Chương 3 THÁO BỘT
Hai tuần sau đó, tôi thức giấc vì tiếng động cơ của chiếc xe tải Công ty bố. Bộ lốp xe mới nghiến lên mặt sân đất trải sỏi, đây là bộ thứ ba trong năm nay vì axit thường ăn mòn lốp. Tôi ngồi dậy trên giường, cảm giác chuếnh choáng, tôi nhìn ra ngoài cửa sổ khi bố lái xe qua cầu.
Thường tôi có thể nhìn bố lái tới tận Công ty, nhưng hôm nay bố biến mất vào làn sương dày.
Tôi xoa cái chân thỏ may mắn của mình, ráng làm dịu bụng trong khi cầu nguyện như mọi ngày. “Làm ơn để bố về nhà an toàn, làm ơn để bố về nhà an toàn.” Tôi biết làm thế thật ngốc, nhưng tôi đã tụng như vậy từ hồi bé tí. Cầu nguyện khiến tôi cảm giác như mình đang làm gì đó giúp bố. Có lẽ nếu tôi cũng cầu nguyện cho chú tôi… tôi nói thêm một lời cầu nguyện cho tất cả các thợ mỏ khác.
Tôi có được chiếc chân thỏ may mắn này hồi lên tám khi đến Thành Phố Đá ở Chattanooga cùng ông bà ngoại, trước khi bà mất vì ung thư phổi. Có rất nhiều biển chỉ dẫn “Hãy ngắm Thành Phố Đá” được sơn trên mái chuồng trại suốt đường đi. Tôi không thế chờ để được dạo qua các hang động tường vách lót đầy pha lê như trong chuyện cổ tích với các thần lùn giữ cửa được đặt khắp mọi ngóc ngách. Tôi muốn lượn qua Đường Ép Gã Béo, một con đường nằm giữa hai mặt đá, để ngắm nhìn bảy bang từ trên cao.
Mãi tới khi lớn hơn tôi mới thấy lạ lùng sao ông ngoại lại muốn chui vào hang động trong kỳ nghỉ sau một đời làm thợ mỏ. Dù sao ông ngoại cũng đã có mặt trong chính vụ sập mỏ giết chết ông nội.
Họ là bạn thân của nhau khi việc đó xảy ra. Ông ngoại Chase thoát khỏi vụ sập với một chấn thương ở lưng và không thể làm thợ mỏ nữa, đó là lý do ông mở quán Mồi Và Bia, còn ông nội không thoát được. Ông ngoại nói ông không nhớ công việc khai mỏ, nhưng ông nhớ cảm giác ở bên dưới lòng đất. Bất chấp những điều tồi tệ đã xảy ra, ông nói ở dưới đó cảm giác như đang ở trong bụng Mẹ Thiên Nhiên vậy.
Nếu tôi cũng có cảm giác như thế về việc ở dưới lòng đất, mọi chuyện với bố tôi đã dễ dàng hơn. Sau chuyến đi tới Thành Phố Đá, tôi biết con tim mình đã đặt ở một nơi khác.
Đó là một trong những chuyến đi đầu tiên của tôi ra khỏi Thị Trấn Đồng và tôi đã nhìn thấy rất nhiều màu xanh. Tôi không ngừng há hốc miệng khi thấy cây cối cao vút vượt quá đầu xe ô tô. Ở Thị Trấn Đồng tôi hiếm khi phải ngước lên nhìn thứ gì ngoài bầu trời. Khi nhìn thấy các hang động, tôi chẳng mấy quan tâm, tôi đã thấy quá nhiều đá trong đời mình. Tôi bắt đầu đem lòng yêu cây cối.
Tôi xoa chiếc chân thỏ, nhớ lại mình đang đứng bên ngoài Thành Phố Đá, dưới bóng một cái cây mà bà ngoại tôi gọi là cây phong, và phải căng hết người, nghển cổ về sau mới có thể thấy ngọn cây xuyên qua một tán dày những chiếc lá mỏng như tờ giấy. Ánh sáng xuyên qua những chiếc lá như kính màu tạo nên cả triệu sắc độ xanh khác nhau. Tôi đặt bàn tay lên thân cây để giữ thẳng người, tôi thề mình có thể cảm thấy thân cây đang ngâm nga. Tôi có cảm giác đang ở nhà thờ và trải nghiệm một điều gì đó thật linh thiêng, như thể bằng cách nào đó cái cây đang nói chuyện với tôi vậy.
