Ngày thứ năm Một đời người, một lần gặp gỡ
“Xin chào quý khách. Dự kiến sau ba mươi phút nữa tàu sẽ cập bến cảng Toyoko…”
Phòng đột nhiên bừng sáng, tôi bị đánh thức bởi tiếng phát thanh của nhân viên tàu có giọng nói không lấy gì làm dễ chịu. Tôi với tay bật công tắc điện ở đầu giường, ánh sáng chói làm tôi không sao mở mắt ra được.
Quen dần với ánh sáng, tôi trèo xuống thang xem chú Yanagishita thế nào. Phía trong rèm tối đen, chú Yanagishita vẫn đang ngủ.
Tôi đi vào nhà vệ sinh rửa mặt rồi quay về phòng. Bên ngoài trời đã sáng rõ, quang cảnh đêm qua không nhìn thấy gì thì giờ đã hiện ra mồn một. Tôi lại lên boong tàu hít thở không khí bên ngoài.
Nhìn từ boong tàu, những hòn đảo trong vịnh Setoh vẫn như tự ngàn xưa, tôi chợt thấy lòng mình như được gột rửa.
Lúc quay về khoang khách, đèn giường chú Yanagishita vẫn chưa bật sáng, không có vẻ gì là chú đã dậy. Nghĩ cũng sắp đến lúc phải dậy rồi nên tôi nhẹ nhàng kéo rèm để nhìn bên trong. Chú Yanagishita đắp chăn cao đến tận cổ, người đầy mồ hôi vừa run vừa rên hừ hừ.
“Chú Yanagishita! Chú Yanagishita! Chú có sao không ạ?”
Tôi lay lay người chú Yanagishita để đánh thức chú dậy.
“Ồn ào quá. Dậy đây, chờ chút!”
Chú Yanagishita không phải đang lẩm bẩm trong mơ mà là đã dậy rồi. Tức là bị ốm thật rồi.
Tôi kéo chăn trên giường mình xuống, đắp lên người chú Yanagishita.
“Cháu sẽ đi gọi người ngay đây.”
Tôi nói vậy rồi ra khỏi phòng. Tôi cứ nghĩ chú sẽ mắng tôi “Thằng ngốc kia, đừng có làm cái gì lộn xộn đây” nhưng không thấy chú nói gì. Có vẻ nặng rồi.
Tôi đang chạy ra chỗ lễ tân thì dừng lại nhìn lên phía phòng khu VIP ở tầng trên. Tôi nhìn thấy chú Wada đúng lúc chú đang sắp xếp hành lý đi xuống sảnh để xuống tàu.
“Ồ, chào cháu Kazuya.”
“Cháu chào chú. Chú ơi, cháu nhờ chú một việc, nhờ chú đến đây giúp cháu với. Chú Yanagishita bị làm sao ấy ạ…”
Chú Wada gật nhẹ rồi ôn tồn hỏi tôi:
“Ở đâu?”
Nhìn thấy dáng vẻ rất bình tĩnh của chú tôi nghĩ chắc mình được cứu rồi.
Chú Wada quỳ xuống bên giường và nhẹ nhàng hỏi chú Yanagishita:
“Anh thấy thế nào?”
Và cẩn thận cầm tay chú ấy xem mạch.
“Anh là ai?”
Chú Yanagishita lơ mơ hỏi. Nhưng không phải kiểu hỏi giọng nghi ngờ. Chắc là chú yên tâm. Tôi thấy hơi bất ngờ với chính mình vì nhìn qua sắc thái của chú Yanagishita tôi hiểu được chú đang nghĩ gì.
“Tôi là bác sĩ. Anh cứ yên tâm.”
Chú Wada đưa tay vào phần giữa mặt và cổ kiểm tra nhiệt độ, xem trạng thái của mắt, phần khoang miệng.
“Sao bác sĩ lại ở đây?”
“Tôi là bạn của Kazuya.”
Tôi đang đứng phía sau quan sát tình hình. Chú Yanagishita nhìn tôi và nói:
“Chàng trai, cháu thật kỳ lạ đấy. Sao cháu có thể có bạn là bác sĩ ở chỗ này được. Thật là không thể hiểu nổi.”
Chú nói xong thì nhắm mắt yên lặng, không còn hơi sức. Chắc là chú chỉ thiếp đi thôi.
“Kazuya, cháu đến lễ tân báo tình hình. Mang nước và ba cái khăn lại đây. Lấy cả gối báng nếu có.”
“Vâ…vâng ạ…”
Tôi chạy vội lên khu lễ tân.
⚝ ♪ ⚝
Tôi nhìn quang cảnh vùng nông thôn từ bệnh viện của chú Wada.
Quang cảnh nhìn từ đây không khác mấy so với quang cảnh của Kumamoto. Phía bên kia những cánh đồng là rặng núi dài nối tiếp nhau đột nhiên cao vút lên, nhưng lại khiến cho tôi có một chút cảm giác tươi mới.
Để lại xe tải của chú Yanagishita ở cảng, ba chúng tôi bắt taxi đi đến bệnh viện của chú Wada. Chú Yanagishita nói mấy lần là trong hôm nay phải chuyển hàng đi nhưng trái với lời nói của chú, cơ thể chú chẳng có chút kháng cự nào khi được chuyển lên taxi. Vậy là chú rất yếu rồi.
Có tiếng cửa mở rồi chú Wada đi ra.
“Chú Wada. Chú Yanagishita…”
“Ừ. Vẫn sốt cao nhưng chắc là ổn thôi. Bây giờ, chú ấy đang được truyền nước và ngủ. Chắc là chú ấy biết mình ôm nhưng mà cứ cố làm việc. Tĩnh dưỡng thì chắc là sẽ ổn thôi nhưng cũng nên đi khám một lần thì tốt hơn. Tí nữa chú sẽ viết cho cái giấy giới thiệu đến bệnh viện đại học mà người quen chú làm việc ở đó.”
“Thật ạ? Tốt quá rồi.”
“Tốt là cháu tốt ấy. Nếu không có cháu có lẽ chú ấy sẽ cứ thế mà đi xe đến Matsuyama. Có khi sẽ gây ra tai nạn ấy chứ. Ngẫu nhiên gặp được cháu, quá tốt rồi.”
“Cháu quá thích thú với việc được đi tàu mà không để ý chứ cháu nghĩ chú Yanagishita từ tối qua đã không khỏe rồi ạ. Từ lúc ở Kyoto cháu đã thấy chú ấy ít nói hẳn đi, còn bảo bình thường chú không bao giờ đi phà.”
“Chắc là vậy. Chú Yanagishita liên tục nói về cháu, bảo là xin lỗi cháu đấy.”
“Cháu không sao đâu ạ.”
“Mà cháu vẫn chưa ăn sáng đúng không? Đi ăn với chú nhé.”
Tôi nhìn đồng hồ. Chín giờ ba mươi phút.
“Thế công việc của chú thì sao ạ?”
“Hôm nay là ngày nghỉ của bệnh viện.”
Trên đường đúng là không có ai.
⚝ ♪ ⚝
Chú Wada đưa tôi đến một cửa hàng ở sườn núi cách chừng mười lăm phút đi xe.
Từ chỗ tôi ngồi có thể nhìn thấy phong cảnh đồng ruộng, cảng biển, vịnh Setoh.
Chú Wada ăn sáng xong, ngồi uống cà phê.
“Vậy hả, chú Yanagishita đã dạy cháu điều đó à?”
“Vâng ạ. Đối với cháu đúng là hoàn toàn mới mẻ, nói thế nào nhỉ? Kiểu như là bị đánh một cú thật mạnh từ phía sau vậy ạ.”
“Đúng thế. Điều chú ấy nói rất đúng. Thật xấu hổ là, mãi tới gần đây chú mới suy nghĩ được điều mình thực sự muốn làm là gì.”
“Vậy ạ… Không phải là chú Wada muốn làm bác sĩ sao ạ? Để làm bác sĩ thì từ khi học cấp ba đã phải học tập miệt mài rồi. Cháu cũng có bạn muốn làm bác sĩ, bạn ấy rất chăm chỉ học hành. Cháu vừa nghĩ là bạn ấy thật giỏi, lại vừa ghen tị với bạn ấy vì có ước mơ rõ ràng.”
