SỦI TĂM
Tôi thường chỉ trở về nhà vào buổi tối, lúc phố xá đã nhộn nhịp đè nặng trên những mái đầu trần. Những ngày ấy, tôi sống lầm lũi, âm thầm như một con cú. Con cú sợ ánh sáng, sợ bóng người, sợ cả những tiếng động vây quanh. Tôi cũng chẳng hiểu sao, tôi lại không chịu nổi cái không khí âm thầm của căn nhà loang lổ, liền vách với hai nhà bên cạnh. Bức tường quét vôi vàng đã ngả mầu xỉn. Những vệt thâm ố, chạy ngoằn ngoèo dọc theo mấy kẽ nứt, nhìn lâu, trong đêm, như những giọt máu chẩy đỏ. Mỗi khi nhìn thấy chúng, óc tôi lại liên tưởng tới chuyện Thị Lộ, rắn báo oán đệ nhất công thần Nguyễn Trãi thời nhà Lê. Sao lại thế? Khi những vết ố tỳ đó không từa tựa hình rắn. Vào mùa mưa, mùi ẩm mốc từ mấy vách tường đó xông ra, tôi nằm gọn ở giữa, thở thoi thóp cùng những tiếng động dội vang từ bùng binh và tiếng chửi nhau thường nhật của lũ người trong xóm. Tình cảnh lẻ loi đơn chiếc này, tôi đã gánh chịu gần một năm và cũng chưa hiểu vì đâu lại không muốn dời đi nơi khác.
Tôi sống ở đấy thường chỉ ban đêm, đôi lúc cũng cảm thấy dễ chịu thích thú, làm như tôi được hạnh phúc, ngay trong những giây phút rạc rời ngắt lẻ đó.
Buổi trưa tôi ăn cơm ở sở, sẩm tối trở về siêng thì thả bộ tới đầu ngõ, ngồi lẫn với mấy ông xích lô, trên những tấm ghế mỏng dẹp, dí sát đất. Những thìa cơm tấm vụn rời, với những cọng bì tẻ tẻ nhạt nhạt, lăn tăn như những sợi thung bùng nhùng trong miệng. Tôi cũng chẳng có một ý niệm nào về những miếng nhạt nhẽo ấy. Để làm gì khi không có một chút ham muốn, hứng thú. Ăn cho có, để yên tâm, đừng thắc mắc. Mình đã ăn rồi. Đã ăn rồi và có như thế tôi mới có thể thong thả ngòi lọt thỏm trong chiếc ghế gỗ cũ, bọc lại bằng vải ka ki xám (người hàng xóm dư dùng không có chỗ kê, thấy nhà cửa tôi trống lốc, gọi cho. Cho nó có cái này, cái nọ, ông ta nói thế). Thực tình, tôi đâu có cần mấy cái ghế quỷ đó. Để làm gì mới được? Có làm gì đâu. Tôi chỉ cần có mỗi một thứ, một điều, một thứ, một điều ấy, có tính cách quyết định đời sống riêng của tôi. Nó mang một giá trị ngang hàng như lẽ sống, lẽ sống của một đời người: Miện.
Tôi ở đó, hằng đêm, lắng nghe tiếng xe Miện lăn vào, với tiếng tách tách phụ họa, vui tai, của dây sên hay cái ổ gì đó, có chứa những viên sắt nhỏ, nhỏ xíu, sáng choang và xinh ngon như những hạt lựu. Những hạt lựu ngày nào tôi chưa xa mẹ. Ngày nào, chiến tranh chưa khốc hại trên quê hương và gia đình tôi, chưa đến nỗi phải dắt díu nhau ra đi.
