NỌC ĐỘC
1.
Bất đưa chàng lại gặp tôi tại lưu trú. Tôi không nhớ rõ ngày tháng, nhưng cách đây không lâu lắm, và hôm ấy là sáng Chủ nhật. Phải rồi sáng Chủ Nhật, cũng vào một ngày hè. Trời không lạnh đối với những người đã sống quen. Tôi còn nhớ rõ lúc thành phố bắt đầu vào mưa. Mưa đầu mùa ở thị trấn này, không giống như những ngày mưa ở Saigon, bất thần và nặng hạt. Những hạt mưa ở đây có lẽ cũng giống phần nào với tâm tính dân cư ngụ, kín đáo và lặng lẽ. Hạt nhỏ và dai dẳng. Dai dẳng như những cơn mưa ngoài Bắc, hay những ngày mưa ở Huế. Khi chị trực nhật vào phòng gọi tôi, bảo có thân nhân ở Saigon mới lên, tôi đã ngạc nhiên không ít. Ai? Ai? Tôi thắc mắc tự hỏi. Không lẽ bà cụ, hay thằng em. Vô lý, mới tuần trước mình nhận được thư gia đình có thấy đề cập gì tới chuyện lên đây đâu. Tôi vứt cuốn truyện vào góc giường, đứng dậy, vuốt lại quần áo, chải sơ tóc rồi đi ra.
Tới phòng khách, tôi nhận ngay ra Bất. Bất ngồi day mặt vào phía hành lang dẫn vào phòng tôi. Chàng ngồi quay lưng lại không thấy mặt, nhưng cái dáng là lạ làm tôi chú ý. Tôi cười và rảo bước. Bất đứng dậy, hai tay xoa xoa chờ đợi. Tôi tiến đến sát gần. Chàng đang ngả lưng gần như nằm nửa người trên sa lông, bật dậy. Bất đưa tay chỉ chàng giới thiệu: anh Khoan, bạn anh, làm thơ, ở Saigon. Và đây (Bất chuyển bàn tay, xòe về phía tôi) cô Nhạn, sinh viên năm thứ hai Kinh Tế Doanh nghiệp. Chàng nghiêng đầu, miệng nhếch nụ cười. Cử chỉ của chàng làm tôi khó chịu. Tôi nghĩ bụng anh đến đây là anh muốn gặp tôi chứ tôi đâu có cần anh. Chắc đâu tôi đã nhận anh làm bạn mà anh đã có vẻ làm bộ. Tôi không nói, chỉ gật đầu chào lại. Chúng tôi ngồi xuống ghế.
Bất kể cho tôi nghe Bất lên đây từ chiều Thứ Sáu. Suýt nữa thì thành Kinh Kha bất đắc dĩ. Tôi không hiểu. Bất cười ròn, giảng giải: Anh nói thế có nghĩa là suýt nữa bị mấy ông ấy cõng đi, ở chỗ Rừng Lá. Bọn này đi xe đò mà. Anh liều quá. Tôi buột miệng. Đi thế có ngày hối không kịp đó.
Bất là người yêu của một người bạn cùng lớp tôi. Nó tên Dung. Gia đình nó cũng ở đây. Nó quen Bất trong trường hợp nào tôi không biết. Nhưng năm ngoái nó giới thiệu tôi với Bất, khi Bất lên thăm. Vì chuyện hai người yêu nhau rõ như ban ngày, nên tôi coi Bất như một người bạn trai, hay đúng hơn là một người anh. Mỗi lần lên thăm Dung, Bất đều ghé qua tôi. Thường chúng tôi cùng đi chơi chung. Nếu tôi nhớ không lầm thì đôi khi Bất cũng có nhắc tới một người bạn mà Bất bảo là thân nhất, làm thơ và Bất thích thơ của người này. Vì thơ của anh ta buồn buồn. Cái buồn phảng phất như tâm trạng chung của hầu hết thanh niên trong giai đoạn hiện tại. Tôi không thích thơ, nên chẳng mấy chú ý. Chả biết có phải người ngồi trước mắt tôi đây, là người mà Bất đã nhiều lần nhắc tới?