Khoảng một tháng sau chuyến đi, tôi tìm thấy một tấm áp phích hình cây cối trên tạp chí National Geographic, tấm áp phích chỉ toàn cây và tôi đã dán nó lên tường phòng ngủ. Đôi khi tôi mơ thấy mình là một chú chim đang bay phía trên một cánh rừng, được hít thở toàn bộ màu xanh ấy.
Bố yêu thích mọi thứ bên dưới lòng đất, và tôi đoán ông ngoại Chase cũng thế, còn tôi yêu mọi thứ nằm phía trên. Ờ, mọi thứ mà đúng lý là nằm phía trên theo cách nào đó.
Tấm áp phích nhắc tôi nhớ tới điều cô Post nói vào ngày chú Amon mất. Rễ cây giữ đất lại. Nhưng chúng tôi không có cây cối gì ở Thị Trấn Đồng. Nếu chúng tôi có cây cối, liệu chú Amon còn sống chứ? Có khi nào cây cối cứu được bố tôi không?
Mất bao lâu mới trồng được một cánh rừng nhỉ?
Tôi tưởng tượng các chồi non nhú lên, lan tỏa rễ bên dưới lòng đất, rồi ngọn cây vươn tới trời cao. Ban đầu chúng chỉ như những cành con, rồi thân cây lớn hơn và cao hơn. Các cành cây vươn ra mọi hướng, lá cây mọc theo cành như những đợt sóng màu xanh lá. Chúng đổ bóng xuống Những Ngọn Đồi Đỏ, nơi chưa từng được che bóng trước đây. Không khí mát lành, chim làm tổ, tôi và Piran trèo lên những cành cây, leo cao, cao mãi, hít thở thật sâu mà không lo phổi dính bụi.
Dù vậy, ngay cả trong những tưởng tượng của tôi, để có một cánh rừng cũng mất rất nhiều thời gian. Mà từ trước tới nay, chúng tôi chưa từng trồng được thứ gì mọc trong vườn của mẹ, đừng nói tới các chỗ khác trong thị trấn, thì việc trồng rừng sẽ còn mất nhiều thời gian hơn nữa. Tôi thở dài.
Đoạn tôi cố nhớ hôm nay là thứ mấy - thứ Sáu rồi. Thứ Sáu không chỉ là ngày cuối cùng trước cuối tuần, mà còn là ngày lớp bó bột trên tay tôi được tháo. Cuối cùng cũng đến ngày này!
Tôi rời khỏi giường, mặc đồ nhanh kỷ lục. Mùi xúc xích rán trên chiếc chảo sắt quấn lấy tôi khi tôi bước xuống hành lang. Bụng tôi réo lên.
“Bữa sáng có bánh quy và nước sốt.” Mẹ nói. “Tự lấy sữa mà uống nhé.”
“Không có trứng ạ?” Tôi có thể ăn mấy quả trứng và cả con gà nữa.
“Mẹ làm quả trứng cuối cùng cho bố rồi. Hôm nay mẹ sẽ nhặt thêm ít trứng ở cửa hàng của Công ty.” Mẹ nhìn ra ngoài cửa sổ. “Sáng nay sương mù quá. Không giặt giũ được.” Mẹ thở dài. “Sương mù ăn mòn hết mấy đôi tất dài của mẹ từ lần trước, mà mẹ không thể cứ mua một đôi mới mỗi lần cần dùng được.”
Sương mù ở chỗ chúng tôi giống như mưa axit dính dấp, hơi sương đốt nhiều lỗ trên tất của mẹ chỉ trong vài tiếng. “Con đóng cửa sổ phòng con rồi.” Tôi nói. Như thế sẽ không bị ẩm ướt trong phòng.
“Tốt. Dù mẹ hy vọng trời hôm nay đừng có nóng như thế.” Mẹ nói. “Trời ạ, đóng hết cửa thành ra trong này ngột ngạt quá.”