Tôi nhớ đến bà ngoại tôi, mỗi khi chống gậy tới thăm gia đình tôi, câu đầu tiên mà bà tôi nói là thằng Phá đâu? Thực tên tôi không phải thế. Tên tôi là Phách. Phách, nhưng không rõ vì đâu bà tôi lại nhất định không gọi đúng tên ấy, bà cứ gọi Phá và tất nhiên, tôi cũng nhận cái tên Phá một cách hoan hỉ vì có lần nào tới thăm chúng tôi mà bà tôi quên mua lựu đâu. Bà tôi bảo, mày không có răng làm sao ăn lựu được. Hễ mỗi lần nghe bà tôi nói như vậy là một lần tôi phải nhe cả hàm răng ra để chứng tỏ hùng hồn là tôi có răng, không những có mà còn nhiều nữa. Bà tôi đưa tay tát khẽ vào má tôi, tay kia dúi quả lựu vào lòng tôi nói: Chó, chó con, mẹ mày đâu. Tôi ôm lựu và lăn xả người vào lòng bà tôi, hệt như những tay thủ môn bóng tròn, mỗi khi bắt được một trái banh gay cấn, anh ta thường bày tỏ nỗi sung sướng hay nhân cơ hội biểu diễn luôn tài nghệ mình bằng cách ôm banh lăn mình đi mấy vòng. Ấy là những ngày bình thường, chứ còn vào mùa đồng áng, bà tôi thường bảo các chú, em bố tôi, bắt mấy con chuột đồng nhỏ buộc dây lại và bà tôi lại lọm khọm lên cho tôi. Chắc tại bà tôi nghe mẹ tôi kể ngoài lựu tôi còn thích chơi chuột. Theo mẹ tôi thì bà tôi quý tôi nhất vì tôi là con út. Bố tôi lại mất sớm, bà tôi vì thế mà thương tôi nhiều hơn các anh chị tôi. Bà tôi vẫn bảo mẹ tôi là phải thương yêu tôi nhiều hơn những người kia, vì tôi bị thiệt thòi sớm. (Mới bốn tuổi đầu mà đã không trông thấy mặt bố). Hồi mới quen Miện, tôi đem chuyện này kể cho Miện nghe. Miện bảo: Thế mà anh gặp Miện thì xui rồi, bởi anh sẽ phải chìu Miện chứ Miện không chìu anh đâu. Con trai sinh ra đương nhiên có bổn phận phải chìu con gái. Tôi cười bảo được chìu Miện là một hạnh phúc. Chỉ sợ người ta không cho chìu thôi. Nói thế chứ sau này, chính Miện lại là người chìu tôi nhiều hơn tôi chìu Miện. Miện lo cho tôi từ chiếc khăn tay nho nhỏ. Những chiếc khăn Miện may lấy rất công phu. Những sợi chỉ màu xanh được Miện luồn vào những kẻ vải mà Miện đã rút ra mấy sợi. Những chiếc khăn Miện đã cặm cụi, thức nhiều đêm thêu tên hai đứa ở một góc. Mà nào có phải Miện chỉ làm một cái. Bao giờ Miện cũng làm một đôi. Một đôi, chia đều mỗi đứa. Miện còn khuyên nhủ nhưng gần như là cấm cản tôi không được hút nhiều thuốc lá. Những săn sóc nhỏ nhặt đó, đối với tôi là cả một hạnh phúc, thứ hạnh phúc nhẹ nhàng êm đềm. Tôi tập bỏ thuốc bằng cách gần Miện không bao giờ hút. Nhiều khi chúng tôi ở bên nhau hay đi chơi cả buổi, tôi đã không hút lấy một điếu. Không sức mạnh nào bằng sức mạnh tình yêu. Miện cũng biết rằng với tật hút thuốc, mẹ tôi cấm bao nhiêu lần, ngay từ hồi tôi mới tập tễnh mà đâu có được, nhưng ai ngờ Miện lại khuyên được tôi. Tôi chắc Miện cảm động không ít, khi biết chuyện này. Nguyên tắc mà Miện ra cho tôi là hai đứa chỉ gặp nhau một tuần một lần. Miện nói như thế để tôi có thì giờ học hành thêm và cũng là để giữ gìn sức khỏe.
