DƯỚI CHÂN SỰ SỐNG
Con phố hẹp lại với những tàn cây cao hắt bóng vào lòng đường. Nắng lênh láng ở cuối ngã rẽ. Tôi bước chậm. Thật chậm, mặc cho những ý nghĩ rời rạc, bềnh bồng như những cụm cây nhạt trôi trên khoản trời tím, ngó xuống khuôn viên hình chữ nhật, bên tay trái, mấy tấm băng đá phẳng, lì trơ nỗi buồn tẻ kín lặng. Thời gian chừng khựng đứng trên hai dãy nhà mút mắt.
Chả biết Tích đã đến chưa. Đến chưa. Tôi thầm hỏi cùng lúc với nhịp đập vội gấp hơn tiếng chân rơi, chậm thêm và trì nặng. Kể cũng kỳ thiệt, cứ mỗi khi nghĩ đến chàng, tôi lại thấy nóng ran trong thân thể, từng tế bào như nở lớn, ứ căng mùi thịt chàng, cái mùi ngai ngái của thuốc lá lẫn pha chút nào cái ngọt có thể cắn được của thứ ma túy đặc biệt đàn ông. Tôi cố trấn tĩnh bằng một hơi thở dài. Mắt mở lớn, thân cứng thẳng, ngực ưỡn ra. Ngã tư. Đèn bật xanh. Những chiếc xe trong nắng lốm đốm trên mặt nhựa, như những khoang mầu trên lưng một con rắn hoa trườn dài.
Bên kia đường, qua ngã tư này, là chốn hò hẹn. Không. Là hạnh phúc. Là mơ ước. Là tương lai. Là lẽ sống. Là… là… tất cả. Không tôi muốn nói đến chàng. Đến Tích. Đến người con trai có đôi mắt ướt và tối. Đến nụ cười nửa miệng. Đến vẻ buồn thoảng như một hơi khói bay mờ khuôn mặt thầm. Cái khuôn mặt luôn cho tôi ý niệm của một ngăn cách, một hố sâu, một bờ vực, mà dù gần mấy, tôi cũng vẫn chỉ là kẻ đứng ngoài, mà dù bằng lối nào, tôi cũng là kẻ đi quanh, quanh ven vườn chàng kín cửa. Nói vậy, có phần nào quá đáng chăng? Tôi không nghĩ thế. Dẫu sao thì nơi ấy có thể chẳng là gì cả, chẳng có chàng, chẳng có một chờ đợi nào dựng lên cho sự tìm đến của tôi. Nó là một khoảng chân không, một vùng ảo ảnh, một cõi nát tan, một sự gạt gẫm nhục nhã. Ồ không đâu, không đến nỗi thế đâu, biết đâu chừng, từ đó, tôi chẳng sẽ tìm thấy dung nhan mình qua tấm gương chàng, phản chiếu.
Tôi muốn nói về một cánh cửa nào trong tâm hồn tôi, một ngách đi riêng nào, vào đời sống tôi, đã bật mở. (Nó tự mở hay nhờ nơi những ngón tay khổ ải của chàng, nâng then bụi phủ). Sự bật mở hé ra một vùng trời chói chan hạnh phúc, thấm đầm yêu thương, nhũn mềm hơi thở này, cũng có nghĩa như một khép lại, một vùi chôn, những ngày qua bầm giập, những cơn mơ lẻ loi.
Bây giờ trong mỗi bước chân đi, tôi còn nghe được một dội vang mơ hồ từ một góc trời nào, dấu giầy ai vọng lại. Lời vọng lại như một nhắn nhủ êm đềm của tương lai, của sự sống, của khát khao quả chín tầm tay. Không những thế, nó còn mở ra cho tôi thấy một ngày mai, một ngày mai không giống bất cứ một ngày mai nào đã đi ngang đời tôi. Một ngày mai của đôi lứa, của riêng tôi, của hai cái gối (tự tay tôi thêu) trên một chiếc giường, một ngọn đèn đêm sáng lên cho một chờ đợi rõ mặt, một chờ đợi gọi được tên, một ngày mai đầu đời, sẽ không bắt đầu từ 6 giờ, 7 giờ nó có thể bắt đầu từ 2 giờ trưa từ 6 giờ chiều, từ nửa đêm, từ một cơn mưa bất thần, một ngày gió đầy, đem theo nhiều bụi cát, từ một cơn lốc lớn, phăng phăng trôi cuốn tôi đi, trên một giòng nước xiết.
