Chương 26 QUẢ MÂM XÔI
Mùa hè đang đạt đỉnh. Đám lông nhỏ trên hai cánh tay tôi có màu vàng trắng nổi bật trên làn da nâu, những dấu vết cuối cùng nơi tôi bó bột đã chính thức biến mất. Lòng bàn chân tôi cứng như móng ngựa, và chiếc mũ bóng chày lúc nào cũng dính vào đầu.
Ngày đầu tiên của tháng bảy, bất ngờ mẹ ló vào phòng tôi. “Hôm nay là ngày đi hái mâm xôi đấy Jack. Sao con không gọi Piran hỏi xem bạn ấy có muốn tham gia cùng mình không? Chúng ta sẽ đi đến một chỗ hái mới.”
Hái mâm xôi nghĩa là lái xe ra ngoài Thị Trấn Đồng! Tôi nhảy khỏi giường.
“Đi bốt và mặc áo dài tay nhé.” Mẹ nói vọng từ hành lang.
“Con không cần giày đâu.” Tôi la lại.
“Con sẽ cần giày ở nơi mình sắp đến! Không được để lộ một tí da nào, nghe chưa?”
Đôi bốt của tôi cảm giác kỳ cục và quá chặt, như quả cân bóp ngạt các ngón chân vậy. Áo dài tay khiến cánh tay tôi như bị bao bọc trong lớp thạch cao. Tôi không quen có thứ gì cọ sát vào da mình, tôi không thích thế.
Mẹ đã làm rối tung nhà bếp lên. Mẹ đang chui sâu vào trong chạn, khua kim loại và thủy tính kêu loảng xoảng. “Jack ơi, con cầm mấy thứ này nhé?”
Mẹ đưa tôi hết hộp này đến hộp kia đựng những lọ thủy tính nhỏ hiệu Mason cỡ nửa panh cùng một rổ đầy nắp và vòng đai kim loại. Mẹ phủi bụi khỏi người khi chui ra. “Mẹ muốn xem mình có bao nhiêu lọ.” Mẹ mỉm cười. “Nhiều phết đấy.”
Mỗi mùa hè mẹ sẽ tới trang trại Spencer để mua hoa quả và rau củ tươi rồi đóng hộp nào là cà chua, hoa quả, mứt với đậu, mẹ cực kỳ thích đóng hộp. Mẹ nói rằng đó là điều mẹ học được từ những ngày sống trên núi Beech, hồi ấy họ thường đóng hộp đủ thứ đồ ăn dành cho mùa đông.
“Một điều hay ho về quả mâm xôi là chúng miễn phí.” Mẹ nói. “Lấy ba cái xô với hai thùng làm lạnh trong phòng kim khí của bố trong khi mẹ làm ít bánh kẹp nhé.” Mẹ gói bữa trưa trong thùng lạnh nhỏ rồi chúng tôi chất mọi thứ vào thùng xe.
Chúng tôi chuẩn bị đi thì mẹ khựng lại rồi chạy ngược vào nhà. “Suýt quên!” Mẹ quay lại với một bình xịt côn trùng, nhãn bình đã mờ vì quá cũ. “Chúng ta sẽ cần đến thứ này.”
Chúng tôi lái xe đi đón Piran, cậu ấy cũng đi bốt và mặc áo dài tay. Mẹ tôi gật đầu tán thành và gọi với ra chỗ bác gái Quinn. “Em sẽ đưa cháu về nhà trước hoàng hôn nhé Doris.” Chúng tôi vẫy tay chào rồi lên đường với tâm hồn phơi phới.
Mẹ bật đài ra-đi-ô lên, tất cả chúng tôi hát theo bài hát mới của Dolly Parton, Emmylou Harris và Linda Ronstadt nói về những bông hoa dại không quan tâm mình mọc nơi nào, bởi chúng là những kẻ sống sót. Giọng hát thật hay của mẹ ăn nhịp với bộ ba ca sĩ.