“Làm gì có chuyện ghen tị với bạn bè. Trước hết, cháu có biết vì sao người bạn đó lại muốn trở thành bác sĩ hay không? Có thể bạn ấy đúng như lời chú Yanagishita nói, đưa ra một mục tiêu chỉ vì thấy người ta nói đó là nghề có thể kiếm được nhiều tiền, có địa vị xã hội cao, tương lai ổn định cũng nên. Hoặc là, bố mẹ bạn thấy có thể bắt bạn học được nên chẳng qua bạn ấy cũng chỉ sống theo lăng kính của bố mẹ mà thôi. Nếu như vậy thì như chú Yanagishita nói, đến một lúc nào đó cảm thấy chán sống, có cảm giác rằng cuộc đời này thật khó khăn. Cho rằng bác sĩ là những người đã biến được ước mơ từ ngày xưa của mình thành hiện thực là quá sớm. Có thể có rất nhiều bác sĩ từ nhỏ đến lớn sống theo ý người khác, ngày ngày đều cảm thấy buồn phiền, lại có rất nhiều những bác tài lái xe tải tìm được lẽ sống của mình mà ngày ngày đều thấy vui vẻ.”
“Chú Wada thì là kiểu người nào ạ?”
“Chú à, ngày còn học cấp ba, cô giáo nói với chú là không thể đỗ đại học được.
“Làm gì có chuyện như vậy ạ.”
“Có đấy. Nhưng mà cuối cùng chú cũng đỗ vào một trường dân lập ở địa phương. Khi chú tốt nghiệp đại học, chú nghĩ là có đi tìm việc thì chắc cũng chẳng thích công ty nào nên chú thi tuyển vào làm giáo viên. Trong thời kỳ khủng hoảng kinh tế này, muốn thành giáo viên cũng khó nhưng thời đó thì khá là dễ. Nên chú trở thành giáo viên dạy toán của trường cấp ba của tỉnh.
“Chú đã là giáo viên ạ?”
“Ừ. Chú đã làm giáo viên trong mấy năm, đương nhiên là dần dần không còn bài nào chú không giải được. Từ thời còn là sinh viên chú đã thích đi du lịch nước ngoài, tiếng Anh chú nói cũng khá. Lúc đó, lần đầu tiên chú thực sự nghĩ nếu bây giờ mình thi đại học thì hay nhỉ. Mà thực ra chú cũng không thích làm giáo viên cho lắm.
Đúng là có lỗi với các bạn học sinh thời đó của chú. Chú chỉ vì mình, vì kiếm tiền để nuôi sống bản thân mà làm nghề giáo viên. Người hiểu rõ nhất điều đó chính là bản thân chú. Thế nên, chú tìm mọi cơ hội để nghỉ dạy. Rồi chú thi lại vào đại học và vào ngành bác sĩ. Tất nhiên…”
Chú Wada uống một ngụm cà phê rồi thở dài.
“Tất nhiên là lý do để trỗ thành bác sĩ là như chú Yanagishita nói, nhìn đời theo lăng kính của người khác. Địa vị xã hội của bác sĩ cao hơn làm giáo viên trong trường học. Thu nhập cũng tốt hơn. Cũng không phải tiếp xúc với các bạn trẻ vô lễ. Tốt hơn rất nhiều công việc khác. Nói thật lòng, chú làm việc này là để thỏa mãn cái tôi của bản thân.”
“Bây giờ, chú cũng nghĩ như vậy ạ?”
“Làm gì có chuyện đó. Nếu giờ chú vẫn nghĩ thế thì làm sao kể chuyện này với cháu được. Vì bây giờ chú không nghĩ như vậy nữa nên mới có thể kể cho cháu nghe câu chuyện ngu ngốc của mình ngày xưa chứ. Đó là nhờ mẹ của chú.”
“Mẹ của chú… ạ?”
“Ừ, mẹ của chú. Sau vài năm thì kể cả nghề bác sĩ chú cũng không muốn làm nữa. Có thu nhập, có địa vị, người ngoài nhìn vào ai cũng cho rằng đấy là cuộc sống hạnh phúc, nhưng đúng như chú Yanagishita nói, cuộc sống của chú không phải là cuộc sống mà chú muốn, đã trở thành cuộc sống mà người khác muốn và tìm kiếm những điều làm cho người khác ghen tị. Không phải vì bản thân muốn làm bác sĩ nên chọn nghề này, mà bởi vì mọi người đều ngưỡng mộ bác sĩ nên mình mới làm nghề này. Chú cũng đã từng đi xe hơi đắt tiền, lý do cũng giống như thế. Nhưng trái tim thì tan nát. Chú trở nên gắt gỏng với bệnh nhân. Rồi công việc của chú trở thành, không phải là với cơ thể con người nữa mà là đối với một chứng bệnh nào đó thì cấp thuốc theo đúng hướng dẫn rồi thu tiền. Người căm ghét bản thân chú nhất không ai khác đó chính là chú. Rồi đến Tết một năm nào đó, chú nói với mẹ ‘Mẹ ơi chắc con bỏ nghề bác sĩ thôi…’;. Lúc đó, cháu nghĩ mẹ chú nói gì?”
“Chắc là mẹ chú phản đối ạ?”
“Chú cũng đã nghĩ như vậy. Chắc chú nói điều đó với mẹ là vì muốn mẹ cản mình. Nhưng mà mẹ chú đã nói thế này. ‘Con cứ làm điều gì con thích cho đến khi con tìm thấy sứ mệnh của mình. Khi tìm thấy sứ mệnh của mình rồi thì hãy sống chết với nó. Satoshi có thể làm được điều đó mà’. Chú đã bất giác rơi nước mắt.”
Chú chợt nhớ ra là mẹ chú lúc nào cũng như vậy. Chú lúc nào cũng chỉ nghĩ về việc làm sao để mình được hạnh phúc. Nhưng mẹ thì luôn luôn muốn mình sống một cách khác. Đến lúc đó, chú mới nhận ra điều đó. Nhờ vào hai từ ‘Sứ mệnh’.”
“Sứ mệnh…”
“Đúng, sứ mệnh. Mẹ chú muốn nói với chú hãy tìm điều mình thực sự muốn làm trong cuộc sống này. Tìm được rồi thì hãy sống hết mình với nó. Đố là niềm hạnh phúc của mẹ chú, và chắc là bà muốn nói với chú rằng đó cũng là niềm hạnh phúc của con.”
Chú thì đã sống mà chỉ nghĩ đến việc làm cho mình được hạnh phúc.
Tất nhiên, chú bị đánh lừa bởi việc lúc nào mình cũng lo lắng cho người khác, khi làm giáo viên thì lo lắng cho học sinh, khi làm bác sĩ thì lo lắng cho bệnh nhân. Nhưng kết quả thì như thế nào? Chú hoàn toàn không cảm thấy hạnh phúc. Từ khi nghe mẹ chú nói vậy chú mới thực sự nghĩ về việc bản thân mình làm được gì.
Và, chú không còn muốn bỏ nghề bác sĩ nữa. Chú đã hiểu ra có rất nhiều việc mình không làm được nếu mình không phải là bác sĩ. Và bây giờ thì chú nhận ra một điều. Điều mà cháu mới mười bảy tuổi đã nhận ra thì chú ba mươi ba tuổi mới lần đầu tiên nhận ra điều đó.
“Đó là con người ta, khi chuyên tâm sống vì người khác thì có thể cảm nhận được hạnh phúc, không liên quan gì đến việc anh ta nhận lại được bao nhiêu.”
“Đúng là cháu học được điều đó qua chuyến đi này, nhưng mà cuộc đời cháu, bây giờ sẽ làm gì tiếp theo thì cháu chưa quyết định được, cháu vừa mới kết thúc việc mười bảy năm nay vẫn làm là nhìn đời qua lăng kính người khác thôi, chứ thật ra đừng nói đến chuyện sứ mệnh của bản thân, mà ngay cả việc tìm ra điều mình thích làm là gì thì cháu cũng chưa tìm được.”
“Cháu sẽ ổn thôi. Chỉ cần tìm thấy điều mình muốn làm thì cho dù điều đó là gì cháu cũng sẽ làm được.”
Tôi cười đau khổ. Một người mà làm việc gì cũng nửa chừng nửa vời như tôi, không biêt chú Wada nhìn vào đâu mà lại nói như vậy.