Hôm ấy, chàng mặc một tấm áo nhà binh dầy. Hai cầu vai được cắt bỏ và còn xơ mấy sợi chỉ ở hai mẫu vải may chết ngoài cùng. Bên trong, chàng mặc thêm chiếc áo len cụt tay cổ trái tim, mầu lam. Mái tóc để dài và đôi mắt ướt. Chàng có dáng điệu của một đứa trẻ mới lớn nhiều hơn một thanh niên. Cách ăn mặc của chàng, cho tôi có ý tưởng ngộ nghĩnh là nếu chàng đi dạo phố, chắc chắn cái tẩy là người phương xa sẽ lộ ngay. Tôi muốn nói chàng sẽ bị lạc lõng, bởi cái vẻ ngô nghê, mán xá của chàng. Hình như chàng bị mất bình tĩnh vì cái nhìn soi mói của tôi. Tôi thấy chàng lúng túng với điếu thuốc cháy dở. Mặt chàng cúi thấp. Mắt nhìn lặng lờ vào chiếc gạt tàn bằng thiếc có in nhãn của một hãng thuốc lá trên mặt, bằng gỗ. Tôi hỏi thăm Bất về Dung. Bất bảo, dĩ nhiên đã đi thăm cô bé rồi. Và anh có nói với Dung là chúng mình nên làm một cuộc đi chơi gần gần đâu đây, để cho anh bạn anh được ngắm ít phong cảnh của xứ anh đào. Tôi cười, nói nhát gừng. Chiều nay, chắc Nhạn bận. E không đi với anh được. Bất tỏ dấu ngạc nhiên. Tôi thoáng thấy môi chàng mấp máy, hai con mắt sâu ướt và lay động. Chàng ngước nhìn tôi nhanh và kín đáo. Xong làm bộ quay ra sân sỏi. Tôi cũng nhìn theo hướng mắt chàng. Trời còn mưa nhỏ. Những hạt mưa bụi vương dầy trên những tàn cây điệp. Những khóm cúc, những cây hoa bất tử, những cánh bạch huệ vươn lên, như muốn rướn mình cao hơn nữa để tiếp nhận nhiều thêm, những hạt bụi mưa bé xíu lóng lánh như những vụn thủy tinh. Dấu giầy lộn xộn trên bậc thềm. Ở một góc nhà, phía bên kia cửa, hai con bạn tôi, không hẳn là bạn nữa, chúng cũng ở lưu trú, nên quen mặt và quen tên, đang lầm lì với những đường kim đan. Chắc các cô ả sốt ruột đợi người tình. Thỉnh thoảng chúng nó dừng tay, liếc sang bàn tôi. Bắt gặp ánh mắt tôi, chúng nháy nháy, như muốn hỏi: Bồ đấy phải không? Tôi gật đầu đáp lại và mỉm cười nghĩ tới cái trò lẩm cẩm của mình. Bằng lời lẽ thống thiết với những lý do to tát, chính đáng, Bất đi đến kết luận: Thế nào Nhạn cũng phải đi. Buổi chiều nay, nếu không có Nhạn, cuộc đi chơi sẽ không thành. Và cả những ngày nghỉ ở đây cùng với sự liều lĩnh suýt nữa thì… vong mạng sẽ trở thành vô nghĩa. Anh đẩy Nhạn tới một chỗ ngồi quá cao đấy nhé. Đừng đặt Nhạn vào cái thế khó xử đó chứ. Tôi bảo vậy, Bất cãi. Không, Nhạn nhầm rồi. Anh không có ý đặt Nhạn trước một bắt buộc, không lựa chọn. Anh chỉ trình bầy và kêu gọi.
Chàng vẫn không hé răng một lời với tôi. Nếu không có Bất, chắc tôi đứng dậy, đi vào phòng từ lâu rồi. Người đâu mà thiếu xã giao thế. Ý nghĩ chàng không ưa tôi, hay chắc chàng thất vọng khi gặp mặt tôi nên chán nản không muốn nói năng gì làm tôi cảm thấy tự ái tổn thương. Dám trước khi gặp tôi, Bất đã nói nhiều về tôi với chàng. Bất đã nói quá chăng? Có thể lắm. Suy luận này, đưa tôi đến chỗ bực dọc, khó chịu. Tôi nghĩ mình không thể nhận lời đi chơi được. Đâu để người ta khinh mình dễ dàng thế. Tôi dù không ra gì dưới mắt chàng, nhưng tôi đâu có thèm. Tôi đâu đến nỗi ế. Chắc chắn không thể đi được đâu. Xin anh Bất đừng buồn. Bất thất vọng, mặt xị ra, miệng méo đi: Sao vậy? Nhạn có thể cho anh biết lý do được không? Lý do, làm sao tôi nói thực với Bất những điều tôi đã nghĩ. Không, đời nào. Giữa lúc tôi còn đang phân vân, tìm lời thoái thác, chàng ngồi ngay người, tay phác một cử chỉ, như để lấy thêm bình tĩnh, tự chủ. Chàng nói: Thôi, Bất. Đừng làm phiền cô ấy. Một khi cô ấy không muốn. Moa chắc là cô ấy có thêm moa trong cuộc đi chơi chiều này nên cô ấy từ chối đấy mà. Giọng chàng thấp, có thể nói là thật thấp, đều và kéo dài. Phản ứng của tôi là bác bỏ ngay lời kết tội đó. Miệng tôi nói nhưng lòng thì hơi nôn nao, xao xuyến. Nôn nao bởi thấy dự đoán của mình có vẻ sai và xao xuyến vì giọng nói của chàng đượm ít nhiều trách móc, hờn giận, xa xôi. Tôi nhìn chàng, cùng lúc với cảm giác lâng lâng thư thái, vì tự ái được xoa dịu một phần, cũng như trong