※
Chúng tôi tiến về phía tây tới Hẻm Sông Tohachee, nhưng rồi cắt sang phía bắc vào chính con đường uốn lượn mà tôi đã thấy Eli đi lên khi chúng tôi đi săn bí ngô trước lễ Halloween. Đám cây cối trông như ngũ cốc Fruity Pebbles sặc sỡ mùa thu năm ngoái giờ được bao phủ với cả triệu sắc độ xanh. Chúng tôi càng đi xa, cây cối càng tươi tốt. Piran và tôi há hốc miệng nhìn ra ngoài cửa sổ, thấy những cây thông Georgia cao tuốt trên đầu với những đám lá kim xanh sẫm cùng thân cây xám phủ gai nhọn. Ánh nắng đổ qua đường, bày mánh lừa với mắt chúng tôi trong khi xe lao qua một vùng hoa văn lốm đốm những bóng đổ màu xanh dương dịu lẫn mặt trời chói mắt.
“Chúng ta đi đâu thế mẹ?” Tôi hỏi.
“Tới khu vực đầy quả mâm xôi mình chưa từng đến mà dì Livvy của con đã kể cho mẹ, tuốt trên một nơi gọi là Ổ Quỷ, hay chí ít nơi ấy từng được gọi như vậy.”
Đôi tai tôi nghểnh lên. Sao nghe quen thế nhỉ?
“Sao nơi đó lại có cái tên ấy ạ?” Piran hỏi.
“Ở vùng đó từng có nhiều người làm rượu lậu.” Mẹ nói. “Hồi ấy nơi này khá lộn xộn. Nhưng giờ mọi thứ đã qua rồi.”
Sau một giờ, mẹ rẽ khỏi mặt đường lát để vào trong rừng rồi chậm rãi lái lên một con đường đất đã bị bỏ quên từ lâu. Chiếc xe lắc lư dữ dội vì đám ổ gà cùng những mương rãnh nhỏ tạo bởi các dòng nước mưa.
“Trước có một dự án xây các căn chòi gỗ ở đây.” Mẹ kể với chúng tôi. “Nhớ mấy năm trước khi các nhà phát triển đến từ thành phố định làm nhà nghỉ cho thuê không? Họ cắt đường vào và dọn trống mấy lô đất trước khi bị phá sản hay gặp chuyện gì đấy. Giờ đây là bụi mâm xôi khổng lồ.”
※
Khoảng một phần tư dặm sâu vào trong, một con đường nhỏ cắt vào bên phải dân tới một toa xe moóc đổ nát. Da động vật được đóng lên các mặt toa và một tấm biển viết tay nguệch ngoạc mấy chữ TRÁNH XA RA! đóng trên một cái cây phía trước.
Nhưng thứ thật sự thu hút sự chú ý của tôi là chiếc xe Jeep vàng đỗ đằng trước. “Eli Munroe làm gì tuốt tận ngoài này nhỉ?” Tôi hỏi. Một bức tranh ghép đang hình thành trong đầu tôi, nhưng cảm giác giống như nhớ về bà ngoại Chase vậy, những mảnh ghép mờ nhạt và tôi không thể hiểu được.
“Mẹ… không biết nữa.” Mẹ nói và tăng tốc động cơ.
Cỏ dại ôm quanh xe khi chúng tôi lái thêm chừng hai mươi phút nữa. Chúng cọ vào thân xe và đập vào cánh tay chúng tôi cho tới khi chúng tôi phải kéo cửa kính lên để khỏi bị cứa hay tệ hơn nữa là mất một con mắt.
Cuối cùng, những thân gỗ sẫm màu nhường đường cho một khu vực quang đãng rộng lớn màu trắng bạc. Chúng tôi dùng ngay giữa bãi.
Khi mẹ xoay chìa khóa, âm thanh ro ro lớn như tiếng trong xưởng cưa liền thay thế tiếng động cơ.
“Tiếng gì thế nhỉ!?” Piran hét lên át tiếng ồn. Cậu ấy che hai tai lại.
“Tiếng ve sầu đấy.” Mẹ kêu lớn đáp lại. “Tối hôm trước trên bản tin thời sự có nói. Đó là đàn ve chu kỳ sống mười ba năm. Năm nay chúng dày thật.”
“De dầu ấy ạ?” Piran hỏi.
“Không phải de dầu, là ve sầu.” Mẹ đáp. “V-e-s-ầ-u.”