Mẹ bắt đầu hát bài Khi chú chim sẻ bay đi. Mẹ đã hát giai điệu ấy từ lúc nào tôi cũng không nhớ nữa. Tôi còn không nghĩ là mẹ biết mình đang hát. Như một chú chim, mẹ chuyển từ giọng trầm sang giọng kim. “Khi chú chim sẻ bay đi, con tim em cũng bay đi, mang tình yêu của em dành cho anh.” Đó là âm thanh của mẹ tôi.
Tôi ngu ngốc tự nhồi mình bằng hai chiếc bánh quy ngập trong nước sốt.
“Jack ơi, con sẽ nghẹn mất. Ăn chậm thôi.” Mẹ nói.
“Theo con bánh quy là đồ ăn hoàn hảo nhất trên đời.” Tôi cười nhăn nhở. Cần phải uống nguyên một cốc sữa để cuốn trôi khối gạch đó xuống đáy dạ dày, nơi nó sẽ được ấm áp và hạnh phúc.
Mẹ đưa tôi bữa trưa gói trong bao giấy nâu. “Giờ nhớ này, mẹ sẽ đón con sau bữa trưa rồi chúng ta cùng tới bệnh viện.”
Đây hẳn là lần duy nhất trong lịch sử mà mấy từ ấy nghe tốt lành đến thế. “Con sẽ không quên đâu ạ!”
“Hôn mẹ nào.” Mẹ gõ vào má mình khi tôi sắp đi.
“Ầy, mẹ ơi. Con quá lớn cho mấy trò sến súa này rồi.”
Mẹ chộp lấy mặt tôi rồi đặt một nụ hôn lên trán.
“Con sẽ không bao giờ quá lớn để tỏ lòng yêu kính mẹ mình đâu.”
※
Những ngày sau khi chú Amon mất, đám trẻ ở trường né tránh tôi như thể tôi đã bị vấy bẩn bởi vận rủi hay điều gì đó. Chúng nhìn tôi chằm chằm và ngừng nói chuyện mỗi khi tôi đến gần. Nhưng hôm nay chúng không làm thế, có lẽ bởi vì tôi không thế ngừng cười được.
“Cậu sẽ thôi đi chứ?” Pĩran nói khi chúng tôi bước xuống hành lang. “Mọi người đang nhìn cậu.”
“Tớ không dừng được.” Tôi nói khi suýt nhún nhảy khỏi đôi giày đế mềm cũ rích của mình. “Sau bữa trưa tớ sẽ được tháo bột!”
“Ờ, chuyện đó thật tốt.” Tai Piran chuyển sang màu đỏ, một dấu hiệu rõ ràng cho thấy cậu ấy vẫn cảm thấy tệ về việc này. “Nhưng cậu có thể dừng nhún nhảy nhiều như thế không? Cậu đang bày trò để người ta nhìn đấy.”
“Này, ít nhất thì mọi người cũng không thì thầm nữa.” Tôi nói, bụng tôi dịu đi một chút.
Kể cả khi bụng có đói thì tôi vẫn khó mà tập trung vào bài kiểm tra nhận dạng cây cối, thế nên tôi chỉ nhận được điểm A trừ. Piran nhận điểm C, cậu ấy khá hài lòng với kết quả này.
“Không thể nào học trong nhà tớ được.” Cậu ấy nói. Nếu tôi lúc nào cũng phải ở gần chị gái của Piran, Hannah, thì tôi cũng không thể học được. Nhưng cậu ấy không có ý nhắc tới Hannah. “Các anh chị em của tớ luôn chạy quanh nhà rồi hét ầm lên.” Cậu ấy thêm. Tôi đã nhìn và nghe thấy quá nhiều lần điều đó, cường độ âm thanh cứ mỗi năm lại lớn hơn. Bố nói bác gái nhà Quinn “phun” ra em bé giống như hộp đựng kẹo của hãng Pez* vậy.
•
Công ty kẹo của Áo, nổi tiếng với thiết kế hộp đựng kiểu hình hộp đứng chứa các viên kẹo cứng dạng nén, để lấy kẹo người dùng đẩy phần nắp - thường có hình thù các nhân vật hoạt hình hoặc truyện tranh nổi tiếng.
