Người Về Từ Mặt Trận
KHI ANH BẢY KHĂN GÓI LÊN ĐƯỜNG TÒNG CHINH, là lúc chị Bảy mang bầu đứa con thứ năm. Anh Bảy quả là người rủi mà may, kiểu “Tái Ông thất mã ”: sau thời gian thụ huấn ở quân trường, vì không đủ sức để chạy chọt chi đó, nên anh được hân hạnh vác súng lên đường diệt địch. Nhưng anh thuộc cái hạng người mà tổ quốc nóng lòng muốn mượn đỡ một bộ phận của thân thể liền ngay khi vừa lâm trận, anh đã lãnh ngay một phát đạn vào đùi bên phải, phải cưa chân và thế là, anh Bảy có đầy đủ lý do ca câu “Ngày trở về có anh thương binh chống nạng hiền lành...”
Lẽ cố nhiên, như thế là cái số nhờ vợ của anh đã đến lúc được ứng nghiệm. Chị Bảy, vốn giòng giỏi con nhà buôn bán, nên cũng xoay sở dựng được cái quán nhậu ngay bên hông cổng một trại lính. Khi anh Bảy ca bài “ Trở về mái nhà xưa ” cũng là lúc quán của chị Bảy đã qua thời kỳ “rà máy”. Từ xa, nhìn vào ngôi nhà mình ở trước nay đã biến thành một cái quán nhậu lai rai, anh Bảy ngỡ là bầu đoàn thê tử của mình vì túng bấn đã bán nhà bán cửa để đi tha phương cầu thực. Quán tương đối sạch sẽ, lại có bảng hiệu hẳn hỏi với cái tên khá bay bướm: “ Sinh Dân”. Anh Bảy còn đang do dự chưa dám bước vào, thì có tiếng thằng Cu Lớn reo lên:
- A, bố về!
Chị Bảy nghe con reo tất tả chạy ra, nước mắt đã lưng tròng làm anh Bảy cảm động quá. Rồi con lớn con bé bu quanh: thảy đều ngắm nghía cái chân cụt của bố và mân mê đôi nạng gỗ mới tinh. Mọi người tíu tít, chẳng ai nhớ đến việc kéo ghế cho anh ngồi nữa. Mãi một lúc sau, anh phải tự tay kéo lấy một cái ghế đặt ba-lô xuống đất, và ngồi xuống, dựng đôi nạng vào cạnh bàn. Thằng Cu Dân lúc ấy đã mười tháng, được mẹ nó bồng ra cho bố xem mặt. Thằng bé lạ bố, khóc ré lên. Mấy đứa nhỏ đứng xa xa, giương mắt lên nhìn. Chị Bảy vừa lau nước mắt, vừa mắng yêu các con:
- Sư bố chúng mày! Bộ lạ lắm sao! Sao không ra hỏi thăm bố chúng mày đi hả, con nhà mất dạy?!
Nghe mẹ giục hỏi thăm bố, con Tư mới rụt rè lên tiếng:
- Bố ơi bố, thế cái cẳng của bố, bố để đâu rồi hả bố?
Sợ chồng buồn, chị Bảy mắng át con:
- Sư bố mày! Bộ....
Chị chưa nói hết câu, thì anh Bảy đã cất tiếng cười vang, bảo con:
- Cái cẳng của bố ấy à? Hà hà... Bố gửi ở trên rừng rồi.
Con bé Tư trố mắt lên nhìn bố:
- Chi vậy bố?
Anh Bảy chỉ đôi nạng còn sáng nước vẹc-ni, cười hơi gượng gạo:
- Để đổi lấy đôi nạng này nè! Con thấy đôi nạng đẹp dữ, thấy không?
Con bé đang ngắm nghía đôi nạng, thì thằng anh lớn của nó đã ra cái điều hiểu biết, quan trọng nói:
- Bé Tư ngu lắm, không hiểu gì cả! Bố hy sinh cho tổ quốc... một cái chân đó.
Con bé Tư mới năm tuổi, càng không hiểu gì hơn.