tôi chợt thoáng gợn một chút gì trắc ẩn, vu vơ… Lời bác bỏ của tôi có lẽ là một cái cớ mới, cái đà để Bất bó buộc tôi phải nhận lời. Bây giờ thì tôi có thể nhận lời được rồi. Tôi tự nhủ và bảo với Bất rằng: Để anh…bạn anh khỏi hiểu lầm về Nhạn, Nhạn xin nhận lời đi chơi chiều nay với các anh. Dù có bận công việc nào cũng bỏ. Bất thêm vào. Tôi gật đầu, vâng, dù có có bận đến đâu. Bất cười hỉ hả. Chàng đốt tiếp điếu thuốc khác. Tôi nghĩ tình cảm con người như cái chong chóng tùy theo chiều gió. Nhất là đối với phụ nữ, một khi lòng trắc ẩn và tự ái được mơn trớn, tâm hồn họ lúc ấy rất dễ chao nghiêng, lật úp như chiếc thuyền bị dòng nước xoáy. Chàng hỏi tôi về việc học. Tôi bảo vì không có khả năng gì, nên ghi tên theo đại cái chứng chỉ Kinh Tế Doanh Nghiệp, chứ thực ra tôi cũng không thích gì nghề thương mại. Tôi chả muốn gì hơn ngoài một cuộc sống êm đềm, bình lặng. Có phải chăng tâm hồn tôi đã sớm cằn cỗi. Ý thức hay bản chất đua tranh của tuổi trẻ đã sớm lụn trong tôi. Bất nói: Người ta thường cho rằng tuổi trẻ V.N. phải được cộng thêm hai mươi năm chiến tranh nữa mới đúng tầm vóc của nó. Chàng cười buồn: Chúng ta đâu có tuổi trẻ để mà cộng. Chúng ta chỉ có quá khứ, một quá khứ đục lầm, nhơ nhuốc và một hiện tại chập chờn những đe dọa phản trắc, lường gạt. Cái mong mỏi của Nhạn cũng là mong mỏi chung của đa số thanh niên chúng ta hiện nay. Tôi chỉ muốn nói số đông thanh niên. Cái số đông này phải được kể tới là những người hiện cầm súng, đồng thời cầm luôn trong tay họ một trái lựu đạn nổ chậm.
Tôi muốn nói về cái chết bất thần luôn đe dọa họ. Nhưng họ một khi đã cầm súng, đã chọn con đường đó, họ thản nhiên và không hề thắc mắc. Số còn lại họ sống vội, sống trước cuộc đời họ. Tựu trung, thì ở lớp tuổi nào, chúng ta cũng không sống đúng đời sống của mình. Chúng ta đi trước tuổi mình và khi chúng ta bước đến đúng cái tuổi mà chúng ta phải sống thì chúng ta không còn gì nhìn ngó nó nữa. Chúng ta tiếp tục cái đà phóng tới cũ. Chúng ta thường chỉ thấy bóng chứ ít thấy hình dạng thật.
Lý luận, có thể coi như vậy, hay sự nói nhiều đột ngột của chàng làm tôi choáng váng. Tuy nhiên tôi cũng đủ bình tĩnh để phản kháng một cách yếu ớt. Nhạn không tin rằng chúng ta không có tuổi trẻ. Nếu tuổi trẻ được căn cứ trên một số yếu tính như vô tư, hăng say, yêu đời… Chàng mỉm cười, Bất cướp lời: Bằng vào chính những căn bản Nhạn vừa đưa ra thì không một yếu tố nào giúp mình nhận ra tuổi trẻ. Nó phản Nhạn ở chính những cái mà Nhạn vừa nói. Không. Nhạn đâu có ý muốn nói Nhạn. Nhạn muốn nói những người khác cơ mà. Tôi cãi. Thì cho là những người khác, nhưng Nhạn có là họ đâu mà Nhạn dám chắc họ không có những giây phút ưu tư, Nhạn có là họ đâu mà Nhạn dám quả quyết là họ yêu đời. Nhạn không là họ thì Nhạn không thể chắc họ đã nghĩ gì khi đêm đêm tiếng súng vọng vào giấc ngủ. Khi những người anh, những đứa em một sớm ra đi không về… Đã đành chúng ta có thể dùng phương pháp suy bụng ta ra bụng người. Nhưng một khi bụng ta không mấy hoan hỉ thì đừng bắt người khác phải hoan hỉ chứ. Tôi bật cười, nói đùa với chàng: Chắc mai mốt tôi phải đổi môn học, quay về học luật để cãi nhau với anh mới được. Chàng cười, nụ cười vẫn buồn và xa xôi. Thực tế cho chúng ta thấy nhiều cái phải học mà trong nhà trường đã quên hay không đủ thẩm quyền chỉ dậy chúng ta. Chàng vừa nói vừa nhìn ra ngoài. Mưa từng hạt nhỏ, đều, thật đều, như những vụn thủy tinh rắc trên những cánh hoa và bụng lá ngửa xanh.
Bất nhìn đồng hồ. Chàng đốt thêm thuốc, vo cái bao không trong bàn tay xạm đen, nổi gân. Chúng tôi đứng dậy. Thật sung sướng được gặp Nhạn buổi sáng nay. Nhạn là người con gái đầu tiên mà tôi hằng ao ước được quen, trên này. Chàng nói khi bước xuống bật thềm. Gió thoảng hơi thở chàng, phả vào mặt tôi đầy mùi thuốc lá khét. Tôi rùng mình, mưa hắt trên mặt lạnh buốt. Tôi cười lặng lẽ, liếc Bất. Bất xăm xăm bước đi.