“Sao chú lại nghĩ như vậy ạ?”
“Cháu đã bao giờ nhìn thấy đứa trẻ mới sinh chưa?”
“Chưa, cháu chưa bao giờ thấy ạ.”
“Thế à. Lúc nào có cơ hội thì nhìn nhé. Cháu ngắm nó kĩ vào thì đột nhiên sẽ dâng lên một cảm xúc. Đó là, đứa trẻ này vẫn chưa có trải nghiệm gì cả. Bằng nhiều trải nghiệm trong cuộc đời, nó sẽ có thể tự mình sống cuộc sống của mình. Cháu sẽ có cảm giác mạnh mẽ rằng trong đứa trẻ ấy có một khả năng vô hạn.”
“Cháu có thể tưởng tượng ra được phần nào.”
“Thế cháu nghĩ bố mẹ cần làm gì để có thể khơi gợi được khả năng vô hạn của đứa trẻ?”
“Có mấy cách như là cho nghe âm nhạc cổ điển, cố gắng cho nó nghe nhiều thứ tiếng khi còn nhỏ bằng cách xem tivi.”
“Cháu nghĩ làm vậy là có thể kích thích được năng lực của mọi người à?”
“Dạ… Cháu cũng có cảm giác là không phải.”
“Đúng thế. Việc điều tra xem những đứa trẻ được học những điều đó vào thời kỳ ấu thơ thì khi lớn lên có thực sự trở thành thiên tài hay không chắc cũng thú vị, nhưng chú nghĩ không phải lúc nào cũng vậy đâu. Tức là, điều quan trọng không phải ở chỗ đó.”
Mà quan trọng hơn là, làm điều gì cũng được, không cần phải cho nghe nhạc hay gì cả, chỉ cần cho chúng chơi theo cách chúng thích là được. Trẻ con ấy mà, chú thấy nếu có ai đó mà chúng tin tưởng từ trong lòng thì chúng mới phát huy tài năng.”
“Ai đó mà chúng tin tưởng từ trong lòng…”
“Đúng vậy. Còn có một điều quan trọng nữa. Quan trọng nhất, mà cũng là khó nhất.”
“Đó là điều gì ạ?”
“Đó là ‘chờ đợi’.”
“Tức là có ai đó tin tưởng và chờ đợi ạ?”
“Đúng, chú nghĩ chỉ cần như vậy là đứa trẻ chắc chắn sẽ trở nên tài năng. Ngược lại với tin tưởng là quản lý. Ngược lại với ‘chờ đợi’ là yêu cầu kết quả. Các bà mẹ trong thời đại này tốn tiền vào cái gọi là đào tạo anh tài để cho con học rất nhiều thứ từ lúc còn thơ bé nhưng lại luôn quản lý chúng, yêu cầu kết quả như thành tích hay điểm số. Họ không tin tưởng mà chờ đợi con mình được. Nếu như vậy thì dù hồi nhỏ có cho nghe Mozart bao nhiêu đi chăng nữa cũng chẳng có ý nghĩa gì. Cháu thì có một người mẹ tin tưởng và chờ đợi cháu.”
“Cháu thì lại nghĩ qua chuyện này mẹ cháu sẽ không còn tin cháu nữa.”
“Không phải đâu. Lúc nãy chú đã gọi điện về nhà cháu rồi, chú thực sự cảm thấy mẹ cháu luôn tin tưởng và chờ đợi cháu. Nếu mẹ cháu không tin cháu thì ngay lúc nhận điện thoại lần đầu tiên đã nói ‘Hãy chờ ở đấy’ rồi ngay hôm sau đến Tokyo bằng chuyến bay đầu tiên và đón cháu về là xong. Nhưng mẹ cháu không làm vậy mà để cháu tự tìm đường về. Mẹ cháu mong chờ còn hơn cả cháu rằng sau chuyến đi này cháu sẽ trỏ về trưởng thành về mặt con người hơn, tin tưởng mà chờ đợi cháu.”
“Nhưng mà, cháu đã nói dối, lừa mẹ cháu nên mới bị thế này. Cháu nghĩ là mẹ cháu sẽ không tin cháu nữa đâu.”
“Không cần phải lo lắng như thế. Cháu cứ thử nghỉ hè năm sau lại xin đi Tokyo là biết ngay. Chắc chắn mẹ cháu sẽ không nghĩ ngợi gì mà cho đi luôn. Việc như vậy không làm lung lay lòng tin của mẹ cháu đâu.
Cháu hiểu không? Việc tin tưởng con mình khác với việc chấp nhận lời nói dối của đứa trẻ. Khi nghe con nói ‘Con chẳng làm gì xấu mà thầy cứ ghét con’ thì có những ông bố bà mẹ đến trường la lối. Cháu thấy việc này thế nào?”
“Cháu thấy cứ ngu ngốc thế nào ấy ạ. Vì chắc chắn là bạn ấy nói dối.”
“Đúng thế, mà cha mẹ lại tin vào lời nói dối đó mà nổi giận la lối thì đứa trẻ lại càng bị dồn ép. Cuối cùng thì vì nói dối mà chẳng còn bạn bè nữa, sẽ bị gắn mác là mẹ con nhà này dở hơi. Việc nghe lời đứa trẻ không đồng nghĩa với việc tin tưởng nó.
Bởi trẻ con là sẽ nói dối. Nói dối để thể hiện bản thân, để bảo vệ chính mình. Điều đó là bình thường. Tất nhiên, không chỉ có trẻ con. Người lớn cũng nói dối. Chú đã làm giáo viên nên chú biết. Giáo viên ồ trường cũng nói dối để bảo vệ chính mình. Không chỉ có giáo viên. Mọi người đều thế. Điều quan trọng là biết điều đó nhưng có tin tưởng con mình hay không.”
“Tin tưởng điều gì ở con ạ?”
“Năng lực. Rồi sự trưởng thành.”
“Năng lực và sự trưởng thành?”
“Đúng. Tin tưởng mạnh mẽ từ trong lòng rằng đứa trẻ này, qua trải nghiệm này sẽ lớn khôn rất nhiều. Tin tưởng rằng, bây giờ có thể chưa tìm thấy, nhưng rồi nó sẽ tìm được điều nó muốn làm bằng chính sức mình, dù nó có nói dối thế nào đi chăng nữa thì một ngày nào đó chắc chắn nó sẽ trưởng thành, thành người được mọi người tin tưởng.”
“Và, chờ đợi…”
“Đúng vậy. Chờ đợi kết quả mà không vội vã. Mẹ chú đã tin tưởng và chờ đợi ở chú đến tận năm chú ba mươi ba tuổi. Nhờ đó mà chú đã có thể quyết tâm trở thành người như mẹ chú mong muốn. Chú không biết đến ba mươi ba tuổi mới nhận ra điều đó thì là sớm hay muộn. Nhưng, đối với mẹ chú thì ba mươi ba tuổi chắc chưa phải là muộn. Chính vì thế, chú mới nói cháu có thể làm được điều đó. Mẹ cháu cũng tin tưởng cháu. Và mẹ cháu cũng tin là cháu sẽ trưởng thành mà trở về. Không có gì phải vội vàng cả. Có tình yêu của mẹ rồi, cháu hãy cứ từ từ học thật nhiều điều rồi trở về nhà.”
Nước mắt tôi chút nữa thì trào ra.
Vậy là đã năm ngày từ khi tôi rời khỏi nhà. Mẹ tôi vẫn tin tưởng chờ đợi tôi, đứa đã nói dối mẹ và đi khỏi nhà. Tôi muốn vì mẹ mà trưởng thành hơn. Đắm chìm trong tình yêu ấy, tôi thấy hạnh phúc vì bây giờ được ở đây sau khi trải qua bao nhiêu cuộc gặp gỡ mà bản thân mình không ngờ đến.
⚝ ♪ ⚝
Tôi nhờ chú Wada cho tôi xuống ở Toyoko. Tôi đã được chú Yanagishita đối đãi rất chu đáo.
Từ lúc tình cờ gặp ở Ashigara, chú không chỉ đưa tôi đến đây mà dọc đường còn mua đồ ăn rồi trả cả tiền vé tàu cho tôi. Hơn tất cả, điều vô cùng quý giá chú Yanagishita đã dạy tôi chắc chắn sẽ làm thay đổi cuộc đời tôi. Mà tôi thì chẳng làm được gì cho chú.