Nhưng ít khi tôi giữ được nguyên tắc ấy. Mỗi lần nhớ quá tôi lại leo xe buýt, đến nhà Miện. Trong những lần tôi đến bất thần như vậy, Miện mừng lắm, nhưng qua ánh mắt Miện tôi biết là Miện buồn. Buồn và lo cho tôi, cho cả Miện nữa. Bà cụ không nói gì, nhưng ông cụ rất khó tính. Sự lui tới ngay từ buổi đầu, tôi đã linh cảm thấy rằng không được sự hài lòng của ba Miện. Hình như ông cụ có thành kiến với người Bắc và nhất là lại đi lính. Miện cũng không giải thích được điều này. Trong khi đó, chính người con trai lớn, tức là anh cả của Miện cũng đi lính. Nhưng ông cụ thương người này bao nhiều thì lại không ưa tôi bấy nhiêu. Có lẽ ông cụ không muốn có một thằng rể là lính. Lính thì dễ chết. Phải rồi. Người ta luôn luôn quan niệm như vậy. Trong khi sự thực đâu phải ai đi lính cũng chết. Và sự sống hay lẽ chết, bây giờ cũng không còn là một điều quan trọng nữa. Một lần Miện vào thăm tôi trong doanh trại, thấy Miện có vẻ buồn buồn, tưởng Miện buồn vì thấy tình cảnh đời sống thực sự của tôi, tôi hỏi. Miện đáp, anh quên rằng Miện cũng có một người anh đi lính như anh. Thế sao Miện buồn? Tự dưng Miện buồn. Không biết sao. Cũng có thể là chẳng vì gì hết. Tôi rót nốt phần nước trong chai vào ly của Miện. Những viên đá nhỏ sóng sánh trong lòng cốc một lát rồi im lặng, rã tan. Tôi ngó chết mấy viên đá đang tan và nghĩ đến phận mình. Tất cả chúng ta, ai rồi cũng thế. Ngay cả cuộc tình này. Cuộc tình mà tôi đang ấp ủ, đang nuôi nấng trong tâm hồn, như một ngọn lửa thiêng soi sáng đời tôi, những thời khắc tối tăm, buồn nản. Nói thế không có nghĩa là chúng tôi không toan tính chuyện lấy nhau. Có mấy kẻ yêu nhau mà không nghĩ tới lúc được sống đời với nhau đâu. Chúng tôi cũng vậy. Nhưng cho đến giờ phút đó thì tất cả những khó khăn sừng sững trước mắt vẫn còn nguyên đấy. Không những nó nguyên đấy mà nó còn ngày một triển khai tăng trưởng thêm. Khó khăn từ ba Miện, đến má Miện. Lúc đầu má Miện tỏ ra có cảm tình với tôi lắm.
Nhưng sau, trước sự quyết liệt của ông cụ, bà cũng ngả dần về phía kẻ mạnh. Tôi cảm được điều này, trong những lần đến nhà Miện, bà cụ không còn vồn vã, cũng chẳng còn dành cho tôi những ánh mắt trìu mến, thiết tha. Ngay cả người anh trai của Miện, tuy không tỏ thái độ phản đối, nhưng cũng không ra dấu biểu đồng tình với chúng tôi. Chính giữa tình cảnh này, tôi lại càng cảm thấy thương yêu Miện hơn. Tình yêu của chúng tôi, số phận cuộc tình chúng tôi như một con thỏ bị các tên thợ săn vây bủa bốn phía. Là người trực tiếp chịu áp lực của gia đình, nhưng Miện đã tỏ ra cương quyết hơn tôi, khăng khăng từ chối mọi đề nghị kết hôn của những người mà ba hay má nàng chọn lựa. Một buổi tối chủ nhật, Miện lại thăm tôi tại căn nhà ẩm mùi mốc từ những góc đọng nước và bóng tối. Chúng tôi cùng đồng ý không bật đèn và mỗi đứa ngồi thu mình trong chiếc ghế bành bọc vải ka ki xám của ông hàng xóm. Hai chiếc ghế kê cạnh nhau, lưng ghế tựa vào một vách tường. Trước mặt chúng tôi là vách tường bên kia với những vệt nước thâm ố, ngoằn ngoèo như con rắn. (Những vệt ố tỳ đã gợi tôi nhớ tới câu chuyện huyền hoặc về Thị Lộ). Tiếng radio từ bên hàng xóm, mở lớn, giọng chua ngoét của một cô đào cải lương, đang diễn vở tuồng Phạm Công – Cúc Hoa, hình như đến đoạn nói về Tào Thị đuổi hai con riêng của chồng đi ăn mày. Ngoài chiếc sân nhỏ, những đốm vàng đục lờ mờ của ánh đèn đến từ chiếc cửa sổ căn gác đối diện hắt xuống. Giữa lúc đó, tiếng một người