Tôi đứng nhìn theo dáng chàng gầy gò, đổ nghiêng trên con dốc dẫn về chợ. Bên kia đồi, những cánh hoa pensee đỏ ối. Cái lạnh luồn lọt vào thân thể tôi, gây gây, ơn ớn. Tôi trở vào, cúi mặt, nghe những bước chân mình rơi chậm.
2
Chiếc Land Drover mang số VA vòng quanh phố chợ. Trời không mưa nhưng không gian xỉn màu tro xám. Mới hai giờ mà đã như chiều về. Dung nói với tôi. Bất chăm chú lái xe và như say sưa với chiếc xe mới mượn được. Cả một kỳ công đó. Bất khoe mượn được của thằng trưởng ty quan thuế đâu phải là chuyện dễ. Một mình chàng ngồi ở băng sau. Chàng lại lầm lì, ít nói. Tôi quay lại mấy lần tính gợi chuyện với chàng, nhưng nghĩ mãi không ra chuyện gì. Xe lên một ngọn đồi, rồi đổ dốc về con lộ xuôi ra ngoài thành phố. Những hàng dây điện mắc song song, chạy dài trên những trụ đèn thâm xám. Mây thấp và nặng. Những rặng thông vùn vụt tiến đến rồi lùi sau xe chúng tôi. Chàng vẫn ăn mặc như hồi sáng, chỉ khác, thêm chiếc áo mưa mầu cà phê sữa, khoác ở tay. Thành phố mất hẳn sau lưng chúng tôi. Bất bắt đầu cho xe chạy chậm. Đường nhồi xóc khó đi hơn. Tôi nghiêng người, nói với chàng: Còn chừng hai cây số nữa. Chàng mỉm cười gật đầu. Chợt chàng đập tay lên vai Bất. Bất không quay lại, hỏi: Gì thế toa? Chàng nhoài người, tỳ tay lên thành ghế trước: Moa có ý nghĩ hơi buồn cười. Chàng nói, mặt vẫn nghiêm trang, lặng lẽ. Moa cho rằng kẻ nào nghĩ ra chữ Suối Vàng kể cũng hay. Dung góp lời: Không phải đâu anh. Tại lòng con suối có cát mầu vàng nên dân trong vùng gọi nó là Suối Vàng. Lâu dần tên ấy thành quen. Có lý đúng thế đấy. Bất thêm. Cách đây mấy năm, đã có một phong trào đi đào vàng, do một nhóm người mạo hiểm từ Saigon lên, họ định theo mạch suối, tìm đến ngọn nguồn, để từ đó lần tìm xem cát từ đâu mà có. Một nhóm khác cũng đi tìm vàng nhưng nhóm này lại cho rằng, ngày xưa, trước khi Nhật giải giáp, đầu hàng Đồng Minh vô điều kiện, một anh quan Nhật đã vơ vét được rất nhiều vàng bạc châu báu của dân V.N.., Nhưng không dám đem ngay về nước, y đành đem chôn ở một địa điểm gần ngọn suối này. Sau đó loạn lạc liên miên, viên quan Nhật chết bất thình lình, không kịp trối trăn lại cho con cháu. Vì thế kho vàng vẫn ẩn sâu dưới đất cho đến ngày nay. Lý do mà người ta thấy lòng suối có nhiều cát vàng được giải thích là kho tàng kia chôn hấp tấp không tính trước nên đã đặt trúng vào mạch nước ngầm. Do đó năm này qua năm khác, nước chảy xiết qua kho vàng và bào mòn một số vàng, thành những vụn nhỏ. Mạch nước này chảy vào con suối chúng ta sắp tới đây.
Tôi chăm chú nghe Bất nói, và thầm nghĩ Bất có lý. Hình như chính tôi, cũng đã hơn một lần được nghe ai kể đại khái như vậy, chỉ khác một vài chi tiết nhỏ.
Bất vừa dứt lời. Chàng lắc đầu: Ý moa đâu muốn nói về nguyên ủy hay những huyền thoại của con suối này đâu. Moa chỉ muốn nói: Chúng ta thuộc loại người đứng ngoài cuộc. Nghĩa là chỉ thích xem. Xem ngắm và không muốn tham dự. Trong khi những kẻ tham dự, thực sự tham dự, lại không hề nghĩ tới việc soi ngắm mà họ hành động. Suối Vàng (chàng đột nhiên nói to, giọng hơi đượm mỉa mai) nơi đến của tất cả mọi người. Chỉ khác nhau thời gian và cung cách bước tới. Chàng ngừng nói đột ngột. Không khí nặng nề. Tôi không hiểu chàng muốn nói gì và dụng ý chàng khi nhấn mạnh hai chữ suối vàng.