Tôi chẳng biết có tương xứng với điều đã nhận được hay không, nhưng điều tôi có thể làm được bây giờ chỉ là dọn dẹp cho xe của chú trở nên sạch sẽ. Nói chuyện với những người ở cảng, tôi được họ vui vẻ cho mượn dụng cụ lau dọn.
Tôi sẽ dọn dẹp sạch sẽ đến mức chú Yanagishita phải ngạc nhiên.
Việc rửa xe tải là một lao động nặng nhọc hơn nhiều so với tưởng tượng của tôi. Tôi chăm chú lau dọn xe mặc cho ánh mặt trời giữa mùa hè chiếu vào đến hoa cả mắt.
Khoảng một tiếng rưỡi sau.
“Kazuya à?”
Tôi ngoảnh lại.
Có một chị gái chân dài như người mẫu đang đứng đó.
Trông chị ấy với mái tóc dài màu vàng bay bay trong gió biển đang đi lại phía tôi, thật giống cảnh trong một bộ phim nào đó.
“Chị là…”
“Cảm ơn cậu đã chăm sóc papa…”
“À, chị Wada ạ?”
“Wada? Chị là Yanagishita. Yanagishita Chisato. Chào em.”
“Chú Yanagishita…?”
Tôi tưởng tượng ra hình dáng chú Yanagishita với cái đầu trọc và khuôn mặt dữ dằn. Chẳng thấy giống chút nào. Mà tôi lại thấy rất xa lạ với cách gọi là papa, chợt thở hắt ra.
“Chú Yanagishita thì đang ở trong viện ạ…”
“Ừ, chị biết rồi. Chị gặp papa rồi. Có việc này gấp hơn.”
Hai tay chị túm gọn mái tóc dài buộc lên bằng một sợi dây thun rồi hất cằm ra hiệu cho tôi.
“Em trả dụng cụ lau dọn đi rồi lên xe đi cùng chị.”
Rồi chị mở cửa xe, nhanh chóng trèo lên.
“Ơ! Chị có thể lái xe được ạ?”
“Được chứ. Em lên nhanh lên. Bố bảo chị nhanh nhanh đưa em đến Matsuyama.”
Tôi nhanh chóng trả đồ rồi leo lên ghế phụ.
“Mình không qua bệnh viện mà đi thẳng đến Matsuyama à chị?”
“Ừ. Phải nhanh chóng vận chuyển chỗ hàng này đến Matsuyama.
“Em vẫn chưa chào chú Yanagishita và chú Wada…”
“Papa không thích mấy chuyện đó đâu. Mà papa toàn bảo chị là con phải lo cho em nó. Papa có vẻ rất thích em. Papa bảo xin lỗi em vì đã hứa với em là đưa em đi mà lại không làm được.”
Chị Chisato nổ máy.
Tôi nhìn phong cảnh đồng ruộng trải rộng qua cửa sổ, lòng tràn đầy biết ơn những cuộc gặp gỡ. Nỗi buồn của việc chia tay đột ngột xâm lấn tâm hồn tôi.
⚝ ♪ ⚝
Có tiếng kêu lanh canh theo nhịp của xe. Tôi quay lại phía sau ghế nhìn thì thấy bộ đồ dùng để tắm của chú Yanagishita mang theo khi mới gặp. Tôi định chụp ảnh nên lôi máy ảnh ra, lúc đó mới thấy buồn cười. Chú Yanagishita đầu trọc lóc mà lại dùng dầu gội đầu.
“Có chuyện gì à?”
“Không… Không có gì ạ… Chị ơi… xin lỗi chị, cho cả em đi cùng.”
“Không cần phải để ý đâu. Tiện thôi mà. Mà có em đi cùng thì chị cũng có người nói chuyện cùng, đỡ buồn chán.”
Chị Chisato nói y hệt chú Yanagishita lúc mới cho tôi đi cùng xe. Đúng là bố con có khác. Tôi cảm thấy rất kỳ lạ.
“Em cảm ơn chị. Mà thật tuyệt nhỉ.:
“Cái gì tuyệt cơ?”
“Chị Chisato cũng là lái xe tải ạ?”
“Không phải. Chị nghĩ là có thể giúp gì được cho papa nên thi lấy bằng thôi. Thỉnh thoảng, chị được đi cùng papa rồi đổi lái cho papa một lúc thôi, nhưng mà chưa bao giờ được giúp papa như thế này. Chị cũng thấy ngạc nhiên.”
Chị Chisato có vẻ vui.
“Sáng nay, chú Yanagishita gọi cho chị ạ?”
“Không. Papa gọi cho công ty chị. Hôm qua, chị nhờ bên công ty papa là khi nào papa về thì gọi cho chị nhưng bên công ty gọi lại báo là tình hình như vậy, mà lại có cả vụ vận chuyển hàng hóa nữa nên chị bảo là chị sẽ đi…”
“Hóa ra là thế ạ.”
“Thế nên chị chẳng có thời gian để nói chuyện tử tế với papa mà đã phải chia tay. Nhưng mà, được gặp và nói chuyện trực tiếp với papa là tốt rồi.
Tôi nhìn sang chị Chisato đang lái xe mà người đông cứng lại.
“Chia tay… ấy ạ…?”
“À, không phải chuyện bệnh tật đâu nên em đừng lo. Là chuyện của chị thôi. Lâu lâu nữa chị mới gặp bố được.”
“Chị cưới chồng ạ?”
Chị liếc nhìn sang tôi rồi cười ý nhị.
“Em nghe papa kể gì rồi hả?”
“Chú nói với em chú có một cô con gái, cô ấy đã yêu một người và bỏ nhà đi…”
Chị Chisato cười đau khổ với một tiếng thở dài.
“Giải thích trong năm giây thì đúng là chỉ có thể nói vậy nhỉ? Vậy là em cũng đã nghe chuyện chàng trai mà cô ấy yêu là người Mỹ, bây giờ hai đứa đã dùng nhà riêng của mình để mở lớp dạy tiếng Anh nhưng chàng trai vì vấn đề liên quan đến visa mà phải trở về Mỹ, thành ra cô gái ngu ngốc kia cũng phải đi Mỹ cùng rồi chứ?”
“À… chưa ạ… chú chưa kể đến chuyện đó ạ…”
“Cuối tháng này là visa của anh ấy hết hạn rồi. Anh ấy phải về nước trước thời gian đó. Chị muốn trước lúc đó thì gặp rồi nói chuyện với papa nhưng mà ông già cứng đầu đó chẳng chịu cho gặp. Đúng như chị đã nghĩ.”
“Thế hôm nay chú Yanagishita đã nói gì ạ?”
“‘Không biết. Muốn thế nào cũng được’. Đấy bố chị nói y như mọi lần. Đang ốm nên ông cũng mệt.”
“Chú nói với em là ‘Người yêu nó là người tốt. Chú định tác thành cho hai đứa’…”
Nét mặt chị Chisato cứng lại. Chị không đáp lại câu nói của tôi nhưng nhìn mắt chị rưng rưng là tôi hiểu. Chắc đối với chị Chisato đây là một câu trả lời ngoài dự tính.
Đây đúng là sự khó khăn của mối quan hệ cha mẹ và con cái khi mà cả hai đều yêu thương nhau, nghĩ cho nhau từ tận đáy lòng nhưng lại không thể bày tỏ thẳng thắn suy nghĩ của mình cho đối phương được.
Không, đây là việc của người khác nên tôi mới nói được như vậy. Chứ bảo tôi có thể thẳng thắn thể hiện được tình cảm của mình cho mẹ tôi không thì có khi còn khó khăn hơn cả là chú Yanagishita và chị Chisato.
“Chị thật hạnh phúc khi có một người bố như vậy. Em chỉ ở bên chú có một ngày mà đã có được lòng dũng cảm để sống, cảm thấy như được truyền lửa vậy…”
“Đấy là vì cha mẹ của người khác thì bao giờ mình cũng thấy tốt hơn.”