- Thế ông tổ quốc xin cái chân của bố để làm chi vậy?
Thằng Cu Lớn chưa biết trả lời ra sao, chị Bảy đã xua lũ trẻ đi chỗ khác chơi, để được ngồi hàn huyên vời chồng. Chị nói, giọng còn nghẹn ngào vì xúc động:
- Thôi thì thấy anh về, tuy không có nguyên vẹn như trước, nhưng còn sống, em cũng mừng...
Anh Bảy nhìn vợ cười gượng gạo, rồi quay đi đưa mắt ngó bâng quơ ra khoảng sân trước mặt với ý nghĩ: để nghỉ một hai bữa rồi cho tráng xi măng cái sân, trồng một dàn dây leo và kê thêm vài cái bàn cho khách ngồi. Dầu sao, anh Bảy tự an ủi, mình chỉ mới mất có một cái chân thôi, còn hai bàn tay và khối óc đấy... Từ đây, anh sẽ yên chí sinh sống làm ăn, không còn phải thấp thỏm trốn tránh như cái dạo trốn quân dịch nữa... Anh Bảy quay lại nhìn vợ lúc dó đang nhét vú vào miệng con với một vẻ chịu đựng, song an bình. Tự nhiên anh thấy nghe trong người rạo rực. Anh muốn thốt kêu “Nè mình..” Nhưng anh tự kìm hãm lại. Anh nuốt nước bọt. Anh nghĩ đến buổi tối hôm nay lại được nằm trong căn nhà quen thuộc, bên người vợ đảm đang, nồng nàn những mời gọi. Trước khi đợi tổ quốc cám ơn anh vì đã đóng góp cái chân, anh lại thầm cám ơn tổ quốc trước.. Và anh mơ hồ mỉm cười:
- Nè mình...
Chị Bảy chợt ngẩng lên.
- Dạ. Anh gọi gì?
Anh Bảy mỉm cười bâng quơ, nói qua chuyện khác:
- Tại sao lại “ Sinh Dân ”?
Chị Bảy không hiểu. Anh Bảy hất hàm về phía cái bảng hiệu:
- Cái bảng hiệu đó. Tại sao em lại đặt tên quán là “ Sinh Dân ”?
Chị Bảy cười xòa:
- Tưởng gì... Thì hồi mở quán, em sinh thằng cu Dân này nè, nên em đặt là “ Sinh Dân ”, chứ đặt là gì bây giờ?
Auh Bảy gật gù, ra chiều hiểu ỷ. Nhưng ý nghĩ của anh vẫn luẩn quẩn bên cái vẻ mặn mà gợi cảm của cái cảnh ngườỉ đàn bà cho con bú. Chị Bảy bỗng kêu “ á ” lên một tiếng, mắng yêu con:
- Thằng chó! lại cắn vú mẹ rồi! Khoe mãi mấy cái răng thôi!
Anh Bảy tần ngần nhìn bầu sữa căng của vợ nói:
- Cái thằng chó thật! Dành phần của bố không! Hư quá.
Dù bận bồng con, chị Bảy cũng thò tay sang nhéo chồng một cái nhẹ, nhưng anh Bảy vẫn la lớn, vì thú, hơn là vì đau.
- Chồng với lại chả con! Rõ chán mớ đời! Sao tôi khổ thế này hở trời ơi là trời? Sao ông trời không cho tôi chết đi cho nó rảnh có hơn không? Nhờ có một việc mà cũng không xong. Rõ một lũ ăn hại.
Nói xong, chị Bảy lại bật khóc tỉ tê, làm anh Bảy đang nằm cố ngủ lại, nhỏm đầu lên quát:
- Câm cha cái mồm con đĩ già lại! không ông bẻ cổ ra sau bây giờ! Thằng Bảy này bây giờ không hiền lành như xưa nữa đâu, không nói rồi bỏ đấy nữa đâu, nghen! Ông mà điên tiết lên thì chết cả lũ đấy!