Piran không thể dễ dàng phát âm đúng. “Cháu chưa nghe thấy tên loài nào như thế!” Cậu ấy nói. “Chúng có cắn hay đốt không ạ?”
“Ve sầu không làm phiền cháu đâu, nhưng muỗi với bọ chét thì có đấy. Coi nào mấy cậu bé, để mẹ xịt thuốc cho các con.” Mẹ phun bao nhiêu thuốc xịt bọ cho chúng tôi từ cổ trở xuống đến nỗi chúng tôi ướt cả người. Rồi mẹ bảo hai đứa nhắm chặt mắt lại để phun lên đầu. Tôi đúng là một đám mây chất độc.
Piran cau mày nhìn tôi và thì thâm. “Tốt hơn hết là tớ đừng có dính vết bọ cắn nào.”
Mẹ cũng phun thuốc lên người mình. “Các con cầm một cái xô và đi hái quả nào!”
※
Tôi đi bộ lên trên, tới chỗ những cây leo rối vào nhau tạo thành một bức tường rậm rạp đầy gai trước mặt. Mất một phút để mắt tôi quen với việc tìm quả, nhưng khi mắt đã điều chỉnh, quả mâm xôi là tất cả những gì tôi nhìn thấy. Vẫn còn một ít quả màu đỏ, nhưng phần lớn những gì tôi thấy là hàng đống những quả mâm xôi chín căng mọng màu tím sẫm.
Tôi phải thử quả đầu tiên, không làm thế thì không đúng tí nào. Quả mâm xôi chín đến nỗi rụng luôn vào bàn tay tôi khi tôi chỉ vừa mới chạm vào. Tôi dùng lưỡi ấn quả lên vòm miệng. Nước ấm bắn ra, vừa ngọt vừa đắng trong khi vỏ quả tan ra.
Piran ném tôi túi bụi bằng một nắm mâm xôi, tôi ném lại một ít. Đó là trận chiến mâm xôi toàn lực cho tới khi mẹ nói. “Bỏ phí mâm xôi có nghĩa là ít bánh hơn đấy nhé!”
Piran và tôi cứng người. Mẹ tôi làm bánh mâm xôi ngon nhất Thị Trấn Đồng. Chúng tôi ngồi xổm xuống và bắt đầu làm việc.
Quả tiếp theo hái được tôi thả vào trong xô với một tiếng “bộp” đầy thỏa mãn. Mỗi lần tôi hái một nắm đầy rồi thả vào xô, tới khi tiếng “bộp” trở thành tiếng “phịch” vì các quả mâm xôi rơi đè lên nhau.
Thật là một công việc lóng ngóng. Tôi cứ liên tục vướng vào đám gai rồi phải mất nhiều thời gian để gỡ ra.
Piran la lên “Quả cứ rơi xuống ấy!”
“Cháu phải khum tay bên dưới chùm quả, bé con ạ.” Mẹ nói rồi chỉ cho chúng tôi một bài học chuẩn mực về cách hái mâm xôi. Mẹ nhìn những vết xước trên tay tôi. “Nếu con di chuyển thật chậm thì gai sẽ không tóm được con. Coi đây, nhìn mẹ này.”
Mẹ duyên dáng duỗi tay vào sâu trong một bụi cây rồi khum bàn tay dưới một chùm quả. Các ngón tay mẹ thọc cho chúng lỏng ra rồi nhẹ rơi vào lòng bàn tay mẹ. Mẹ nhấc tay về cũng chậm như thế và không bị vướng gai lần nào.
“Thấy chưa?” Mẹ mỉm cười.
“Chúng ta không cần lo lắng về gấu hay sư tử núi ở đây ạ?” Piran hỏi.
“Cô cho rằng tiếng động cơ ô tô khiến chúng sợ mà tránh đi.” Mẹ nói. “Nhưng cô thích vừa hái vừa hát để không vô tình đánh động thứ gì.”
Chúng tôi quay lại vựa quả của mình, mẹ bắt đầu hát bài Đi Tiếp Bên Phía Nắng. Piran và tôi hát cùng các đoạn điệp khúc. Sau đó chúng tôi hát bài Mang Tôi Qua Núi và bài Nhóm Thiên Thần, đây là những giai điệu cũ mà cả ba chúng tôi biết được từ các đêm nhạc thứ Sáu.