Ở tấm gương chàng, lần đầu tiên tôi nhìn thấy tôi, trọn vẹn là một đứa con gái, một đứa con gái 19 tuổi, khi không bỗng khóc, khóc ngon lành trong tay một người xa lạ.
Tình yêu cho ta thấy những giọt lệ không phải chỉ luôn mang theo nó nỗi nhọc nhằn, buồn tủi, nó còn mang ý nghĩa của một điều gì khác hơn – một điều gì không là gì cả. Những giọt sương vô ích nạm trên một cọng lá xanh vô tình, kính trong một nẻo khuất. Nó có đấy không phải để cho ai kia nhìn ngắm, mà cho chính nó, chính nó thôi.
Cũng lần đầu tiên, tình yêu đã cho tôi nếm được vị ngọt ngào của hạnh phúc tôi mềm run trên đôi môi chàng cháy bỏng, và đó chính là điều tôi kinh ngạc. Quả thực tôi đã có một tình yêu. Quả thực tôi hạnh phúc. Quả thực những thứ đó có thật? Có thật như tôi đã sờ đấy, ngó thấy, đã nếm được bằng lưỡi mình đã ôm được bằng tay mình, đã thở được, bằng ngực mình? Phải xét lại. Hồ nghi lắm. Luôn luôn, dưới mắt tôi, đàn ông, con trai, đều là một bọn đểu cáng, một phường lừa gạt, một lũ lưu manh. Tôi nghĩ càng văn minh bao nhiêu, người ta càng quay về với bản năng cầm thú bấy nhiêu. Thời đại của thú tính, của vật dục. Đàn ông, một lũ, như vậy. Tôi biết có người sẽ kinh ngạc và cho rằng tôi chua chát vì chắc đã hơn một lần kinh nghiệm. Suy luận như thế quả có phần đúng. Đúng hoàn toàn không chừng. Nhưng trong trường hợp riêng, của tôi thì sai. Người ta sống không chỉ bằng kinh nghiệm nếm trải mà bằng thói quen và gương nêu của kẻ khác. Tôi nói với chàng trong một lá thư dài, những ý nghĩ phũ phàng đó, sau khi đã xin lỗi trước. Thú thực rằng tôi là một đứa con gái vốn mang sẵn trong máu một kêu hãnh ngấm ngầm về mình mặc dù tôi không đẹp, không những không đẹp mà còn có phần nào lập dị nữa? Bạn tôi chúng nhận xét thế và thâm tâm tôi nghĩ, cũng có phần nào xác đáng. Những lúc mất tự tin, đôi khi, tôi cho rằng kiêu hãnh là một mặt khác, của mặc cảm tự ty. Như cái bóng đeo dính con người thực là bản chất hèn kém, bất lực. Giữa lúc tôi bắt đầu có những băn khoăn, thắc mắc về người khác phái thì chàng xuất hiện. Sự xuất hiện của chàng không khốc liệt, khô bạo, như một cơn lốc lớn, cũng không bàng hoàng, thảng thốt, như những giọt mưa bất thần, nhỏ đẫm trong những cơn mê thơ trẻ. Sự đứng lại của chàng, trong khu rừng đời sống tôi, nhẹ nhàng kín đáo và âm thầm như một cánh chim bay lạc vào một sớm sương mù, một chiều cả gió. Sự có mặt như một tình cờ đến đỗi, khi nhìn lại mình, một phút giây nào, tôi đã choáng váng, hoảng hốt. Tôi đã yêu. Đã yêu. Tình yêu đã rút tôi lên đến đỉnh cùng gió nổi. Tôi lơ lửng, liệt tê tay chân, điếng dại cảm giác trong vùng lưới định mệnh. Tôi không còn là người trong một hý viện lớn, chăm chú theo dõi người làm việc, đi trên chiếc dây, hai đầu kéo căng về hai cực đối nghịch. Từ vô thức, tôi đã chọn lựa, dứt khoát. Sự dứt khoát, chuyển hóa từ vị trí của một khán giả, một khách bàng quang bước sang vị trí của một kẻ đem chính mình ra làm tên giác đấu với định mệnh. Trong tình yêu, chúng ta là kẻ mù, đi trên một sợi dây chỉ mục, một đầu buộc treo sự sống và một đầu cột thõng sự chết, không thể không bước, vì dưới chân là vực thẳm của tuyệt vọng. Phải đi về một phía nào đó, hoặc sự sống hoặc lẽ chết. Cả hai đều là một phần thưởng đáng giá và có ý nghĩa nhất cho mỗi đời người. Và tôi, khi yêu chàng, mặc nhiên đã là kẻ du chân trên sợi dây oan nghiệt đó.