“Mà, chị Chisato có thể nói được tiếng Anh ạ. Chị siêu thế. Em dốt tiếng Anh lắm…”
“Em nói linh tinh cái gì thế? Làm gì có ai dốt tiếng Anh chứ. Chẳng qua là cứ vịn vào cái chữ dốt để trốn tránh chứ thực tế có chịu làm gì đâu. Em đừng nói những câu kiểu như thế. Nếu em sang đó, chẳng liên quan gì đến thông minh hay không thông minh, đứa trẻ năm tuổi cũng nói tiếng Anh ầm ầm.”
Tôi hơi nhún vai, cảm thấy mình phát ngôn hơi bừa bãi.
Chắc chị Chisato đang lái xe nhìn thấy được. Chị liếc nhìn tôi và cười.
“Ừ, chị hiểu. Nói thật ra thì hồi học cấp ba chị cũng như vậy. Tốt nghiệp cấp ba xong chị sang Mỹ du học. Ở bên đấy sáu năm nên chị mới nói được tiếng Anh nhưng lại muốn nói cho ra vẻ ấy mà.”
“Không ạ, em nghĩ chị quá siêu luôn, cả việc nói tiếng Anh hay dũng cảm tốt nghiệp xong đi Mỹ học luôn, quá siêu ấy ạ. Nếu là em thì không biết là có làm được không…”
“Chỉ là chạy trốn thôi em.”
Chị Chisato nói như muốn ngắt lời tôi.
“Chạy trốn… ấy ạ?”
“Đúng thế. Chỉ là chạy trốn thôi. Tất nhiên lúc đó là để chứng tỏ mình hay nên chị đã tuyên bố là mình sẽ đi du học. Thực tế thì chị chẳng thấy oai oách gì, chuyện đi học đại học ở nước ngoài chứ không phải là ở Nhật ấy.”
“Oai chứ ạ.”
“Bây giờ, chị không biết thế nào, chứ hồi chị thì thực ra đi học ở nước ngoài dễ hơn vào đại học ở Nhật. Chỉ cần có năng lực tiếng Anh ở mức nhất định, trả đủ tiền là có thể đi được. Vì thế, chị đã làm cho papa phải vất vả.
Chị rất ghét trường cấp ba. Không chỉ cấp ba đâu. Chị ghét cả cấp hai nữa. Toàn là quản, quản, quản, chẳng có tí tự do nào cả. Trường của chị học là tệ nhất. Có động một tí là lại tập trung lại ở phòng thể dục rồi mắng mỏ, không được làm cái này, không được làm cái kia…
Nghe được chuyện gì thì chẳng bao giờ có ai nghĩ đến việc phải dạy dỗ cho học trò thế nào, mà chỉ vì giáo viên trong trường không muốn bị nhận những lời chỉ trích như vậy nữa mà thôi.
Chị không thể nào chấp nhận nổi kết quả học tập của trường, gì mà đánh giá con người ta qua điểm số rồi bị nói con số đó là thực lực của mình. Nhưng mà, thực ra đấy chẳng phải là thực lực hay gì gì của chị mà đó chỉ là suy nghĩ độc đoán dựa vào quan điểm của một người mà thôi. Đặc biệt là môn của cô giáo mà chị ghét, chị luôn nghĩ nếu như cô ấy không phải là chủ nhiệm lớp thì thành tích của chị đã hoàn toàn khác.”
“Cái đó, em hiểu ạ. Công nhận là vậy chị nhỉ?”
“Ừ, thời cấp ba thì ai cũng nghĩ đó là thực lực của mình và nếu bị giáo viên cho thành tích kém thì cứ tin là như vậy mà tự kỷ ám thị cho mình. Kiểu như… ôi mình kém môn Toán lắm… Nhưng mà mãi không chịu nhận ra. Đó chỉ là ý kiến của mỗi một người mà thôi. Haizza, dù có chuyện như vậy nhưng chị vẫn đủ tiêu chuẩn để thi đại học được. Cho nên lúc đó chị đã nghĩ ra là sẽ đi du học ở Mỹ.
Càng nghĩ chị càng thấy ngưỡng mộ đất nước ấy. Để đi học được chỉ cần phải học tiếng Anh, chị đã nghĩ muốn chạy thoát khỏi cái đất nước nhỏ hẹp, đâu đâu cũng bị quản lý này sang một đất nước tự do, sống một cuộc đời tự do.
Lúc đó bản thân chị cũng không ý thức được rằng mình chỉ đơn giản là đang trốn chạy mà tưởng nhầm rằng như vậy là tốt cho mình.”
“Giờ em nghe chuyện của chị em có thấy là chị trốn chạy gì đâu.”
“Ờ, chắc đối với học sinh cấp ba mà nói thì như kiểu là một cuộc sống đáng ngưỡng mộ ấy nhỉ? Nhưng mà, em nghĩ thực tế là cái gì đang chờ em bên đó?”
“Tự do… Không phải thế ạ?”
“Phân biệt em ạ. Phân biệt chủng tộc mà khi ở Nhật em hoàn toàn không cảm thấy. Đó là một thế giới hoàn toàn khác so với sự tự do mà chị tưởng tượng. Có thể đó goi là tự do. Nhưng chị nhận ra rằng cái tự do mà chị vẽ ra trong đầu mình có nghĩa là những cái thuận lợi cho bản thân mình.”
“Những cái thuận lợi cho bản thân mình… ấy ạ?”
“Đúng thế. Ví dụ như sang năm nữa em thi đại học đúng không? Em nghĩ lúc nào là lúc mình đã thành công trong việc thi cử?”
“Em nghĩ là lúc mình đậu vào đại học nguyện vọng một…”
“Vậy lúc nào em nghĩ là thất bại?”
“Chắc là lúc không đậu vào trường nào cả.”
“Đúng vậy nhỉ? Nhưng mà, thẳng thắn mà nói, mình nghĩ là thành công khi kết quả thuận lợi cho mình. Và thất bại là khi kết quả không thuận lợi cho mình. Nhưng kết quả có phản ánh đúng thực lực hay không thì bản thân mình biết, đúng không? Nếu mình trượt tất cả các trường thì đấy không phải là thất bại mà hoàn toàn là đúng theo thực lực của mình mà thôi, đúng không? Mọi người đều biết điều đó, thực ra là như vậy. Không chỉ chuyện thi cử thôi đâu. Đối với nhiều chuyện khác, mọi người đều có cảm giác thành công khi kết quả là cái thuận lợi cho mình.
Khi chị rời khỏi Nhật thì chị đã hiểu ra điều này. Vì chị mong muốn một kết quả thuận lợi cho mình nhưng không đạt được nên chị đã chạy trốn khỏi nơi đó. Chạy trốn đến Mỹ rồi thì mới nhận ra rằng để đạt được kết quả thuận lợi cho mình còn khó hơn rất nhiều.”
“Chị hối hận ạ?”
“Không, không hối hận gì cả. Vì chính chị là người chọn con đường đó mà. Chị đã nghĩ được là mình phải chịu trách nhiệm với nó, có được bạn bè bên đấy và quan trọng nhất là sống được trong môi trường đó. Chị đã đến Mỹ vì nghĩ Nhật không phải là chỗ của mình. Nhưng sang đến Mỹ chị cũng hiểu được đó cũng không phải là chỗ cho mình mà quay về Nhật thì vẫn chẳng có chỗ nào cho mình cả. Mình phải chạy trốn khỏi đây. Mà…”
Xe bắt đầu vào đường cao tốc, chị Chisato mở cửa sổ lấy vé đi đường.
“Mà sao chị…?”
“Mà chị đã hiểu điều quan trọng hơn tất cả. Chị nghĩ chắc chắn nó là điều giống như em đã được học.”
“Chị đã học được gì ạ?”
“Chị ghét trường học ở Nhật, ghét cả cách suy nghĩ của người Nhật, cái gì cũng thấy chán, nên đã sang Mỹ. Nhưng ở đó lại xảy ra một điều kỳ lạ.”
“Điều kỳ lạ…?”
“Ở đó chị lại thấy rất thích Nhật. Văn hóa Nhật, rồi cách suy nghĩ của người Nhật, phong cảnh ở Nhật, cái gì cũng làm chị thích đến phát cuồng, cả trường học mà chị đã ghét đến mức như vậy nữa.
Ví dụ như chị cảm thấy tự hào vì mình tự dọn dẹp phòng học của mình. Thật là tốt vì đã được dạy dỗ điều đó.
Bây giờ chẳng phải là em cũng làm việc giống như vậy hay sao?