Một lần tôi hỏi mẹ vì sao tôi không có anh chị em. Mẹ nói bố mẹ đã cố gắng hai lần trước khi có tôi, nhưng đều không thành. Nhìn mẹ chảy nước mắt, tôi quyết định sẽ không hỏi thêm câu nào về việc ấy nữa. Mặc dù tôi thích ý nghĩ mình có một anh trai và chị gái đâu đó trên thiên đường. Thêm cả hai vào cùng ông bà nội Hicks, bà ngoại Chase và chú Amon, tôi có một đội quân thiên thần bảo vệ, trông chùng tôi.
Như đã hứa, mẹ đến trường sau bữa trưa, xe của mẹ cuốn tung đám bụi đất khi dừng lại ở bậc cầu thang. Tôi không muốn có sạn trong miệng, vì thế trong khi chờ đám bụi lắng xuống, tôi hét lên với cậu em họ vẫn đang chơi bắt bóng trong sân. “Này Buster, lần tới gặp em là anh chơi bóng được rồi nhé!”
“Cũng đến lúc rồi đấy, quỷ tha ma bắt!” Cậu ta la lên và giả vờ ném quả bóng vào người tôi. Tôi cúi xuống né, cậu ta cười. Cậu em họ tôi hoàn toàn có thể làm thế thật, tôi không bỏ qua khả năng này.
Nói về việc tháo bột và tiến hành nó là hai chuyện khác nhau. Chúng tôi phải quay lại chính nơi chú Amon đã ra đi chỉ mới hai tuần trước. Việc bước vào phòng chờ khiến buổi chiều hôm đó như một giấc mơ tồi tệ. Tôi vẫn nghe thấy tiếng thét của cô Catherine dội qua những bức tường màu xanh biển, đó là màu cây bút chì tôi ít thích nhất. Mấy hôm trước khi chúng tôi gặp bố mẹ cô Catherine trong thị trấn, họ bảo không biết lúc nào cô mới về, vẻ mặt họ căng lại như thể đang tự hỏi liệu có bao giờ cô ấy về nhà nữa không.
Cánh tay tôi nhột nhột như thể nó cũng biết có điều gì đó sắp diễn ra, còn chân tôi muốn đi chỗ khác. Tôi cố không sốt ruột trong khi chờ y tá gọi tên. Tôi nhìn đồng hồ chạy tích, tích, tích và chăm chú ngó mấy bức tường màu xanh biển. Ai đã quyết định màu này giúp bình tĩnh vậy? Nó khiến tôi buồn nôn.
“Ai là Jack Hicks?” Y tá hỏi. Đến lúc rồi.
Cô y tá dẫn chúng tôi đi qua hai cánh cửa lớn màu bạc vào một hàng giường tách biệt nhau bằng những tấm mành rủ xuống từ trần nhà.
“Cứ ngồi thoải mái nhé.” Cô nói và vỗ một chiếc giường. “Lát nữa bác sĩ Davis sẽ đến gặp cháu.” Bác sĩ Davis là bác sĩ riêng của tôi từ khi tôi sinh ra. Mẹ nói ông ấy chuyến tới Thị Trấn Đồng ngay sau khi rời khỏi trường y và chưa từng ra khỏi thị trấn. Có điều gì đó về thị trấn của chúng tôi ám ảnh người ta. Tôi không ngạc nhiên, thị trấn đầy những người tốt. Mặc dù nếu chúng tôi có cây cối thì tôi cá là còn có nhiều người ở lại hơn nữa.
Tôi leo lên chiếc giường cao, đè lên lớp giấy trắng bên dưới kêu sột soạt, cảm giác hệt như một đứa bé năm tuổi. Đây có phải là chiếc giường nơi chú mình qua đời không? Ruột gan tôi bắn lên như dầu trong chảo nóng, mặc dù tôi đang cố hết sức để bình tĩnh.
Hít vào, thở ra, hít vào, thở ra. Tôi nhắm mắt và thở. Bụng mình không sao. Mình không cảm thấy bệnh. Rồi bác sĩ Davis xuất hiện và cắm điện chiếc cưa của ông.
Tôi không biết liệu mình tò mò hay chỉ đơn giản là sợ quá, nhưng tôi phải giương mắt nhìn khi lưỡi dao quay tít hướng về phía cánh tay mình. Tiếng cưa xé tai vang khắp căn phòng nhỏ, dội vào những bức tường xi măng. Tôi lui người để che hai tai, nhưng bác sĩ Davis nói: “Jack, để yên nào. Sẽ chỉ mất một phút thôi.”