Không ai có thể biết cái gì sẽ đợi mình ở cuối đường, nhưng vấn đề không quan hệ ở chỗ đó, mà chính là ở chỗ có đủ can đảm chọn lựa lấy cho mình một hướng đến, dù chọn lựa, ở đâu cũng vẫn không ngoài cam đành phó thác cho may rủi.
Nhưng nỗi chua xót của tôi, không phải vì không thể nhìn thấy trước, một tương lai nhất định phải có.
Cũng không phải tôi hoang mang, trù trừ vì tôi biết chàng khó có thể bảo đảm được cho tôi đời sống vật chất dư dật, nhất là trong thời buổi này.
Nói như vậy không có nghĩa là tôi lý tưởng, tôi viễn vông, lãng mạn vì đọc nhiều tiểu thuyết, thơ văn. Tôi thực tế lắm chứ. Có thực tế, tôi mới nhìn thấy chàng dù có không đủ sức đem đến cho tôi một đời sống sung túc, tôi vẫn tin vào sức làm việc, vào khả năng chuyên môn của nghề nghiệp mà chàng của tôi hiện có. Không một chút lạc quan, tôi nhìn thấy tôi trong tương lai, nếu cần có thể cưu mang nổi chính tôi và các con tôi, trong một đời sống đầy đủ. Nỗi đau đớn dằn vặt tôi, ở đây là thành kiến của gia đình tôi về những gì chàng là. Chẳng hạn như chàng người Bắc, người Bắc lại đang tại ngũ.
Đứng trên quan điểm riêng của ba, mẹ tôi thì, hai thân tôi, đã có lý, có lý lắm khi không muốn con gái mình sớm trở thành góa phụ, có lý lắm khi e ngại con chẳng may lọt vào tay của một tên sở khanh. Tôi biết ba mẹ tôi sẽ buồn và thất vọng vô cùng, nếu hay tôi yêu chàng. Yêu chàng, có khác chi yêu một người mà thân phận đã được gả bán cho tử thần. Yêu chàng, có khác chi yêu một điều nhục nhã, một tai họa, một cái chết trong những cái chết được nhìn thấy trước. Phải chăng, tình yêu tự nó, đã là một mù quáng, một lừa dối ngọt ngào, một đắm chìm chất ngất, một cái chết thèm thuồng. Là gì? Gì?
Ồ, có lẽ cũng quan trọng bằng chính bản chất của sự kiện, là tôi yêu. Yêu. Một chữ ấy thôi, đã là tất cả ý nghĩa của đời sống, hạnh phúc của loài người, ân sủng của thượng đế dành cho chúng ta. Tôi phân vân nhiều với ý định nói cho chàng nghe những thành kiến của gia đình tôi. Cuối cùng, bất thần, trong một giây khắc vượt ngoài sự kiểm soát của thần trí, tôi đã nói hết. Chàng nghe, nghe và cười lặng lẽ. Nụ cười nửa miệng, với hai hàm răng nghiến xít, như cắn vỡ những tiếng ầm ừ vừa trào lên khỏi cuống họng họ. Nụ cười nở ra, như một đớn đau chín mọng. Cái nụ cười không biết đã bao lần ném rục tâm hồn vào xoáy nước xót xa. Cái nụ cười cả trăm lần chờn vờn lay động giấc ngủ tôi, dật dờ mộng mị. Ôi, nụ cười, một lần nào đã thấp xuống, thấp xuống và nở ngát trên khuôn mặt đẫm ướt, thân thể tôi nhẹ bềnh trôi, mất dấu.