Bất tìm chỗ đậu xe. Chúng tôi bước xuống. Trời nhẹ và mềm với những cụm mây nhạt. Thung lũng với những cây cao vút, ngổn ngang những ụ đất đỏ. Những khóm lau xào xạc, ngả nghiêng theo từng con gió tới. Bọn chúng tôi không đứa nào nhớ rõ đường đi.
Đây mới chỉ là chỗ dẫn xuống Suối Vàng thôi chứ chưa phải là suối…vàng. Bất khôi hài. Những ngày mưa vừa qua đã làm mờ dấu tích con đường mà trước đây chúng tôi đã đi. Cỏ mọc xanh mướt và trong suốt như trong những cọng cỏ ấy có chứa rất nhiều nước suối. Hình như có tiếng suối chảy. Chàng nói và chỉ tay xuống thung lũng. Tôi gật đầu. Dung đưa ý kiến: Chúng mình nên nhắm hướng tiếng suối reo mà đi. Nếu cứ đứng đây thì hết ngày cũng không tìm ra lối đâu. Cỏ ở đây mọc nhanh lắm. Bất gật đầu: Chỉ còn mỗi cách đó. Các cô ở trên này mà còn chịu thì bọn tôi làm sao kiếm ra.
Dốc thung lũng thoai thoải nên cũng không khó đi lắm. Nước đọng dưới những lớp lá mục ứa chảy dưới mỗi bước chân tôi. Càng xuống sâu, độ dốc càng giảm, nhưng lại khó đi hơn vì những cành cây chặn ngang và những đám dây leo chằng chịt. Chàng phải bẻ một cành cây nhỏ để gạt đường cho tôi đi.
Chừng nửa tiếng sau, chúng tôi nghe rõ tiếng suối chảy và đã bắt đầu gặp những lạch nước nhỏ tẽ ngang, tuôn ra từ lòng đất. Cứ mỗi lần gặp con lạch như vậy chàng lại nhảy qua trước và đưa cây gậy cho tôi nắm làm đà nhảy. Không dặn mà chúng tôi như đã ngầm thỏa thuận với nhau: Bất lo cho Dung và chàng lo cho tôi. Những lần chàng đưa gậy cho tôi nắm, rồi giục tôi nhẩy qua hay chỉ cho tôi những chổ phải tránh, trong giọng chàng, tôi đọc được một cái âu yếm. Một tỏ lộ không thành hình, không thể hiện, nhưng đủ cho tôi cảm được cái tình ý nhẹ nhàng đang nhen lửa. Tôi theo sát chàng từng bước. Mùi thuốc lá mà hồi sáng tôi thấy nó hơi khen khét lúc này với tôi không còn là cảm tưởng nữa. Rõ ràng là nó khét, nhưng cũng vương vất một mùi thơm dịu, quyến rũ. Nó phủ lấp mặt tôi, mỗi khi gió thổi tới. Tôi hít từng hơi, một cách âm thầm lén lút. Tôi nhìn thấy trong đó, một hạnh phúc, một vui sướng hân hoan, khó tả. Cái mùi ngai ngái vì trộn lẫn bởi thuốc lá và mồ hôi. Cái mùi nồng nồng, ngát ngát… Cái mùi gì…Ờ tôi không thể gọi đích danh nó được. Chỉ biết là một cái mùi lạ và muốn gần... Chốc chốc, chàng quay lại nhìn tôi thăm chừng: Nhạn mệt lắm không? Dù có mệt mấy cũng tiêu tan. Tôi bảo, tự dưng lần này đi chơi tôi không thấy mệt mỏi chút nào. Tôi cũng hỏi chàng sao trông gầy gò vậy mà có sức chịu đựng dẻo dai thế. Chàng đáp: Người ta có thể làm chuyện phi thường, hay vượt sức mình khi có động lực thúc đẩy. Động lực có cường độ cao và kiến hiệu nhất là động lực lý tưởng và tình cảm. Một phần nữa do thói quen chịu đựng.
Thêm một đỗi xa, đường đi đầu bằng phẳng và ngổn ngang nhiều tảng đá xanh xám. Suối đã hiện trong tầm mắt chúng tôi. Dung reo hò như một trẻ nhỏ. Tôi nhìn chàng, nói: Suối đó anh. Lời thoát bay rồi, tôi mới chợt nhận ra câu nói của mình thật ngớ ngẩn.