Thực ra ở nơi mình sinh ra vốn đã có mọi thứ mà mình cần phải trân trọng nó rồi. Vậy mà đã không biết ơn lại còn suốt ngày ca thán. Bây giờ bảo đó là hành trình đi tìm chính mình thì nghe có vẻ hay đấy nhưng điều đó chẳng qua là nói để không làm tổn thương lòng tự tôn của mình mà thôi. Cứ ảo tưởng rằng không phải là nơi này mà có một nơi khác lý tưởng cho mình hơn để chạy trốn, đến đó để nhận ra rằng cái chỗ mình ở đấy khác xa với cái lý tưởng của mình, cái thực tế nghiệt ngã… Mà thôi, tự mình nói ra lại càng thấy xấu hổ với chính mình.”
“Đâu phải thế ạ… Nhưng mà cuối cùng chị đã nói được tiếng Anh này, em thấy đấy là một cách sống đáng để ghen tị đấy ạ.”
“Ừ, chị nghĩ chính vì thế mà có kết quả tốt. Nhờ có trải nghiệm đó chị có được công việc là dạy tiếng Anh, chị đã trở nên yêu thích nước Nhật, đã tìm được người mình muốn cưới làm chồng. Nhưng mà, chị có thể nói chắc chắn một điều là sáu năm ở bên Mỹ chị đã cố gắng mỗi ngày bằng cả sức lực của mình để hấp thụ mọi thứ hơn rất nhiều so với những bạn sáu năm đi học rồi ra trường đi làm ở Nhật. Chị thấy là, dù ở đâu đi chăng nữa, con người ta chỉ có thể hạnh phúc khi tự bản thân mình cố gắng mà thôi.”
“Chỉ có thể hạnh phúc bằng những gì tự bản thân mình cố gắng…”
Những tiếng đó lặp lại trong đầu tôi.
Với một đứa trước kỳ thi là trong đầu lại nghĩ ra đủ lý do để chạy trốn như tôi thì đây quả là những từ không dễ chịu chút nào. Nhưng mà đồng thời tôi cũng cảm nhận được bên trong mình có một dũng khí sục sôi thôi thúc mình hành động.
“Sau khi về Nhật, chị lại học được nhiều điều về đất nước này. Chị biết nhiều về lịch sử, văn hóa, chính trị, đền chùa. Tháng sau, chị sẽ sống ở Mỹ nhưng lần này thì chị sẽ mang đến đó rất nhiều điều tốt đẹp về nước Nhật.
Chị không biết một mình mình thì có thể làm được gì, nhưng chị muốn họ nghĩ người Nhật thật là tuyệt vời, đất nước Nhật thật tốt đẹp, càng nhiều người biết đến điều đó càng tốt.”
“Vậy là chị đã cố gắng học hành vì điều đó ạ?”
“Tất nhiên, đầu tiên đơn giản vì chị muốn biết những kiến thức đó. Thường thì tầm tuổi học sinh cấp ba như em thì đều nghĩ là đi du học bên đó và có thể nói được tiếng Anh thì tuyệt nhỉ, đúng không?”
“Vâng, em thấy rất là ngầu.”
“Nhưng mà, cái đó chẳng có gì tuyệt vời hay gì cả. Vấn đề là cái người biết nói tiếng Anh đấy nói cái gì. Em có hiểu không?”
“Nói cái gì… ấy ạ?”
“Ừ. Đến Mỹ rồi thì việc nói được tiếng Anh chẳng phải là kỹ năng đặc biệt gì cả. Đó chẳng qua là điều đương nhiên mà thôi. Nhưng, cho dù chỉ nói được một thứ tiếng nhưng người mà có cái gì đó của riêng mình thì cho dù ở thế giới nào họ cũng sống tốt. Ngược lại, cho dù người đó nói tiếng Anh rất lưu loát nhưng con người họ rỗng tuếch thì chẳng có ý nghĩa gì. Em cũng vậy thôi. Sau này, em có muốn đi du học không?”
“Vâng. Cũng không phải là không thích ạ.”
“Ừ. Nên đi chứ. Em hãy đi ra thế giới khác nhiều hơn. Đi rồi em sẽ hiểu. Những người mà quan tâm đến em họ sẽ muốn hỏi em về nước Nhật và văn hóa. Nếu mà lúc đó em không biết gì thì dần dần họ cũng sẽ không còn hứng thú với bạn người châu Á cất công sang tận đây chỉ để học tiếng Anh cho mình nữa.
Nếu em muốn đi du học nước ngoài thì em hãy chăm chỉ học lịch sử Nhật bản hay văn học cô sẽ tốt hơn rất nhiều so với học tiếng Anh. Mấy cái ông lãnh đạo đất nước này không hiểu rằng toàn cầu hóa không phải là cứ học tiếng Anh thì sẽ thành công dân quốc tế đâu.
Tiếng Anh thì cứ sang bên đó là sẽ tự nhiên nói được, nếu không đi thì cho dù có cố đến thế nào đi chăng nữa cũng vậy thôi. Điều quan trọng hơn là tất cả những người sống ở cái đất nước này phải biết nhiều hơn về đất nước mình, có lòng yêu nước, khi ra nước ngoài thì hãy tự tin mà hãnh diện truyền tải những điều đó mới được. Nói người Nhật trở thành công dân quốc thế thì chính là điều này còn gì.”
“Nghe chị nói em mới thấy đúng là thế ạ. Em chẳng suy nghĩ gì, cứ nghĩ rằng công dân quốc tế thì nghĩa là người nói được tiếng Anh.”
“Chị nói nghe có vẻ vậy thôi chứ thực ra cho đến khi ra nước ngoài chị mới hiểu ra điều này.”
Chị Chisato cười vui vẻ.
Trông kiểu chị cười hơi giống chú Yanagishita.
Sau đó, đột nhiên chị nghiêm mặt lại, nói lớn:
“Nào, chàng trai. Em là thanh niên Nhật Bản cơ mà. Đừng có nhút nhát như vậy chứ. Hãy mang niềm tự hào đó ra thế giới, hãy cho họ biết người Nhật là như thế nào. Nhờ cả vào cậu đấy thanh niên trẻ nhé. Mà cậu lại còn là thanh niên Kyushu cơ đấy.”
“Em biết rồi ạ…”
“Nói nhỏ quá. Nói lại một lần nữa!”
“Em hiểu rồi ạ!”
“Hiểu là được rồi.”
Chị cười lớn.
Phía trước đường cao tốc vòng qua những quả núi quanh co bỗng mở ra một đồng bằng rộng lớn. Chị Chisato nói với tôi sắp đến nơi rồi. Tôi nhìn qua cửa sổ nghĩ ngợi.
Cũng giống chị Chisato, sắp đến ngày tôi rời xa bố mẹ. Có thể lựa chọn sống cùng với bố mẹ như anh trai tôi. Nhưng mà tôi chắc không chọn con đường đó. Vậy là cuộc sống với bố mẹ của tôi chỉ còn lại hơn một năm nữa thôi.
Chắc tôi cũng giống như chị Chisato nói, chỉ khi xa bố mẹ rồi mới biết biết ơn bố mẹ. Không biết tôi có thể trở thành người tự hào mà kể về quê hương mình đã không lấy gì làm yêu thích cho lắm hay không.
“Đi tìm bản thân mình, đó chẳng qua là lý do lý trấu mà thôi.”
Trong đầu tôi cứ vang mãi câu nói này của chị Chisato.
Đúng thế. Cho dù có đi đến đâu thì ở đó cũng chỉ là mình của ngày hôm nay. Tôi đã nghĩ mình ở một nơi nào đó trong tương lai thì sẽ là một người khác nhưng giờ tôi hiểu ra rằng đi đâu thì cũng chỉ là tôi của ngày hôm nay mà thôi.
Chị Chisato đã dạy cho tôi chính những việc trước mắt mình mới là quan trọng nhất. Quả đúng thế, thời khắc này là tiếp nối của những sự kiện mà tôi không thể đánh đổi với bất kỳ điều gì trong cuộc đời mình. Tôi chưa bao giờ để ý nhưng thực ra thì những lúc ở nhà, những lúc nói chuyện với bố mẹ, những lúc ở với bạn bè đều quý giá như vậy. Có những thứ chỉ khi mình không thể quay lại được nữa mới thấy hối tiếc. Tôi thì không muốn chỉ đến khi không làm lại được nữa mới nhận ra một chút nào. Tôi hoàn toàn không muốn như vậy.