Bụi thạch cao bắn lên như đuôi gà trống khi chiếc cưa ngập vào lớp bột. Tôi lờ đi đám bụi đang bay, chăm chú nhìn không chớp mắt bác sĩ Davis di chuyển lưỡi cưa lên xuống tay tôi, cắt càng ngày càng sâu lớp bó bột. Lưỡi cưa di chuyển gần tới lớp da non của tôi cho đến khi ông ấy cắt những mẩu sợi cuối cùng còn sót lại. Cuối cùng, lớp bó bột tách ra. Những sợi lông nằm ẹp trên tay tôi giờ dựng lên khi không khí bao quanh lần đầu tiên sau nhiều tuần.
“Thấy chưa, không tệ lắm nhỉ?” Bác sĩ Davis hỏi khi ông chật vật bỏ hẳn lớp bó bột khỏi tay tôi.
“Cháu không thấy khỏe lắm.” Tôi nói.
“Ồ, cháu sẽ ổn thôi.” Ông vỗ chân tôi rồi đưa cho tôi một chiếc kẹo mút vàng.
Đoạn tôi nôn ra khắp chiếc áo choàng trắng của ông.
※
“Đừng nhìn nó nữa.” Mẹ nói trong xe. “Mẹ không cần con nôn ra lần nữa đâu.”
“Trông nó kỳ cục quá.”
Cánh tay bị gãy gầy hơn cánh tay kia và cảm giác nhẹ hơn nhiều. Ngoại trừ những vết đỏ do tôi dùng bàn chải cọ chai để gãi bên dưới lớp bó bột, cánh tay xanh tái lạ lùng. Ngay cả khi lớp bó bột không còn nữa, cánh tay vẫn ngứa không kiểm soát được.
“Jack Hicks!” Mẹ đập mạnh vào bàn tay tôi. “Đừng gãi nữa.”
“Gãi thấy đỡ hơn.”
“Con sẽ không còn tí da nào nếu không dừng gãi. Mà này, nhìn ghế sau xem. Mẹ có quà cho con.”
“Xe đạp ạ?” Tôi mỉm cười.
“Không, không phải xe đạp.” Mẹ đảo mắt. “Trời đất ơi, con không nghĩ mình đã dính vào đủ rắc rối dù chưa có thêm xe đạp hả?”
“Nếu có xe đạp thì hôm ấy con đã mau chóng băng qua cầu cạn, không để ý tới Eli và đám bạn của hắn.” Tôi với qua ghế, chộp lấy cái hộp phía sau.
“Ngay từ đầu con không nên tới ao thải, cậu trai trẻ à, ở đó nguy hiểm lắm.”
“Con biết rồi, con biết rồi.” Tôi đã không bị phạt nhờ cánh tay gãy, và tôi không muốn mẹ nhớ ra, vì thế tôi mau lẹ mở nắp hộp. “Giày Converse cổ cao, tuyệt vời!” Tuy không phải là một chiếc xe đạp BMX nhưng giày Converse cũng không tệ. “Con cảm on mẹ.”
“Ờ, có lẽ đôi giày này sẽ giữ chân con tránh khỏi rắc rối, ít nhất là trong một thời gian, mẹ xin đấy?”
“Vâng thưa quý bà.” Tôi đỏ mặt và hy vọng mẹ chỉ nói đùa về chiếc xe đạp. Mẹ cười tươi khi nói thế nên tôi vẫn còn hy vọng.
Bài hát của Randy Travis mà mẹ vẫn lẩm nhẩm hát theo được thay bằng một giọng trầm nghe quen thuộc lạ lùng.
“Đó có phải Bo Duke đóng trong Nhà Duke ở Hazzard không ạ?” Tôi hỏi và nhăn mặt.
“Con không thích à?”
“Ông ta chỉ nên đóng phim truyền hình thôi.” Tôi nói, cố ngăn bài tình ca ngớ ngẩn ấy lọt vào tai.
Nhà Duke ở Hazzard là phim truyền hình ưa thích của tôi. Lần nào phim chiếu lại tôi cũng xem. Phim nói về hai tên buôn lậu rượu giờ đã hoàn lương nhưng lúc nào cũng dính vào rắc rối với cảnh sát trưởng.