Nắng chiều vàng ánh trên những cành cây sa gần mặt suối. Nước trắng xóa, tung cao ở mỗi chân đá, chặn ngang dòng. Bất xăm xăm tiến tới. Chúng tôi chọn một ghềnh đá lớn, trải áo mưa. Chàng ngồi sát mé suối. Bất đứng thẳng người, vươn vai, hít một hơi dài. Tôi phụ với Dung bầy những chiếc bánh ú và những quả mận chín da căng, mọng nước. Bất ghé ngồi bên Dung. Hai người nói nhỏ với nhau những gì, tôi không nghe rõ. Nhưng liền sau đấy, họ cùng nhìn tôi, cười. Nụ cười hóm hỉnh làm tôi nhột nhạt mà vẫn không thể bực mình được. Tôi bối rối nhìn quanh. Suối vẫn ầm ầm như trùm phủ trên đầu chúng tôi. Những tiếng động này nghe được từ trên cao, thật cao rơi xuống. Bất lên tiếng gọi chàng: Lại đây chứ Khoan ơi. Chàng đứng dậy. Bóng in thẫm trên nền xanh cây lá và đá rêu. Dung tiếp: Mời anh lại sơi mận rồi hãy làm thơ. Chúng tôi phá lên cười. Tiếng cười chạy ùa vào khoảng không trong vắt và dội lại lẫn cùng tiếng suối reo. Chàng lắc đầu, mỉm cười, bẽn lẽn như con gái. Không khí vui nhộn của tuổi trẻ đến thật nhanh. Dung bóc bánh cho Bất. Nó bảo tôi: Còn mày, kìa, bóc bánh mời anh Khoan đi. Bộ ngồi chơi ăn sẵn đấy hả. Lối pha trò của Dung giúp tôi thêm tự nhiên và gần chàng hơn. Chàng bảo: Đã từ lâu vẫn được nghe anh Bất khen Dung hát hay, vậy bây giờ nếu không chê chúng tôi là những kẻ thô lậu thì xin cho được nghe một bài. Ừ Dung hát một bài nghe đi. Tôi reo lớn. Bất nhìn Dung, lộ ý tán thành. Dung nhận lời với điều kiện lần lượt, ai cũng phải hát hoặc kể chuyện. Dung bắt đầu bằng bản Tô Châu Dạ Khúc. Tôi áy náy lo tới phiên mình quên cả thưởng thức giọng hát nũng nịu, nhè nhẹ như kể lể than van kêu cầu của nó. Tôi chỉ nơm nớp lo tới phiên mình, vì tôi ngồi ngay bên cạnh Dung, tính theo vòng tay phải Dung vừa dứt lời ca, nó chỉ tôi tức khắc. Nó càng đắc trí cười bao nhiêu, tôi càng cuống quýt bấy nhiêu. Mặt tôi nghệt ra. Óc tôi trống loãng, như không còn chứa đựng một chất liệu nào. Sáu cặp mắt nhắm về tôi chằm chằm. Tôi nhìn chết những ngón chân ló ra khỏi dép, đỏ ửng. Dung ái ngại. Nó không cười nữa. Nó nhắc bài Đồi Thông, bài mà tôi đã hát trong đêm văn nghệ tại sân viện Đại học hồi tất niên năm ngoái. Tôi mừng rỡ: Ừ, thôi, để Nhạn hát bài Đồi Thông.
Tôi biết giọng tôi không hay và hơi ngắn, không bằng Dung. Nhưng tôi tin ở cái buồn buồn, phảng phất trong mỗi lời tôi hát ra. Đúng hơn tôi thường hát với tất cả cảm xúc, tất cả tâm hồn dễ sầu khổ và mau nước mắt của mình. Tôi rào đón trước là tôi nhớ không hết. Hát được tới đâu hay tới đó. Bất sốt ruột: Nửa bài cũng được. Khi người ta hát hay ngâm bài thơ thì đó chỉ là cái cớ, là phương tiện, chuyển đạt một tâm sự một u uẩn hay một bày tỏ, hoặc để thỏa mãn bản chất lãng mạn của mình. Dĩ nhiên, trường hợp này, không có ở những tay hát nhà nghề. Tôi bắt đầu và không nhìn chàng. Nhưng tôi có cảm tưởng mắt chàng không lúc nào rời tôi.
Tôi cố tình ngân dài và rõ câu chót của bản nhạc: “Vì đời ai biết ai hơn mình”. Cùng với tiếng hát dứt. Cả một cảnh tượng cô đơn mù mịt vây trùng lấy tôi. Ở đó là bất lực, ở đó là chia tan, là nỗi tuyệt vọng ngút đỉnh của thân kiếp làm người, cái bùi, ngọt, se sắt cả hồn tôi. Suối róc rách vỗ vào chân đá. Chiều ở vùng cao, nghiêng xuống nhanh và buồn bã. Khoan bảo: Thế là đủ. Không ai nên làm gì thêm nữa. Thế là đủ rồi. Tôi lên tiếng phản đối. Đòi một công bình. Nhưng phản kháng của tôi yếu ớt vì không có người hưởng ứng.
Chúng tôi ra về lúc trời chạng vạng. Chiều xứ lạnh nghiêng xuống thật nhanh. Không ai nói với nhau lời nào nhưng tâm như cùng đồng ý với nhau về một điềm gì đó. Lúc ra tới gần mặt lộ, tôi thấy một con rắn nhỏ băng ngang trước mặt. Tôi hét lên và ríu bước. Khoan đi sau, vội tiến lên. Chàng đi sát bên tôi. Hút thuốc và kể cho tôi nghe những ngày thơ ấu của đời chàng. Chàng bảo: Thế nên tôi thích trong bài hát vừa rồi, của Nhạn, câu nói về tuổi nhỏ. Chàng lập lại nguyên văn lời nhạc “Tôi nhìn thơ ấu ra đi. Như nhìn ai đó xa lạ. Một ngày một vắng. Mịt mù. Hoài công tìm kiếm trên bước đi thăng trầm…” Trong giọng chàng như có lẫn tan cả bóng đêm. Bóng đêm rét mềm, khoác kín.