⚝ ♪ ⚝
Chị Chisato đưa tôi từ Matsuyama đến cảng Yawatahama.
“Đây, vé lên tàu của em đây. Sắp về đến Kyushu rồi.”
“Em cảm ơn chị. Chị ơi, nhờ chị chuyển lời cảm ơn của em đến chú Yanagishita nhé ạ.”
“Chị nhớ rồi. Thôi, em lên đi.”
Tôi chào chị lần nữa rồi bước lên tàu.
Đây cũng là phà chở khách lộng lẫy giống như hôm qua. Bước lên phà là có ngay băng chuyền dẫn đến sảnh. Tôi đi theo băng chuyền rồi vội vàng leo lên cầu thang để lên boong.
Chị Chisato đứng yên, nhìn về phía bến phà. Chị vẫy tay khi vừa nhìn thấy tôi. Chị còn tiễn tôi nữa cơ đấy.
Chiếc phà nhanh chóng rời bến tiến vào vịnh.
“Cảm ơn chị.”
Tôi gắng sức hét thật to. Nhưng tiếng hét của tôi bị cuốn vào tiếng động cơ của phà, chắc là chị Chisato không nghe thấy. Chị vẫn cười thật tươi, vẫy tay về phía tôi.
Nước mắt tôi trào ra.
Sao thế nhỉ? Lâu lắm rồi tôi không khóc trước mặt người khác. Nước mắt mà chực trào ra là tôi sẽ cố nén cảm xúc của mình lại, bắt mình nghĩ đến một việc khác để ngăn nước mắt chảy ra. Vậy mà tôi lại khóc khi nhìn thấy chị Chisato tiễn mình.
Tôi sẽ không bao giờ quên khung cảnh này.
Tôi sẽ không chỉ nhớ chị Chisato.
Tôi nhớ cô Tanaka ở sân bay. Anh Kihara chủ cửa hàng cắt tóc ở Kichijoji. Rồi anh Yuta con trai cô Tanaka. Anh cảnh sát ở Atsugi, anh Ota. Chú Yanagishita người đã đưa tôi đến đây và chị Chisato. Cả bác sĩ ở Toyoko, chú Wada nữa.
Những câu chuyện với từng người cứ hiện lên rồi biến mất trong đầu tôi.
Tất cả, tất cả đều là những cuộc gặp gỡ quý giá không gì có thể đánh đổi trong cuộc đời tôi. Tôi đã tình cờ, mà không, có lẽ là tất nhiên gặp gỡ những con người như vậy, gặp gỡ rồi lại chia ly.
Tôi quyết tâm sẽ gặp lại tất cả những người ấy.
Nêu không đặt quyết tâm đấy, lòng tôi cứ như thắt lại vì cái cảm giác được gặp gỡ những con người tuyệt vời như vậy mà lại không được gặp lại lần thứ hai.
Dòng suy tưởng cứ mãi tuôn trào, tôi bật khóc to thành tiếng.
Vì sao tôi lại được gặp những con người tuyệt vời ấy. Bây giờ, tôi mới biết những giọt nước mắt này cũng là những giọt nước mắt của sự xúc động.
Phải rồi, nước mắt chảy xuống, nhưng có thể ngẩng cao mặt mà cười.
Đây không phải là nước mắt của sự ấm ức buồn tủi mà là những giọt nước mắt xúc động, biết ơn những cuộc gặp gỡ trong đời.
Tôi ngẩng mặt lên, để mặc cho gió biển mơn man trên khuôn mặt đầy nước mắt.
Trong lúc tôi đắm chìm trong cảm xúc thì chiếc phà đã đi rất xa, không nhìn rõ bờ nữa rồi.
Nước mắt tôi đã khô. Cũng không nhìn thấy chị Chisato nữa.
“Hướng về tương lai nào. Nhìn về phía trước, thẳng tiến thôi!”
Lòng tôi trong trẻo như bầu trời xanh thẳm không một gợn mây.
Có lẽ những giọt nước mắt xúc động tràn ra đã cuốn trôi đi bao muộn phiền đi rồi. Tôi ngạc nhiên nhận ra trong thế giới này, việc sống trên đời hóa ra lại là một việc vô cùng đơn giản. Ngay lúc này, tôi thực sự có cảm giác như vậy.
Bây giờ, tôi mới để ý, bên cạnh tôi cũng có một người đang chăm chú nhìn xuống biển. Tôi vừa chợt quay sang nhìn người đó thì người đó cũng hướng ánh mắt về phía tôi. Chúng tôi nhìn nhau.
Người đó cũng chan hòa nước mắt.
Tôi đột nhiên cúi đầu chào.
“Nước mắt của cậu báo hiệu cậu sẽ trở thành một con người mới. Nước mắt của tôi là nước mắt mong muốn mình được về lại mình ngày xưa…”
Ông đã nói như thế. Tôi không hiểu ông đang nói về chuyện gì, chỉ mỉm cười. Ông cũng cười với tôi.
“Cháu còn trẻ mà trông chững chạc nhỉ. Cháu đang đi du lịch à?”
“Vâng ạ.”
“Thích nhỉ. Có lẽ lâu lắm rồi ông mới nói chuyện với một người trẻ có ánh mắt như cháu. Thế đây chắc là chuyến đi làm cho cháu trưởng thành đấy hả? Không phải à?”
“Không không, đúng là như thế ạ. Cháu của bây giờ và cháu của vài ngày trước đây thôi là hoàn toàn khác nhau ạ.”
“Ồ… Thế tức là cháu đã có những cuộc gặp gỡ tuyệt vời hả?”
“Sao ông biết ạ?”
“Con người ấy mà, nếu không có những cuộc gặp gỡ mới thì sẽ khó mà trưởng thành lên được cháu ạ. Ngày xưa, thứ khiến cho người ta trưởng thành được quyết định bởi những cuộc gặp gỡ và giá cả thị trường.”
“Đúng như ông nói đấy ạ. Cháu đã có rất nhiều những cuộc gặp gỡ quý giá.”
“Thế, cho lão già này nghe chuyện những cuộc gặp gỡ đó đã thay đổi cháu thế nào được không?”
“Dạ. Nói ra thì khó lắm ạ, cháu đã được nhiều người dạy cho nhiều bài học ạ.”
Tôi kể cho ông nghe một hồi những chuyện đã xảy ra với tôi trong năm ngày từ khi tôi rời Kumamoto đến hôm nay.
Ông Mishina say sưa nghe tôi kể từ đầu đến cuối.
“Hóa ra là thế. Thế nên cháu mới có vẻ mặt như vậy đấy hả? Rất là tâm phục khẩu phục.”
“Nhìn mặt là có thể biết được à ông?”
“Ừ, biết chứ. Những thanh niên có vẻ mặt như cháu chắc chắn sẽ đổi thay đất nước này.”
“Ôi không ạ… Làm gì có chuyện thay đổi đất nước này ông ơi. Cháu nói ra vẻ là cháu bây giờ khác với mây ngày trước đây nhưng mà cháu thậm chí còn chưa biết mình sẽ làm gì đây ông ạ…”
“Việc đấy thì sau này cũng không sao mà. Chỉ cần bây giờ cháu thẳng thắn đối diện một cách trung thực với điều mình thích là được rồi. Không cần nghĩ đến những việc khác. Nếu không làm như vậy, cho dù cháu cứ ngồi mà nghĩ mãi về việc mình làm được gì thì cũng không nghĩ ra đâu.”
“Thẳng thắn đôi diện một cách trung thực với điều mình thích…”
Tôi nhắc lại lời ông.
“Đúng thế. Thực ra việc này chẳng có gì lạ. Đổ làm được điều mình thích thì phải rất dũng cảm. Nhưng điều quan trọng không phải là kết quả. Mà là khi ta làm điều đó, cảm giác của mình như thế nào.”