Chị Bảy nín bặt khi nhìn đôi mắt đỏ ngầu vì thức đêm và uống rượu của chồng. Thấy anh Bảy vùi đầu lại xuống gối, chị lại tiếp tục quác miệng ra gào:
- Anh uống rượu đấy, không đủ sao, mà còn bày đặt cờ bạc, có mười mấy ngàn để lấy hàng, anh nướng sạch, bây giờ lấy gì ra mà buôn với lại bán bây giờ? Trời ơi là trời! Trời thử ngó mắt xuống mà xem có khổ cái thân tôi không! Ối, chồng con ơi là chồng con!
Anh Bảy cảm thấy mệt mỏi, song còn cố nạt:
- Mày có câm cái miệng bố mày lại không? Bộ gào mà ra bạc đấy chắc! Ông mà điên tiết lên thì ông đập ráo! Chẳng buôn thì cũng đừng bán.
Chị Bảy cũng không vừa:
- Đó, của ông đấy. Ông đập đi, đập cho chán tay di! Đã què quặt ăn bám, mà chẳng biết thân, còn bày điều!
Đến nước này thì không chịu được nữa. Dầu sao, cũng phải chứng tỏ cho con mụ biết là mình không còn như xưa: hễ nói là làm. Và anh Bảy chồm dậỵ, với lấy đôi nạng ở góc nhà, không để chống mà để phang hết mọi thứ trong vòng tay quơ, trong vòng cái chân còn lại cho phép anh lò cò tới. Và anh càng đập, đập bàn, đập ghế, đập tủ, đập gương, đập ly, đập chén, đập chai, đập lọ...
Chị Bảy càng gào, anh càng điên tiết cho đến khi mệt lử, anh lăn ra giường thở, rồi thiếp đi, rồi thức dậy khi mọi thứ trong nhà đã được thu xếp xong đâu vào đấy, khi đám quân nhân ăn cơm tháng hay nhậu lai rai, đã bắt đầu đến quán, và bóng tối đã bao trùm lên mọi vật, và chị Bảy đang lăng xăng vừa hò các con bưng đồ ăn thức uống thu vén được ra cho khách, vừa đích thân xin lỗi về sự thanh đạm quá mức tối hôm nay.
Anh Bảy ngồi dậy, vòng tay ôm lấy đầu gối chiếc chân còn lại, đầu óc rỗng không. Thì ra anh đã ngủ suốt từ sáng cho tới giờ. Anh đã làm những gì? Tất cả như một giấc mơ dữ. Nếu không có cái vẻ lầm lì không thèm nói nửa lời với anh của chị Bảy, nếu chị Bảy tỏ vẻ săn sóc đến anh, thì anh sẽ tin chắc là mình vừa trải qua một giấc mơ dữ vậy thôi. Chung qui vì anh buồn nản quá. Anh vớ lấy tờ báo bên cạnh chỉ đủ để đọc một cái “tít” lớn về cái phong trào chiếm đất của thương phế binh đang xảy ra ở thủ đô. Một ý nghĩ lóe lên trong đầu anh. Hay là...? Anh sẽ làm hòa với chị Bảy. Anh sẽ bảo với chị Bảy là anh sẽ không bao giờ làm phiền chị nữa, anh sẽ đi, sẽ tự lập lấy cuộc đời của mình, sẽ...
Nhưng rốt cuộc, anh Bảy không đi đâu cả. Anh vẫn ở nhà, mò mẫm làm hết công kia đến việc nọ: như đóng lại cái bàn ọp ẹp, cái ghế gẫy, sửa lại cái hàng rào, đóng thêm mấy cây đà ngoài sân cho cây leo ; quét lá rụng trên nền sân xi măng; và khi chiều xuống, nể nang khách quen lắm, anh mới ngồi xuống kéo đôi ba sợi nhậu lai rai với khách hàng. Anh còn nhớ mãi cái đêm quá chén, không kềm lòng được trước những câu nói khích của bạn bè, anh đã đem số tiền chị Bảy đưa đi cất hàng để nướng sạch vào bàn xì phé. “ Nam vô tửu như kỳ vô phong. Nhưng nam vô cờ như... quân vô kỳ !” một thằng cha hay chữ rởm và say khướt đã khiêu khích anh như thế, và trong lúc say khướt, anh cũng nhận lời thách đố cho được! Không, từ nay trở di, anh chẳng dại nữa.