Trong quán ăn, tường bằng kính mở về phía bến xe đò, tôi chan cho chàng những thìa canh cải cúc đặc biệt của Đà Lạt. Khói bốc mờ khuôn mặt xanh xao, rạng rỡ. Tôi thấy chàng mỉm cười. Nụ cười đắm đuối một cảm tình đã chín tới. Tôi và cơm vào miệng và luôn cả nụ cười tỏ tình kín đáo ấy. Xứ lạnh là đất tốt để ươm những hạt giống tình ái. Tôi nôn nao khi nhớ tới câu nói đó, không biết của ai.
- Nghĩ gì mà thừ người ra vậy Nhạn? Tôi ngước nhìn Khoan. Khuôn mặt chàng lặng lờ, như tấm vải mỏng.
Con đường trước mặt chúng tôi, uốn cong và vòng xuống phố chợ. Trong hơi sương đục nó có dáng của một thiếu nữ khỏa thân, chân ruỗi và hai tay vươn khỏi đầu, tóc cũng trắng nhờ, chảy trôi xuôi. Tôi nhớ tới họa phẩm chụp lại in trên một tờ tạp chí.
- Anh thấy con đường trước mặt không? Tôi hỏi Khoan. Chàng gỡ điếu thuốc khỏi môi, lơ đãng nhìn sang bên kia hồ nước:
- Thấy chứ. Nó giống như một cái vạt áo dài.
Tôi bật cười
- Anh phải nói thêm là vạt áo dài như Nhạn đang mặc đây mới được.
Chàng ừ nhiều tiếng trong miệng. Mặt chàng thấp xuống, sát kề cổ tôi. Hơi thở nóng làm tôi rùng mình. Tôi rúm người như một con sâu đo. Tôi có cảm tưởng như hồn mình chong chành muốn lật úp… Tôi đẩy chàng ra bằng ngón tay run rẩy, yếu đuối. Chàng không nói gì, nhưng nệm cỏ dưới chân tôi, con đường trước mặt tôi, chiếc cầu sau lưng tôi, và tàn cây đang che phủ lấy tôi, như đã nói giùm chàng những tiếng yêu thương mà tôi đang trông đợi. Và, có lẽ chỉ một mình tôi nghe được những tiếng nói âm thầm, mịn ngọt ấy.
Khoan đưa tôi về. Trước khi chia tay, tôi bảo với chàng rằng anh đã dậy cho Nhạn biết thế nào là giá trị của thời gian, giá trị của những giờ trốn học và nhất là anh đã cho Nhạn vốn liếng làm người. Người ta lớn bằng thương yêu chứ không lớn bằng thù hận. Ý thơ của G.Đ. đó, anh biết không? Khoan lắc đầu. Anh nghĩ rằng em đừng hỏi gì anh hơn, ngoài những câu hỏi về chính em và anh. Về chính cuộc tình mình.
Tôi cười, bảo: anh dốt hơn Nhạn rồi. Chàng gật đầu: Thành phố của em và rừng núi của anh. Làm sao hơn được. Tôi không hiểu ý chàng, và chợt thấy hối hận vì câu nói đùa của mình.
Tôi đứng nhìn theo bóng chàng nhỏ dần và tan đi ở cuối con dốc đẫm sương mù. Không biết Khoan có hiểu lầm mình không? Tôi áy náy và thầm mong chàng sẽ trả lời bằng hơi thở ghé gần cùng bàn tay xiết buộc.
