tối nay tao thử ghé qua hỏi nó xem sao?...

Hai mắt Hân sưng húp vì khóc. Nàng ngồi lặng thinh, không nhìn mẹ, vẻ oán hận. Bà Cả Đương đã gầy trông lại còn gầy hơn, vẻ mặt rầu rĩ như một pho tượng khổ hạnh, nhăn nhúm đến thảm hại. Từ hôm được thả về, Thuấn chỉ tạt qua nhà cho biết qua loa sự thể, rồi trốn biệt. Tuy số tiền Thuấn bị mất không là bao so với số nợ cờ bạc của ông Cả, nhưng cái cảm giác tê điếng mà bà Cả bắt gặp khi nghe tin Thuấn bị bắt giam về vụ đô-la cũng tương tự như khi bà nghe ông Cả gọi bà đến và thú thật về chuyện cờ bạc nợ nần. Hồi đó, còn trông vào cái nhà để bán đi trang trải, tuy số nợ lên tới cả mấy triệu; nhưng bây giờ bà biết trông vào đâu mà trang trải cho số tiền do chính bà đứng ra vay và hứa chịu trách nhiệm? Vì thế, dù Hân oán hận, đay nghiến bà, bà cũng chỉ còn cách ngồi nín thinh, cay đắng đến tận tim gan.

Nói chán cũng thế thôi, nên Hân đành ngồi nín thinh luôn. Thực ra Hân không phải là đứa con bất hiếu gì cho cam. Nhưng còn chồng con nàng đó, biết ăn nói làm sao bây giờ? Lại còn gia đình nhà chồng nữa?

Một lát sau, bà Cả thở dài:

- Tôi còn đôi xuyến với chuỗi ngọc đỏ, hay cô đem bán bù vào số nợ vậy. Cũng đươc mấy chục ngàn. Còn lại thì.. đợi nó trả góp vậy.

Bà Cả biết rằng nói là nói vậy thôi, chứ có khi nào Hân lại đan tâm cầm chút vốn liếng còn lại của bà mà đem bán đâu, dù nàng có xót của cách mấy đi chăng nữa. Mà quả nhiên như vậy. Hân nói, giọng mệt lả:

- Ai lại làm như vậy. Con đã chẳng có gì biếu mẹ thì thôi... Mà trông hòng gì nó trả bây giờ!

Nói xong, nàng lại ứa nước mắt tiếc của ra và giở giọng đay nghiến Thuấn:

- Buôn bán gì cái mặt nó không biết nữa! Nó bảo bị bắt về vụ mua bán đô-la, chứ đã chắc gì! Lại cờ bạc ấy chứ gì đâu! Con còn lạ gì tính nó!

Bà Cả chép miệng:

- Nào ai biết đấy vào đâu! Thấy nó nói thế thì hay vậy thôi. Cũng tưởng....

Bà Cả bỏ lửng câu nói, rầu rĩ cả ruột gan. Ngồi một lúc, Hân cũng đành bỏ ra về, với lời nguyền từ nay sẽ không rời tiền ra cho bất cứ ai vay mượn nữa. Còn lại mình bà Cả ngồi chôn trên ghế như pho tượng với sự đau đớn đến độ không còn cảm giác gì nữa.

Tính ra Thuấn mở nhà cầm đồ lưu dộng chưa đầy một tháng. Thực sự trong nhà cũng không ai biết rõ Thuấn bị mất tiền vì vụ mua bán đô-la, hay vì hứng chí đem ra cờ bạc hy vọng chuyến này vận hên mà rồi ăn nên làm ra không biết chừng. Chỉ có Hân là cay. Và bà Cả đeo thêm một mối buồn vì nỗi chồng con chẳng ra gì.

Vậy mà Thuấn vẫn chưa chịu yên. Đợi cho mọi chuyện nguôi nguôi, hắn lại lăm le nhờ bà cụ xoay sở mượn cho mấy chục ngàn để mua một cái xe Honda, sau khi đã nghiên cứu kỹ tình hình chở mướn bằng xe hai bánh tại trước cổng trại. Và hắn kết luận: nếu cẩn thận không để bị mất xe như lần trước, thì với cái đà trung bình mỗi tháng kiếm được khoảng hai, ba chục ngàn, hắn có thể trang trải tiền nợ cái xe, tiền nợ của Hân, mà vẫn có xe đi, và về sau lại có tiền bỏ ra để có thể ổn định cuộc sống lông bông, không vợ con nhà cửa, ăn bám bố mẹ của mình.

Lẽ cố nhiên, bà Cả dẫy nẩy lên, không chịu. Nhưng nghe Thuấn tán một hồi, thương con, bà lại mặc áo đi vay tiền. Vì dầu sao, lần này, bà cũng ngồi được bát họ tám chục ngàn chung với Thiên, nếu có gì không may xảy ra... Bà Cả không dám nghĩ thêm sợ gở. Vả lại, nghe Thuấn nói thì chắc ăn quá rồi. Bà không vui gì khi thấy con phải làm nghề chở mướn như thế, dù bà không có thành kiến xấu gì đối với nghề này cả. Nhưng biết làm sao hơn?...

(3-1970)