Tuy thế, dù không đánh bạc, nhưng anh vẫn uống, trước ít, sau lại trở lại tửu lượng cũ. Anh còn gì nữa đâu mà chẳng mượn men rượu để quên đời, quên đời, quên hận, quên mình?
Bây giờ, mỗi lần say, anh lại ưa bàn luận về văn chương chữ nghĩa này nọ. Bởi anh còn căm cái thằng cha ngày nào dùng chữ nghĩa để khiêu khích cái chí nam nhi của anh, nên anh cảm thấy mình cần phải tỏ ra hay chữ để không còn dễ dàng bị lóe mắt vì chữ nghĩa của thiên hạ nữa.
Và đối tượng để anh trổ tài hay chữ của mình là cái bảng hiệu của quán nhà anh. Cái gì mà “Sinh Dân”?! Rõ thật là chữ nghĩa đàn bà có khác. Anh cảm thấy cần phải đổi cái tên hiệu sao nghe cho nó hay ho một tí. Và anh ngấm ngầm nghĩ một cái tên mới. Nghĩ chán, anh đem ra bàn luận với khách hàng, xem theo họ, cái tên nào hay, trong số những cái tên anh đã nghĩ ra như “ Lạc Đế ”, “ Hậu Đế ”, “ Kim Đế ” và v.v..“Đế”. Sở dĩ anh khoái chữ Đế, vì rằng anh khoái rượu đế lắm. Và đi xa hơn, anh lý luận: người ta đặt tên là rượu đế, vì khi uống vào thấy ngà ngà, lơ mơ, ngây ngất, bất cần đời, coi thiên hạ bằng vung, như một ông vua, một vị hoàng đế, nên mới có tên là rượu đế. Và anh thường ngâm nga:
“ Một chiếc cùm lim chân có đế
Ba vòng xích sắt bước thì vương. ”
Rồi, đi xa hơn, anh tự ví mình như một thứ Cao Bá Quát bất đắc chí hận đời, hận người, hận vợ, hận con, hận công danh sự nghiệp và v.v... hận. Và anh cứ tiếp tục nuôi mộng thay đổi tên cải bảng hiệu, làm như thể nhờ đó, anh có thể thay đổi được tất cả mọi sự, kể cả cái chân cụt của mình mà “ông tổ quốc ” đã mượn đỡ để chỉ trao cho anh một tấm giấy chứng nhận tên Nguyễn văn Bảy đã hy sinh tặng cho...
Vâng, anh Bảy suy nghĩ lung lắm. Mỗi buổi chiều, bên ly rượu đế, anh chỉ trầm ngâm vì mỗi một chuyện đó, như một nhà văn chọn cho tác phẩm của mình một cái tên gọi cho thật kêu, thật hấp dẫn đối với độc giả. Và anh cũng ít nói hẳn đi, ít lè nhè hẳn đi mỗi khi rượu vào. Lâu lâu anh lại còn ư ử ngâm thơ Cao Bá Quát nữa - những câu thơ anh nhớ được nhờ hồi đó được ở gần nhà một ông già trước kia là đồ nho.