Rượu lậu từng là vấn đề lớn ở đây. Trong thời kỳ cấm đoán, khi đồ uống có cồn còn bất hợp pháp, người dân nấu rượu lậu, sau đó cố vượt mặt cảnh sát mang tới các thành phố để bán. Đó là cách nhiều người dân vùng núi kiếm sống trong thời kỳ khó khăn. Khi đồ uống có cồn trở nên hợp pháp, nhiều gia đình đã mất công việc kiếm tiền.
Câu chuyện phim diễn ra trong bối cảnh ngày nay, trên những ngọn núi Appalachian, nhưng giọng vùng miền của họ quá nặng và có vẻ sang. Những cuộc đụng độ của Bo và Luke Duke với cảnh sát trưởng dẫn tới bao nhiêu cuộc rượt đuổi bằng ô tô, đó là lý do tôi thích bộ phim này. Trước khi chiếc xe đạp cũ của tôi rơi vỡ, Piran và tôi thường giả vờ là Bo và Luke Duke, chúng tôi đua quanh các mương chống xói mòn như thể đang lái chiếc Tướng Lee hãng Dodge Charger đời 1969 của họ. Đó là chiếc xe ô tô trong mơ của tôi.
Tôi nhìn ra ngoài cửa sổ, mặt trời sáng chói chiếu thẳng vào mặt kính làm tôi chỉ có thể nhìn bóng phản chiếu của chính mình. Những cái bóng in hình mũi và lông mày tôi, tôi bóp mặt để biến chúng thành những hình thù kỳ cục. Trông chúng sẽ hay hơn nếu tôi có được các đường nét sắc và mạnh mẽ như bố, nhưng tôi lại mang nét tròn trịa của mẹ cùng làn da màu ô-liu của bà, mái tóc nâu chẳng bao giờ nằm thẳng xuống và đôi mắt sẫm màu. Mẹ bảo màu da, tóc, mắt tôi thừa kế từ một vị tổ tiên người bộ tộc Cherokee, nhưng cả gia đình không nói nhiều về việc ấy. Không ai để lộ việc mình có tổ tiên người da đỏ Bắc Mỹ cả, mặc dù bạn có thể bắt gặp dòng máu da đỏ trong mỗi tấc ở Thị Trấn Đồng.
Khi chúng tôi lái xe ngang qua Công ty, tôi nheo mắt nhìn qua hình phản chiếu để thấy ống khói sọc trắng đỏ đánh dấu vị trí của Công ty từ cách xa hàng dặm. Không có cây cối nên đây là thứ cao nhất trong khu vực này. Quỷ thật, cái ống khói hẳn là thứ cao nhất kế cả nếu có cây ấy chứ. Bạn chẳng bao giờ bị lạc trong Thị Trấn Đồng chừng nào bạn còn thấy ống khói.
Ông Coote Epworth cuốc bộ dọc theo con đường gần lối vào mỏ, vừa đi vừa tự lẩm bẩm như mọi khi. Coote điên là cái tên người dân gọi ông, ông còng và gầy gò với bộ râu lởm chởm. Ông luôn mặc áo thun dáng thụng có mũ màu xanh da trời, xanh lá, hoặc đỏ cùng chiếc quần bò xanh cũ rích, tay nhét sâu trong túi quần.
“Hôm nay Coote mặc màu đỏ”, hoặc “xanh lá” hoặc “xanh da trời”, chúng tôi nói vậy khi thấy ông ấy. Ông như kiểu một dạng linh vật của thị trấn, mặc dù ông mất trí.
“Mẹ ơi, sao lúc nào ông ấy cũng đi lại quanh đây thế?” Tôi xoay mình trong ghế để nhìn ông ấy qua cửa sổ hậu. Ông ấy đang nói gì vậy?
“Con có nhớ về vụ sập hầm mỏ rất lớn từ hồi trước khi con ra đời không?”
“Vụ sập khiến ông nội Hicks mất ấy ạ?”