đàn ông trên cao lè nhè chửi vợ bằng những lời tục tằn nghe phát nôn, lợm. Chúng tôi cùng nghiêng người, nghếch mắt liếc nhìn lên. Tôi không nhìn rõ mặt, nhưng thấy nửa thân một người đàn bà, tóc quăn, thò hẳn đầu ra ngoài. Hai cánh tay chị ta chống thẳng ở hai góc thành cửa. Chiếc áo hoa to, nhiều mầu bó sát lấy nửa thân đẩy đà. Gió lất phất bay những sợi tóc tung ở hai bên má. Nhác trông, chị ta có vẻ mặt đều đặn của thứ đàn bà Tầu, hơi ngô ngố. Nhưng nhìn kỹ hai con mắt lặng chết với bóng tối đen nhánh, cho tôi cái cảm tưởng đang được ngắm nhìn một pho tượng sống. Tôi lắng chờ, hình như tôi mong mỏi chị ta lên tiếng, mở miệng nói một câu gì đó. Một câu gì cũng được nhưng phải nói. Nói đại đi chứ, sao lại im lặng. Kìa, sao không trả lời? A, có lẽ chị chàng đang mải nghe đoạn Tào Thị lộng hành, thông gian với quân hầu…
Miện thở nhẹ. Tôi quay nhìn nàng. Đôi mắt Miện lúc đó, đăm đăm gắn vào lòng chiếc sân con, như muốn tìm một vật gì đã đánh rơi trong ấy. Tôi tỳ một tay lên thành ghế, ngả người vào lưng tựa. Ở vị thế này, tôi chỉ nhìn thấy một bên má Miện và mái tóc mun chẩy dài, phủ gần kín chiếc lưng, cong theo thế ngồi. Chợt mắt tôi đứng khựng nơi vệt nước trên má nàng. Tôi nhỏm người, day mặt nhìn sát mắt Miện. Những chiếc lông mi cong cho ý niệm một đường cong lận đận, còn đẫm nước, dính lại với nhau thành từng cụm nhỏ. Tôi giật mình sửng sốt.
Sao vậy Miện? Sao vậy? Nói anh nghe đi. Miện lắc đầu, đưa tay gạt ngang. Sau ống tay áo, tôi thoáng thấy Miện cười, nụ cười gượng buồn bã tuyệt vọng. Tôi ngả người sát về phía Miện. Lần đầu tiên, tay tôi choàng qua vai nàng. Tôi cũng không ngờ mình đủ can đảm hành động như vậy. Đôi vai Miện lắc lắc tỏ dấu phản đối. Tôi làm thinh như không để ý. Anh yêu Miện thiệt không? Tôi mở mắt lớn: Sao Miện lại hỏi anh một câu kỳ lạ vậy. Ba năm rồi chưa đủ để mình tin nhau sao? Tất nhiên là Miện tin anh nên mới đến đây. Ba năm rồi. Biết bao nhiêu khó khăn, bao nhục nhã đã xảy đến cho đời Miện, nhưng Miện đâu có vì thế mà nản chí. Điều đó, nó đã nói đủ tình Miện đối với anh. Nhưng có điều như trong một lá thư Miện đã viết cho anh, Miện nhớ Miện bảo, người đàn bà càng tha thiết bao nhiêu với tình yêu, theo thời gian, thì người đàn ông ngược lại, họ nhạt dần ở những ngày kế tiếp, khi đam mê đã nguội, đắm đuối đã tàn. Miện sợ anh cũng như vậy. Anh cũng như vậy, thực ra không có gì đáng trách. Miện sẽ không hề trách cứ anh. Miện nói thật đấy. Nhưng Miện hỏi là hỏi cho biết vậy thôi. Tôi cướp lời Miện: Riêng anh thì Miện chả có điều gì phải lo nghĩ hết. Thời gian ấy, với một cuộc tình, giữa thời buổi này đã là một khác thường, khác hẳn những trường hợp xẩy ra quanh đời chúng ta. Chắc Miện cũng biết là thời buổi này, một người như anh có thể bị liệt vào hạng cổ hủ, lạc hậu. Chiến tranh và đời sống đối diện đã không cho phép chúng ta còn thì giờ, trí tưởng để mơ mộng. Người ta không ai bảo ai, sống vội, sống gấp, vội, gấp được chừng nào tốt chừng đó. Bởi đời sống mà chúng ta vẫn tưởng là có thực sự, đã mất, mất từ lâu, trên quê hương này. Tất cả không còn gì. Không còn gì khác hơn bất trắc, khác hơn sự chết. Sự chết bao giờ cũng là người bạn thiết, là cái bóng, đeo dính đời chúng ta. Người ta thường nói quỷ thần hai vai, nhưng xét cho cùng thì chúng ta chỉ còn một vai quỷ và ngôi thần thánh đã hạ bệ lâu rồi. Thần ở đây, nếu muốn nói cho đúng thì phải là thần chết. Thần chết, chứ không còn là thần hộ mạng.