3
Nếu không vì đợi nghe kết quả kỳ thi chắc tôi đã lồng về Saigon rồi. Chẳng hiểu sao, suốt tuần nay tôi nóng ruột, bồn chồn quá. Đêm nào tôi cũng mơ những giấc mơ hãi hùng, chết chóc. Ngay cả buổi trưa cũng vậy. Hễ chợp mắt là tôi lại mơ thấy những hình ảnh quái dị như hình một người bê bết máu, cụt hai tay, khật khưỡng đi về phía tôi. Người hắn lúc nào cũng như muốn đổ về phía trước. Và miệng hắn nghêu ngao một bài hát lạ lùng, tôi chưa hề nghe bao giờ và cũng không hiểu nghĩa gì nữa. Chẳng hạn như hắn hát: “Mùa này nước lớn mà trời không mưa, mùa sau nước cạn, nước mưa đầy đồng. Con cá dưới song lên bờ đợi sống...” Hay… “Cọp nhớ rừng già, chim sa xuống đất, ngày khuất sau non không còn không mất…” Đại khái hắn hát những câu vô nghĩa như vậy. Sau mỗi câu, hắn lại ngửa mặt lên trời cười sằng sặc như người bị bóp cổ. Thường tôi chỉ choàng mắt tỉnh lại khi hắn tiến gần tôi và muốn ngã đổ. Chưa đầy một tuần mà tôi gầy dốc cả người. Sơ Mùi thấy thế, ái ngại hỏi tôi có bị bệnh gì chăng. Chắc Sơ nghi tôi đã bậy bạ và hậu quả là cái mà tôi không dám nói ra. Ở nội trú, người tôi thương mến và ưa tâm sự nhất, có lẽ là Sơ Mùi. Tôi vội cải chính ngay, làm gì có chuyện đó. Tôi cũng kể lại Sơ nghe những giấc mơ kỳ quái mà tôi đã thấy. Sơ chăm chú nghe, xong Sơ vuốt tóc tôi, bảo, tại con thức đêm nhiều quá. Con lại dùng thuốc kích thích để học thi. Có lẽ vì vậy mà con bị mất sức rồi bị rối loạn thần kinh. Sơ khuyên tôi nên tĩnh dưỡng một thời gian cho lại người. Đừng quá lo nghĩ đến chuyện thi cử mà rồi hối hận không kịp. Tôi định cãi, nhưng thấy không tiện nên im luôn. Hôm qua vào trường nghe ngóng tin tức thi cử, gặp Dung ở thư viện. Dung cũng kinh ngạc hỏi tôi sao ốm quá vậy? Tôi bảo không biết. Dung kéo tôi ra vườn hoa, ngay trước cửa thư viện. Ngồi trên băng đá, nhìn thấy khóm cúc vàng, tôi chợt nhớ tới Khoan. Tôi buột miệng than với Dung: Lâu quá không có tin gì của Khoan. Dung phá lên cười, chỉ tay vào mặt tôi. reo lớn Ta tìm ra căn bệnh của nhà người rồi. Tôi ngạc nhiên, không hiểu. Dung vẫn cười. Nó ghé sát tai tôi: Mầy ốm tương tư đấy. Thế mà, gớm, dấu mãi. Tôi không nhịn được cười, bảo Dung: Bậy nào. Gió đột nhiên lạnh hơn. Tôi cài nốt khuy áo len còn lại. Lúc trở về, đi bộ, ngang nhà riêng của linh mục viện trưởng, tôi thoáng thấy một vật gì nhỏ và trơn, trường nhanh ngang mặt tôi. Tôi nhìn theo nhưng nó đã lẫn vào đám cỏ lau ven lộ. Hình như là con rắn. Ờ, phải rồi con rắn. Tôi lại nhớ đến Khoan và con rắn nhỏ mà tôi đã thấy khi ở Suối Vàng trở về. Theo Khoan thì loại rắn nhỏ đó, người ta gọi là rắn đất. Nó ít cắn ai, nhưng một khi đã bị nó cắn thì chỉ có chờ chết chứ không thuốc nào chữa nổi.
Dọc đường về, tôi bị ám ảnh bởi con rắn đất ấy.
Vừa thay quần áo, định xuống phòng ăn thì Sơ Mùi gõ cửa, bước vào, Sơ tươi cười đưa tôi một bức thư. Sơ nói: Sơ xin lỗi con, Sơ đã coi tên người gửi. Ở Sàigon.Hình như là bạn trai. Chắc con hài lòng. Tôi vừa ngượng vừa hồi hộp đỡ lấy phong thư. Tôi nhìn thoáng thấy chữ Nguyễn Bất. Sơ Mùi quay gót. Trước khi khép cửa, Sơ Mùi dặn với: Đọc xong xuống ăn cơm ngay không nguội nghe con. Tôi lí nhí lời cảm ơn Sơ, và thầm nghĩ, Sơ thương mình quá.
Tưởng thư của Khoan, tôi lẩm bẩm. Định để đó, đi ăn cơm xong rồi mới đọc, nhưng tôi chợt thấy ở một góc phong bì, có chữ “Gấp” nho nhỏ. Tôi giật mình, long cóng xé ngay. Thư Bất đề ngày… Chỉ vỏn vẹn có mấy hàng: “Khoan đã chết trong trận đánh ở chân Đèo Cù Mông ngoài Tuy Hòa.
Nhạn cứ buồn. Chúng ta không có tuổi trẻ. Chúng ta không có cả quê hương. Chúng ta chỉ có máu và nước mắt anh em. Đó là lời cuối cùng mà Khoan đã nói với đồng đội, nhờ chuyển về cho Nhạn. Tin cho Nhạn biết và báo cho Dung dùm anh. Anh không biết phải nói với Nhạn thế nào. Rồi mai kia anh cũng sẽ đi.Và tất nhiên, một ngày nào, anh cũng sẽ đến…Làm sao được khi số kiếp mình như vậy…”
Tôi thiếp đi với hình ảnh người hát nghêu ngao những lời vô nghĩa. Lần này, con rắn đất quấn ngang cổ hắn.
Lát sau, ngoài cửa phòng, Sơ Mùi ngần ngại, dơ tay gõ cửa… Một nửa Sơ muốn báo ngay cho Nhạn biết nàng đã đậu, và một nửa, Sơ lại muốn, để nàng yên với hạnh phúc đến từ lá thư của người tình xa, ở Saigon…
1966
DU TỬ LÊ