Không cần biết đến mối suy tư của anh Bảy, chị Bảy chỉ nhìn thấy có mỗi một điều, là: sau cái cơn tam bành lục tặc đó, anh Bảy bỗng thuần tính hẳn đi, không còn la vợ, đánh con mỗi khi rượu vào, không còn cay đắng về nỗi tàn tật nữa. Từ một người xấu tính ít học, anh Bảy bỗng hóa thân trở thành một kẻ trầm tư mặc tưởng, thay vì rượu vào lời thô bỉ ra, thì bây giờ rượu càng vào, thơ phú càng xuất khẩu. Âu cũng là điều lành. Mất mười mấy ngàn, chứ mất nữa để đổi lấy một ông chồng trí thức như vậy, chị Bảy cũng không tiếc. Rồi từ đó, chị đâm ra ân hận vì đã có lúc nặng lời với chồng, đã có lúc gớm ghiếc cái con người tàn tật ăn hại đó, đã có lúc vì quá khổ sở đau buồn, chị trù rủa rằng sao chồng chị không chết bờ chết bụi đi cho chị nhờ, chẳng những thế, lại còn được lãnh tiền tử tuất để thêm vốn buôn bán nuôi con. Chị Bảy cứ việc lấy làm ân hận và muốn lạ lỗi với chồng, chị trở nên âu yếm chiều chuộng chồng hơn. Vì không còn gớm ghỉếc cái thân thể bỗng nhiên thiếu hụt mỗi khi ôm ấp chị nữa, nên kết quả, là chị Bảy lại mang bầu đứa con thứ sáu...
Trong lúc đó thì anh Bảy đã nghĩ ra được cái tên rất hay ho: “ Mẫn Đế ”. Anh giải thích: “ mẫn” là quang minh chính đại, là sáng suốt, còn “đế” có thể hiểu là “Vua”; hay nôm na là rượu đế cũng được. Tóm lại “Mẫn Đế” có hai nghĩa: một Ông vua sáng suốt, một vị lãnh đạo quang minh ; và thứ rượu đế... càng uống vào, càng thấy minh mẫn, sảng khoái. Tên “ Mẫn Đế” vừa nói lên lòng ao ước của người dân muốn có được nhà lãnh đạo tốt, vừa nói lên thứ rượu đế cao quý của dân tộc.
Và thế là, không ngần ngại, anh Bảy đề nghị với vợ đổi tên quán. Sau khi để yên chồng giảng giải những gì ở đâu dâu, chị Bảy đáp buông thỏng:
- Bố nó chẳng hiểu gì hết. Tôi đây không cần hay chữ, chỉ thấy rằng tôi đã tốn mấy ngàn bạc kẻ cái bảng hiệu, bây giờ xóa đi kẻ cái khác, tốn tiền thêm. Thời buổi này, tiết kiệm được đồng nào hay đồng ấy. Vả lại, khách hàng đã quen với cái tên “Sinh Dân”, đổi đi e mất khách. Bố nó không thấy ở vùng này có thêm mấy cái quán khác đang ra sức cạnh tranh với mình đấy sao!?
Thế là anh Bảy cụt hứng, như một nhà văn chân chính bị nhà phê bình nện cho một cú nên thân xung quanh cái tác phẩm mà mình đã mang nặng đẻ đau.
Song cái ý thức chua chát nhất mà anh Bảy có được là mình chẳng thể có được một quyết định nào trong cái nhà này hết. Và anh Bảy đã cay đắng càng cay đắng thêm. Chỉ còn có cách thoát ly, chứ sống mãi thế này, chịu sao thấu?! Anh lại nung nấu ý định bỏ đi. Anh nghĩ đến việc về thủ đô tham gia phong trào chiếm đất của anh em đồng bạn. Nhưng thời thế chẳng thương anh Bảy bao nhiêu, vì rằng, khi anh cầm tờ báo lên để xem cuộc chiếm đất đã tiến triển đến đâu thì anh chỉ thấy báo chí đề cập đến các cuộc biểu tình của sinh viên và học sinh. Vậy thì, về thủ đô lúc này mà làm gì?
Và thế rồi, từ đó, chiều chiều anh Bảy bắc ghế ngồi ngật ngưỡng bên ly rượu đế, ư ử ngâm câu thơ mà anh cho là bất hủ của Cao Bá Quát tiên sinh:
“ Một chiếc cùm lim chân có đế
Ba vòng xích sắt bước thì vương. ”
Và anh Bảy nằm đó chờ thời, như một kẻ rất am hiểu tình hình.