Miện lắc đầu, Miện luôn nghĩ rằng chúng ta không ai sống đúng được đời mình, cuộc đời thực, theo Miện, thì nó ở một chỗ nào khác hơn cảnh đời này đã xế. Những mưu toan nhỏ nhoi cho tâm hồn mình, nhiều khi cũng không thực hiện nổi. Nhưng dầu sao thì Miện cũng không dối được lòng mình. Miện yêu anh, và Miện cũng không mong gì hơn là chỉ xin anh thành thực với Miện. Miện có thể hy sinh tất cả, đứng trên cả mọi lời bêu rếu, dè bỉu chung quanh, nhưng Miện không thể chịu được sự phản bội.
Tôi hiểu ý Miện muốn nói về cuộc tình của hai đứa, ngày càng đi lần vào chỗ bế tắc. Trước mọi khó khăn, người ta ít khi lo cho chính mình không vượt qua được mà lại lo cho người khác. Miện cũng thế. Nàng luôn lo cho tôi không đủ kiên nhẫn, nghị lực để vượt qua. Ngược lại trong hầu hết những lá thư viết cho nàng, không bao giờ tôi quên nhắc Miện phải cố gắng, kiên tâm vượt qua trở ngại. Tôi cũng gián tiếp nhiều lần, đề nghị với Miện một giải pháp táo tợn, nhưng xét ra lại có lý và có hiệu quả. Đó là giải pháp chúng tôi sẽ có con trước với nhau. Chuyện ấy, thoạt thấy trong nó không được đẹp, nếu không muốn nói nó là xấu xa, đáng hổ thẹn, nhưng có cuộc tình nào, khi đạt đến đỉnh cùng của nồng độ tha thiết, yêu đương mà không là sự hòa nhập của hai thể xác. Nếu tôi nhớ không lầm thì trong một tiểu luận về thơ, một nhà văn, đã thẳng thắn viết rằng: Nước là kết quả cuối cùng của một tình yêu, một tình yêu ở cực điểm của tình yêu, Miện thì không chịu quan niệm đó. Trong lá thư viết lại cho tôi, giữa lúc thất vọng nhất, Miện viết: Mặc dù Miện chưa trao thân cho anh, nhưng sự thất tiết trong tinh thần, trong tâm hồn theo Miện mới thật quan trọng và đáng tội với người nào đó mà sau này, Miện có phải lấy làm chồng. Do đó, Miện nghĩ rằng chắc không bao giờ Miện lấy chồng. Miện không muốn lừa dối họ. Miện không muốn là người đã thất thân, khi về với họ. Miện nói là chắc chứ Miện tin chẳng đời nào. Chẳng đời nào anh ạ. Tính Miện thì anh đã biết. Ngay từ hồi bé, Miện bị ba má cho là cứng đầu cứng cổ, lì lợm rồi. Lớn lên, Miện cũng thấy rõ tính đó của mình. Điều gì Miện đã không thì không có sức mạnh nào lay chuyển nổi. Anh có thể nghi ngờ Miện ở ngày hôm nay, nhưng thời gian sẽ cho anh thấy rõ hơn, về điểm ấy Miện không muốn hay không thích thế. Cũng vì thế Miện nhìn thấy Miện và tin mình. Niềm tin, đôi khi có thể sai, nhưng nếu nó là cái giúp người ta hãnh diện, tự hào về mình thì dù sai mấy, nó cũng vẫn còn đó, có đó và mỗi ngày mỗi bồng cao hơn.