“Không, vụ kia cơ, hồi họ đến quá gần một hầm mỏ để lấy trầm tích khai thác quặng. Ông nội con đã cảnh báo họ không nên làm thế nhưng cấp quản lý bảo họ cứ làm. Họ nói đã có bảo hiểm, nên họ cần phải thử. Ừm, vụ nổ khiến mỏ mất ổn định.” Mẹ nói. “Mẹ của Coote đang mang bầu khi bố ông ấy chết trong vụ nổ. Bà ấy trở nên nghiện rượu và Coote ra đời hơi khác thường. Lúc ấy tiền bảo hiểm không còn quan trọng nữa.”
Tôi cau mày, tự hứa sẽ không cười cợt Coote nữa.
Chúng tôi dừng ở trạm xăng trên đường về nhà. Mẹ vừa đưa xe vào bên dịch vụ như mọi khi thì Eli Munroe mặc bộ quần áo bảo hộ dính mỡ lao tới, ông Habersham đuổi sát nút, tay ông quất chiếc khăn màu xám như một ngọn roi. “Đừng bao giờ quay lại đây nữa, thằng nhóc ngu ngốc!”
Eli nhảy vào chiếc xe Jeep cũ rích của mình rồi lái khỏi bãi đỗ xe, vừa liếc nhìn tôi với vẻ mặt cau có khi chuyển hướng hòa vào dòng giao thông. Mấy chiếc xe khác ngoặt lái để tránh bị đâm.
“Xin lỗi vì để chị phải chứng kiến cảnh này, chị Hicks. Thằng nhóc hút thuốc lá ngay cạnh một thùng dầu. Suýt thổi tung chúng tôi lên. Thằng nhóc ấy sắc như một con dao cắt bơ.” Ông Habersham dùng miếng vải bẩn lau qua khuôn mặt đỏ bừng của mình, việc này chẳng có tác dụng gì. “Đổ đầy xe à?”
“Như bình thường nhé.” Mẹ nói rồi đưa ông ấy chiếc thẻ Exxon của mình.
“Vì sao anh ta không đi học ạ?” Tôi lớn tiếng thắc mắc.
“Không phải cậu ta đã tốt nghiệp năm ngoái à?” Mẹ hỏi.
“Không ạ, anh ta đúng ra là học năm cuối,” tôi nói.
Mẹ lắc đầu. “Thật xấu hổ.”
Ở nhà, tôi đặt lớp bó bột cạnh các chiến lợi phẩm bóng chày trên chiếc giá bên dưới cửa sổ phòng ngủ của mình. Theo một nghĩa nào đó, nó cũng là chiến lợi phẩm. Tôi mỉm cười nhìn tất cả chữ ký trên lớp bột. Các chữ ký quá đỗi khác nhau. Một số toàn những vòng móc, số khác thì nguệch ngoạc. Sonny Rust, con trai quản lý nhà máy đã vẽ hình mặt cười như chữ ký to tướng của John Hancock trên bản Tuyên ngôn Độc lập. Cậu ấy lúc nào cũng nỗ lực để hòa đồng. Ít nhất cái mặt cười nằm phía dưới nên không thể nhìn tôi chằm chằm.
Tôi thay đồ, mặc quần bò mới cùng áo nỉ kẻ sọc lấy từ ngăn kéo tủ, bộ quần áo tôi mặc lúc trước phủ đầy bụi thạch cao. Thật tuyệt khi mặc áo mà tay không bị bó bột. Tôi ngọ nguậy các ngón tay khi chúng thò ra khỏi ống tay áo. Đoạn tôi cúi người, buộc dây đôi giày đế mềm mới của mình.
Piran sẽ ghen tỵ cho xem. Tôi cau mày. Tôi ước gì mình có thể mua một đôi cho cậu ấy.
Piran ít khi có đồ mới, mà đồ mới thường là món gì đó “thiết thực”. Không phải gia đình cậu ấy nghèo, nhưng công việc quản lý bưu điện không được trả nhiều tiền như khai mỏ, vì thế trong nhà cậu ấy tiền phải được co kéo.
“Jack, đến bữa tối rồi.” Mẹ ở dưới bếp gọi tôi. “Mẹ đã làm món yêu thích của con đấy, mì ống macaroni với pho mát.”
“Hãy xem cái tay nào.” Bố nói khi tôi chạy vào bếp.