Nếu có những người được sinh ra để nhận lãnh mọi bất hạnh của đời sống, mọi thành kiến của đám đông, thì người đó là anh, nói theo giọng một người bạn thì anh là một vật tế thần. Nhưng anh nghĩ tình yêu tự nó đã đòi lấy cho nó, một cảnh đời riêng. Nó được kiến trúc với những quy luật không thành văn. Nó là đỉnh cao cuối cùng trên tất cả, nó ở ngoài lý trí, ngoài đám đông, và có thể ngoài luôn cả anh, ngoài luôn cả em.
Tình yêu là cái mà đời sống hằng tìm kiếm. Và như vậy, khi yêu anh, mặc nhiên em đã nhận lấy cho mình, một bất hạnh, một trách nhiệm về chính mình và một đời sống khác. Không phải người ta chỉ yêu nhau vì giống nhau như khuôn đúc, mà còn vì những mâu thuẫn có từ mỗi phía. Chính những mâu thuẫn đó, làm đầy đời chúng ta. Làm đầy đời nhau, trước khi theo nhau về cõi khác. Một cõi nào đó, có hay không, chúng mình cũng chẳng thể còn nhau. Anh không thể có em, ngoài đời sống này. Không thể Châu ơi.
Bao giờ sự chết cũng là một thách đố ngạo nghễ nhất đối với con người. Thách đố ngạo ngược này đã giúp chúng ta nhìn ra bản năng tiên thiên của mình vốn là bất lực. Bất lực. Nhưng chúng ta vẫn sống. Sống nhờ những hy vọng mỏng manh. Và những hy vọng đó chỉ ứ tràn trong tình yêu. Do đó, tình yêu, anh nghĩ như một ngôi mộ ấm áp mà anh luôn tha thiết, được chết cùng em, cùng em, dần mòn, trong ấy.
Tôi bảo Tích rằng vấn đề đặt ra với tôi, không phải là hồi kết của cuộc tình, hay những bất trắc của nó. Tôi sẵn sàng, tỉnh táo, nhận chịu mọi bi thảm, mọi đau đớn, xẩy đến bất ngờ, cho tôi. Nhưng tôi sống nào phải chỉ với mình tôi, đời sống tôi, ngày nay, sở dĩ có là cho nơi kết hợp của nhiều mảnh đời khác. Sự mớm truyền này, mang một giá trị thiêng liêng, một trói ràng cao nặng. Nó như một sợi dây chão quấn xiết quanh cổ tôi. Tôi rất ngại mẹ tôi buồn vì tôi, điều tôi chẳng muốn chút xíu nào. Người đã già rồi. Người đã âm thầm hy sinh trọn đời người cho chồng, cho con. Sự hy sinh ấy của mẹ tôi, và cũng là hầu hết phụ nữ Việt Nam thuộc thế hệ trước, có thể là một lầm lẫn, một vô ích, nhưng nhìn lại thì nó vẫn là một cái gì cao cả, vượt ngoài sức tưởng tượng và ý lực của tuổi trẻ hiện tại. Nó là sự quên mình, giết mình, giết mình cho đời sống no tròn của ai kia, khác hơn người. Mẹ tôi đã không còn giữ lấy cho mình một cá tính khả dĩ để người có thể nhận ra người trong đám đông trong ngôi nhà đang ở, mỗi một khi, người có thể tự thoát ra khỏi mình, để nhìn ngắm chính mình. Tôi kính trọng, và nghiêng mình trước hy sinh không cân nhắc ấy vào tôi nghĩ, từ bao năm, phải làm gì, gì cũng được, miễn sao cho mẹ tôi vui. Bởi đời sống của người bây giờ, chính là đời sống - sống ở nơi - chúng tôi. Ở mỗi một đứa con, mẹ tôi đã gửi vào đấy, phần nào đời sống chẻ nhỏ của mình. Chính tôi, cũng có cảm tưởng rằng mãi mãi, tôi còn sống với phần nào đời sống của mẹ tôi. Cái phần nào đó, có nhẽ lớn hơn nơi các anh, chị tôi. Và xót xa thay, mẹ tôi lại không mấy bằng lòng Tích. Tôi xin mở ngay một dấu ngoặc lớn ở đây, rằng, tôi không hề có ý định đưa lên bàn cân, hai khối lượng tình hiếu. Xin đừng vội hiểu thế. Vì tôi nghĩ mẹ tôi không là tôi (dù người yêu thương tôi rất mực) nghĩa là quan niệm về hạnh phúc, về đời sống, từ căn bản đã có nhiều dị biệt.