Người đàn bà nạ dòng, từ đâu đi lạc vào trong sân, chị ta ngó dáo dác, không biết có nhìn thấy chúng tôi? Miện đẩy tôi ngồi ngay ngắn lại. Người đàn bà nạ dòng quay ra sau khi chửi đổng một câu vu vơ. Tôi cũng nói bồi một câu vớ vẩn không ăn nhập vào đâu: Chắc đi kiếm con. Miện không nhúc nhích. Tôi rướn người, móc thuốc trong túi quần ra đánh diêm hút. Hơi đất ẩm, mốc mốc, theo khói thuốc luồn vào phổi. Tôi thả chậm từng ngụm khói nhỏ. Ngồi với Miện mà tôi rút thuốc hút là Miện biết tâm hồn tôi lúc đó đang hoang mang hoặc trống rỗng ghê lắm. Anh đang buồn? Miện hỏi. Không, anh mệt. Mệt và chán nản không thiết làm gì nữa. À, việc anh bị đổi đi ra sao? Tôi chợt nhớ tới vụ ông Trung úy trong sở. Hắn là một thằng thất học, đi lính từ mấy chục năm nay, từ ngày tôi còn mặc quần thủng đít. Theo hắn nói thì hắn đi lính trước khi có hiệp định Geneve tới cả chục năm. Lóp ngóp mãi bấy giờ mới leo lên được chức Trung úy. Là kẻ thuộc thành phần khố rách áo ôm như vậy, bản tính lại keo bẩn, hèn hạ. Hắn không ưa những sĩ quan nào mới ra trường, tỏ ra hiểu biết, có học. Sở dĩ có tình trạng đó, vì hắn luôn bị mặc cảm, nơm nớp là người ta sẽ chiếm chỗ ngồi hiện tại của hắn, mặc dù địa vị của hắn chẳng cao sang gì. Trưởng ban. Thế thôi. Nhưng hắn có tài nịnh hót cấp trên và nhất là xoay sở vặt vãnh đối với nhân viên. Tôi là kẻ chẳng may chân ướt chân ráo, ra trường, được thuyên chuyển về làm dưới quyền hắn. Vì không có kinh nghiệm về đời sống tập thể nên gần như tôi đã sống thuận theo bản chất, nghĩa là lừng khừng, coi khinh tất cả. Đâu ngờ, bản tính ấy đã khiến tên Trưởng ban của tôi khó chịu cho là tôi khinh rẻ hắn. Hắn để tâm và tìm cách đẩy tôi đi. Giữa lúc hắn đề nghị để đổi tôi đi là lúc hắn tỏ ra quí hóa và thăm hỏi tôi khác hẳn thường lệ. Tới chừng nhận được tin đổi đi, tôi mới ngã ngửa người. Tôi tìm gặp ông xếp lớn hơn để hỏi lý do. Ông này cho biết, ông cũng ngạc nhiên không ít, vì chính tay ông đã hai lần gạc bỏ đề nghị đổi tôi đi của hắn. Lần thứ ba, hắn lại làm đề nghị nữa và bảo, nếu không chấp thuận đề nghị của hắn thì hắn không thể làm được. Chẳng thể dừng, ông ta buộc lòng phải chấp thuận trên nguyên tắc. Nhưng vẫn có chút cảm tình với tôi, nên ông ta còn phân vân, chưa biết cho tôi đi đâu… Đi đâu, khi trên thực tế, tôi không có một lỗi lầm nào đáng để phải nhận lãnh hình phạt ấy. Ngay khi hay tin này, tôi báo cho Miện biết. Từ hôm báo tin đến nay, tình trạng tôi lấp lửng đã hơn nửa tháng. Tuổi trẻ dễ lo âu và cũng dễ quên, cần đếch gì, tới đâu hay tới đó, và tôi quên khuấy. Quên khuấy, nếu Miện không