Tôi giơ cánh tay ra để bố kiểm tra. “Trông nó có vẻ yếu ớt.”
“Đừng lo. Cánh tay con sẽ chóng khỏe lại thôi.”
“Bọn em trông thấy thằng bé nhà Munroe ở trạm xăng hôm nay.” Mẹ nói khi đặt một chiếc đĩa lớn đựng món ăn ngon lành với những hình cầu màu vàng lên mặt bàn. “Ông Habersham đã đuổi việc thằng bé vì tội hút thuốc cạnh thùng dầu.”
“Anh không ngạc nhiên.” Bố nói. “Tuần trước thằng bé đã nộp đơn xin việc ở mỏ, nhưng thằng nhóc sáng dạ như đèn dầu tù mù trong ngày đầy sương ấy. Nó sẽ không trụ được hơn một tuần dưới lòng đất đâu.”
Bố im lặng rồi hắng giọng. Dường như mọi thứ đều nhắc bố nhớ đến chú Amon, điều đó nhanh như cắt khiến tâm trạng bố trở nên xám xịt. Bố với tay lấy muôi rồi thả mạnh hai muôi đầy macaroni với pho mát xuống đĩa mình như thể đang tức giận chiếc đĩa.
“Để phần con với.” Tôi lo lắng
“Jack à, con có biết con sẽ là thợ mỏ đồng thế hệ thứ bảy không?” Bố hỏi.
Dĩ nhiên tôi biết chứ. Như hầu hết hàng xóm của mình, chúng tôi thậm chí còn treo cờ của xứ Comwal nước Anh bên dưới lá cờ Hoa Kỳ, lá cờ màu đen với hình chữ thập màu trắng tượng trưng cho thiếc nằm trong lòng đất của xứ ấy.
“Mà không ai biết gia đình ta đã khai thác mỏ thiếc ở Anh bao lâu trước khi đến Mỹ.” Bố tiếp.
“Ray, thôi nào.” Mẹ thì thầm. “Đừng nhắc đến chuyện này trong bữa tối.”
“Thế còn chú Amon thì sao?” Tôi nuốt xuống.
“Chú ấy không phải là một thợ mỏ.” Bố lẩm bẩm, các cơ mặt bố chùng xuống như tuyết tan. “Ngay từ đầu chú ấy không bao giờ nên xuống dưới đó. Bà nội đã không muốn chú làm thế… Đó là lý do bố sẽ không thuê Eli. Có cả một đội dưới ấy. Những con người cần phải có khả năng tin tưởng con. Một người không quan tâm xem đá đang nói gì sẽ đặt tất cả mọi người vào nguy hiểm.” Bố chỉ dĩa về phía tôi. “Nhưng con đùng lo, Jack ạ. Con là con trai bố. Con được tạo ra bởi những điều đúng đắn và con sẽ trở thành một thợ mỏ cực kỳ cừ khôi.”
“Ray, anh thôi đi được không?” Mẹ trừng trừng nhìn bố cho tới khi bố thở dài và quay lại với bữa tối của mình.
Tôi biết mình nên cảm thấy hãnh diện bởi những lời bố nói. Bố đã thôi học cấp ba để chăm lo cho gia đình khi ông nội Hicks mất trong vụ sập hầm, và nhanh chóng thăng chức bất chấp việc chưa từng nhận bằng trung học.
“Làm việc chăm chỉ sẽ đưa con đến bất cứ đâu.” Bố đã nói.
Nhưng bố chưa bao giờ thèm hỏi xem tôi muốn làm gì, và tôi muốn làm hầu như mọi thứ ngoại trừ khai mỏ. “Bố có quan tâm con nghĩ gì không?” Tôi muốn hét lên. Chuyện ấy có quan trọng với bố không? Nhưng làm sao tôi có thể bảo bố rằng tôi không muốn sống cuộc đời như ông ấy.
Tôi không thể di chuyển dĩa của mình. Ai mà biết bạn có thể bị đau dạ dày vì ăn mì ống macaroni và pho mát chứ?
Mẹ nhìn tôi, trán mẹ toàn nếp nhăn. “Ăn đi nào Jack. Chúng ta còn phải đến công viên.”
Tôi không thể giữ tâm trạng xấu trong đêm nhạc được, và Hannah sẽ ở đó!