Tôi chợt nhớ đến môn bóng chày mà mình đã bỏ bẵng từ khi lên cấp ba. Lý do vì sao tôi bỏ bóng chày, tôi là người hiểu rõ nhất. Là vì tôi đã thấy bực mình, nghĩ mình thật chẳng ra sao khi bị thành cầu thủ dự bị do một em cấp dưới trong Câu lạc bộ bóng chày hồi cấp hai chiếm mất vị trí Regular. Nếu nói như ông Mishina thì tôi đã từ bỏ việc trung thực với điều mình yêu thích. Nếu như tôi không có hứng thú với bóng chày nữa thì sẽ giống như những người xung quanh nói. Vì không có hứng thú nên sẽ không còn muốn rèn luyện năng lực nữa, tự tạo ra câu chuyện mình bị tranh vị trí Regular, tránh phải đối diện với nó. Viết ra được bằng câu chữ như thế này tôi mới hiểu rõ như tôi bây giờ còn tệ hơn.
Nhưng tôi ngày đó không có dũng khí để đối diện. Lúc đó, tôi cũng bị nói là đứa có lòng tự trọng cao, nếu nó bị động chạm thì sẽ từ bỏ cuộc chơi ngay từ đầu.
“Vâng. Đúng là cần có lòng dũng cảm ông nhỉ? Cháu cũng không biết là mình có đủ sức mạnh để không màng đến kết quả mà nói đây là điều mình thích rồi tiếp tục làm điều đó cho dù người ta có nói gì đi chăng nữa hay không.”
“Hahaha… Cháu mà tự mình nói ra được điều đó rồi thì cháu sẽ ổn thôi.”
“Nếu cháu cứ thẳng thắn đối diện với điều mình thích, sống vì nó, thì cháu có thể sống một cách tự tin như những điều mà những người cháu đã gặp trong chuyến đi này đã dạy cháu không ông nhỉ?”
“Có chứ, thành chứ. Ông kể cho cháu nghe chuyện này, cháu có muốn nghe không?”
“Có ạ. Cháu rất thích những lần gặp gỡ như thế này ạ. Chắc chắn việc cháu gặp được ông cũng là để nghe những câu chuyện như vậy ạ. Ông kể cho cháu nghe đi ạ.”
“Hahaha, cảm ơn cháu. Nhưng mà ở đây hơi lạnh rồi, ta vào trong đi.”
“Vâng ạ.”
Chúng tôi ngồi xuống đối diện chiếc bàn trong sảnh.
Ông Mishina vừa nói “Lạnh đây nhỉ…” rồi cởi mũ đặt lên bàn.
“Con người ta đến một lúc nào đó sẽ gặp gỡ với sứ mệnh của cuộc đời mình. Thời bây giờ những người như cháu thì vẫn còn sớm để gặp được sứ mệnh đó, nhưng khi ông còn trẻ, thanh niên tầm tuổi các cháu là đã hiểu được sứ mệnh cuộc đời mình là gì rồi. Cháu có biết vì sao không?”
“Dạ, chắc là ngày xưa thì mọi người người lớn hơn ông nhỉ?”
“Không hẳn như vậy đâu cháu. Như ông hồi bằng tuổi cháu cũng đi tắm sông, cũng toàn làm những việc trẻ con và ngu ngốc như học sinh cấp ba tụi cháu bây giờ vậy.”
“Vậy thì vì sao ạ… chắc là các ông đã được dạy về điều đó ạ?”
“Cũng không phải là sai. Nhưng ít nhất thì ông không cảm thấy mình đã bị ai đó khoác cho cái sứ mệnh nào đó bằng việc được dạy dỗ ở trường. Ông đã tự mình tìm nó. Câu trả lời là vì thời các ông cảm nhận rõ ràng về tính hữu hạn của sinh mệnh hơn bây giờ nhiều.”
“Tính hữu hạn của sinh mệnh… ấy ạ.”
“Ừ. Sứ mệnh thì đúng như các chữ của nó, mình phải tự quyết định mình sử dụng cuộc sống này cho việc gì. Người mà càng hiểu rõ việc cuộc sống này là hữu hạn bao nhiêu thì họ càng cố gắng tìm hiểu sứ mệnh của bản thân là gì. Có thể nói đến mức là không thể sống mà cứ chờ đợi. Thời ông bằng tuổi cháu thì đang có chiến tranh. Mọi người đều không biết mình có thể sống đến bao giờ. Có khi chỉ còn nửa năm nữa thôi. Lúc đó nó như thế đấy. Ông nghĩ sứ mệnh của mình là hành động mong muốn biến sinh mệnh hữu hạn thành cái gì đó tồn tại vĩnh viễn. Vì thế, thông qua trải nghiệm cảm nhận được tính hữu hạn của sinh mệnh bản thân, con người có thể thức tỉnh cảm giác về sứ mệnh., Nếu mình thực sự nghĩ là mình chỉ còn sống được năm năm nữa thôi, thì mình có còn giữ thật nhiều tiền trong năm năm đó hay không. Mình có định xây một cái nhà thật to hay không. Chắc chắn sẽ không nghĩ như vậy. Hành động đó là sau khi cảm nhận được tính hữu hạn của sinh mệnh lại muốn thay đổi nó thành cái gì đó hữu hạn. Chẳng ai muốn làm điều đó cả.
Khi thực sự nghĩ mình chỉ sống được năm năm nữa thôi thì cái mà người ta nghĩ đến phải là mong muốn được biến sinh mệnh hữu hạn này thành cái gì đó vĩnh viễn chứ, đúng không? Đó không phải là sứ mệnh thì là gì? Tất nhiên, năm năm hay năm mươi năm thì cũng thế.
Cùng là khoảng thời gian năm năm, mà có người thì thấy là những năm năm, có người lại thấy chỉ có năm năm. Năm mươi năm thì cũng vậy.
Tóm lại là, thông qua trải nghiệm hiểu rõ rằng đời sống của mình là hữu hạn thì con người sẽ tìm ra được sứ mệnh của mình là gì và tùy vào độ cảm nhận mà nó sẽ quyết định việc người ta trung thành với sứ mệnh của mình đến mức nào.”
Những lời ông Mishina nói thật khó đối với tôi.
Nhưng tôi có thể hiểu được.
Chúng ta sống vào thời kỳ hạnh phúc, nên cứ tưởng rằng cuộc sống của mình sẽ kéo dài mãi mãi. Cho dù mình biết rằng đời sống là hữu hạn đi chăng nữa thì cứ sống như thể là nó vẫn còn vô tận vậy.
Quả đúng là như vậy.
Cho nên, có thể tôi muốn sử dụng thời gian quý giá của mình để tích lũy nhiều tiền một chút, để được sống trong căn nhà to một chút. Cho dù kết quả của nó tôi biết nó chỉ là cái hữu hạn hữu hình mà thôi. Nhưng thực tế, ví dụ tôi có sống được thêm bảy mươi năm nữa đi chăng nữa thì khi bảy mươi năm ấy trôi qua, nhìn lại cũng chỉ như một cái chớp mắt.
Những người có thể cảm nhận được tính hữu hạn của cuộc đời ở thời đó, cho dù họ sống ở thời đại này đi chăng nữa, thì chắc họ cũng sẽ tìm thấy được sứ mệnh của mình.
“Vậy là tùy vào cách cháu nghĩ, cháu cũng có thể cảm nhận được sứ mệnh của mình đúng không ạ?”
“Cũng không cần phải vội vã vậy đâu. Bây giờ đã là thời bình rồi. Không cần phải vội vàng tìm kiếm sứ mệnh nữa. Cháu chỉ cần thẳng thắn đối diện với những điều mình muốn làm và kiên trì với nó thì một lúc nào đó cháu sẽ tự nhiên cảm nhận được sự hữu hạn của đời sống. Khi đó cháu sẽ cảm nhận được từ tâm của mình cái mong muốn biến đời sống hữu hạn thành cái gì đó vĩnh cửu. Có lẽ đối với người còn trẻ như cháu sẽ có đôi chút khó khăn, nhưng nếu cháu biết trân trọng mối duyên gặp gỡ với nhiều người trong tương lai, như cháu đã được tạo nên từ những người mà cháu gặp gỡ trong chuyến đi này, thì tự nhiên sẽ có ngày cháu hiểu ra điều đó. Là cái ngày mà cháu nghĩ rằng, à sứ mệnh của đời mình là điều này đây.”
Tự dưng tôi thấy mình dũng cảm hơn.
Không cần phải nóng vội. Chỉ cần trực tiếp đối diện một cách thẳng thắn với điều mà mình thích và kiên trì với nó. Trân trọng mới duyên gặp gỡ.