nhắc. Câu hỏi của Miện còn giúp tôi, nhớ lại một việc khá quan trọng đó là sự lựa chọn. Lựa chọn ở đây không phải ở tôi mà ở Miện. Tôi nhớ tôi có bảo Miện thế này: Bị đổi đi như vậy, chắc là đi xa, xa lắm. Chưa biết ngày nào trở lại. Vậy Miện hãy lựa chọn, một là yêu anh thì Miện theo anh. Hai là Miện ở lại. Ở lại và lấy chồng. Lấy đi, cái tên dược sĩ mới ra trường ở cách nhà Miện hai căn. Khi nghe tôi nói, Miện đã sững sờ đến mấy phút, trước khi bậc khóc nức nở. Miện bảo tôi như thế là anh không tin nơi tình Miện. Anh không tin chút nào nơi tình Miện nên anh mới bảo Miện chọn một trong hai điều. Thực ra thì không phải anh cho Miện chọn lựa mà anh chỉ coi đó là cái cớ để thử lòng Miện. Người ta không thể nhân danh bất cứ một luận điệu nào để thử thách tình yêu.Với tình yêu hoặc nhắm mắt tin theo nó hoặc không và rút chân ra. Thế thôi. Đừng bao giờ tìm cách thử nó. Nó có là vàng là bạc đâu mà phải thử để khỏi lầm với nhau… Báo hại tôi hết lời cải chính. Chỉ vì anh quá yêu Miện. Anh không muốn xa Miện. Anh muốn chiếm đoạt hẳn Miện. Miện đừng nghi ngờ cho anh như vậy. Tội nghiệp. Miện tấm tức khóc mãi cho tới lúc về. Khi tôi đưa Miện rời khỏi con ngõ tối, Miện ngập ngừng nói: Miện sẽ trả lời anh trước khi anh lên đường. Nếu anh thư thả được thì xin anh cho Miện một tháng. Tôi bần thần, ầm ừ không dứt khoát.
Trời bỗng đổ mưa. Cơn mưa bất thần làm không khí ngột ngạt. Căn nhà tối và thơm mùi ẩm mốc. Tôi kéo Miện ngả về phía tôi. Hai mắt Miện sâu, hàng mi dài khép hờ. Những ngón tay tôi vô tình chạm vào cổ Miện lạnh toát. Bất giác tôi nghĩ đến ngày chúng tôi xa nhau. Tôi buột miệng: Đừng bỏ anh nghe Miện. Đừng bỏ anh. Anh xin Miện. Miện quay hẳn mặt, áp vào ngực tôi. Đôi vai ốm o rung lên. Tôi thấy lạnh rồi âm ấm khi vải áo dán sát vào ngực. Đừng bỏ anh nghe Miện. Đừng bỏ anh. Anh xin Miện.
Một bàn tay, đi nhẹ từ từ lên ngực tôi. Những ngón tay dài cong như những cánh thược dược, cởi lần nắp túi áo. Một vật gì, mảnh giấy? Không, lá thư.
Một lá thư gấp đôi, lách len giữa hai lớp vải. Tôi nghe xót xa ở phía trái ngực. Chỗ trái tim. Trái tim tôi. Trong cơn điên cuồng, tôi siết ghì lấy Miện. Miện rẫy rụa, yếu ớt, tuyệt vọng.
Xướng ngôn viên truyền thanh vở tuồng Phạm Công – Cúc Hoa loan báo đến hồi quan trạng về kinh sau khi đã dẹp yên giặc, cùng lúc người đàn bà nạ dòng chõ miệng vào sân chửi đổng…
Những hạt mưa gieo đều và đậm ngoài thềm nhà, như thể không bao giờ dứt. Gió bắt đầu thổi luồn vào lòng con ngõ, ngang qua những vũng nước nhòe nhẹt bóng đêm. Nhưng không ai hiểu chúng muốn nói gì?
1967
DU TỬ LÊ