Vượt ngoài mức định nào đó, tình máu mủ sẽ trở thành một thứ dao hai lưỡi, một thứ dị dược đầu độc chúng ta chết lần trong yêu thương ứ tràn và hối tiếc trễ muộn.
Tôi không muốn sau này, trước phút nhắm mắt mẹ tôi còn nghĩ rằng tôi đã cưỡng ý người, tôi đã lầm lẫn khi dành lấy cho mình quyền tự định đoạt. Nhưng mặt khác, tôi cũng không muốn mẹ tôi chết đi mang theo mối ân hận vì quá yêu thương tôi mà bóp ngạt hạnh phúc tôi từ trong trứng nước.
Tích ơi nếu anh biết, vì yêu anh em đã phải chịu biết bao chua xót giữa ý thức làm vừa lòng mẹ cha và khuynh hướng tự nhiên của bản chất tình yêu sống cho đôi lứa vì yêu anh, vì yêu anh, anh biết không, em đã xô dồn tâm hồn em về với cô độc, về với dập bầm của những ngày tháng thảng thốt. Sự trở về ấy của em, anh có nghĩ không, chính là sự ra đi của Kinh Kha với con trủy thủ trên chín bệ rồng Tần Thủy Hoàng. Anh biết không, Kinh Kha sẽ trở về, nếu trên chín tầng cao, phút ấy, có tiếng sáo Cao Tiệm Ly bốc lên. (Trong đời Kha chỉ một lần múa gươm tuyệt hảo, khi Tiệm Ly nâng cao đoạn trúc).
Biết anh có mãi tiếng sáo Cao tiệm Ly để ngọn kiếm Kính Kha thoát bay khỏi vỏ.
Tích ơi. Anh biết không. Cánh cửa đời em đã mở. Đã mở lên một vòm trời, một cõi khác. Cõi ấy, anh hiện ra, như một hạnh phúc hiếm hoi và bất trắc. Một bước chân run trên những vòng cong lận đận, một gọi kêu mơ hồ về những dấu tích chưa hề, một lần, in dấu trong đời em. Anh. Anh. Anh biết không. Sự thực. Sự thực về em. Về cuộc tình chung này. Sự thực về một chấp nhận ra đi của Kinh Kha. Chân em, đã đặt lên bờ bên kia Dịch Thủy. Anh nhìn thấy không em yêu anh. Tình yêu anh đang cháy bốc thành lửa ngọn, đủ nung nấu đất đá thành thịt xương, đắp nên con người em, bốc hơi mạch nguồn thành máu chảy rộn rã trong tim em. Rộn rã, một niềm yêu anh. Vì anh là anh.
Tôi băng qua đường. Buổi trưa chín nhũn trên mặt nhựa sủi nứt chảy dưới bánh xe lăn. Tiếng còi nhấn gấp gáp, một khuôn mặt nhăn nhó thò ra. Ngoái lại. Tôi cúi nhìn vạt áo mình bay trong yên lặng. Sau tấm kính lớn kia, tôi nghĩ chàng đang hút thuốc và vẽ trong trí tưởng, một ngày nào, chúng tôi sẽ có con.
Gái đầu lòng nghe anh. Và để nó giống em thích ăn… me ngào và những trái cóc chua đến chảy nước miếng. Phải thế không hay anh lại đang nghĩ đến một hình bóng nào trong dĩ vãng. Thí dụ, Huyền.
1968
DU TỬ LÊ