Hái quả mâm xôi như cách mẹ dạy hiệu quả hơn nhiều. Tôi hái đầy xô của mình mấy lần và đổ đám quả vào trong thùng lạnh. Hát hò, ánh mặt trời ấm áp, tiếng ve sầu kêu ra rả và chuyển động chậm rãi, tôi điềm tĩnh đến tận đầu ngón chân.
Tôi đoán đó là lý do khiến tôi không để ý đến con rắn cho tới khi nó cố quằn quại bò ra bên dưới chân tôi. Tôi nhìn xuống, mừng vì mình mới chỉ hơi dẫm lên nó, tôi mỉm cười với những màu đồng đẹp đẽ và hình vân thú vị chạy khắp lưng con rắn. Chúng tôi không có rắn ở Thị Trấn Đồng nên tôi không biết nó là loại rắn gì. Con rắn có cái đầu góc cạnh sắc và có vẻ mập mạp. Đừng hỏi vì sao nó bị kẹt, tôi nghĩ. Tôi nhấc chân lên và con rắn lỉnh đi, vẻ bối rối hơn là sợ hãi.
“Chú rắn chất thật.” Tôi nói.
“Rắn á?” Piran kêu lên từ khoảng cách mười bộ.
“Gì cơ!?” Mẹ hét lên từ khoảng cách hai mươi bộ.
“Con đã đứng lên người một con rắn.” Tôi la lên.
“Trông nó thế nào?”
Khi tôi tả con rắn cho mẹ nghe, tôi nghĩ mẹ sắp lên cơn đau tim. “Trời đất ơi, nó là rắn hổ mang!” Mẹ nói. “Ra khỏi đó ngay!”
Chúng tôi chạy vội về xe rồi dừng lại lấy hơi. “Con hái đầy bao nhiêu xô rồi?” Mẹ hỏi nhưng không chờ tôi trả lời. “Chắc là chúng ta đã hái đủ cho hôm nay.”
Chúng tôi nhìn thành quả của mình trong thùng lạnh, cái thùng đầy tới mép. “Chừng này đủ để làm một cơ số bánh và đóng hộp nữa.” Mẹ nói. “Chúng ta hãy đi tìm một chỗ ngồi ăn trưa tử tế nào.”
※
Chúng tôi tụm lại trong xe rồi lái xuống con đường gập ghềnh. Chiếc xe Jeep của Eli đã đi mất, tôi tự hỏi trong xe moóc có gì mà anh ta phải lái suốt cả chặng đường tới đây. Tôi nghi ngờ việc Eli hái quả mâm xôi lắm.
Khi tới đường chính, chúng tôi rẽ phải rồi hạ kính cửa sổ xuống đế một làn khí nóng tràn vào, cũng là để mùi mồ hôi trộn lẫn mùi thuốc xịt côn trùng bay ra. Sau vài dặm, chúng tôi trở lại dòng sông Tohachee. Chúng tôi đỗ xe ở một điểm nghỉ chân nơi dòng sông trở nên nông và mang màu trắng khi nước đổ qua những tảng đá.
Chúng tôi lấy thùng lạnh đựng bữa trưa rồi ngồi lên một tảng đá mòn phẳng to tướng nhô lên trên dòng sông. Tôi chăm chú nhìn những cây dương và cây thông vươn ra khỏi bờ sông trong khi ăn bánh kẹp bơ lạc và uống nước RC Cola.
“Thật khó tin là Thị Trấn Đồng từng có lúc trông như thế này.” Tôi nói.
“Chắc thế.” Piran nói. “Nhưng tớ thích thị trấn như bây giờ.”
“Những Ngọn Đồi Đỏ có những khoảng khắc đẹp đẽ của mình.” Mẹ nói. “Chúng ta có thể nhìn xa tới tận đường chân trời mà không bị thứ gì cản tầm nhìn.”
Tôi nhìn qua dòng sông tới bờ bên kia. Mẹ nói đúng. Tôi không thể nhìn xa hơn trăm bộ vì rừng quá dày, đầy dương xỉ và cây bụi phủ những đóa hoa màu cam rực rỡ. Nhưng tôi thích cảnh này hơn.
Khi tôi đang nhìn chăm chú thì một con chim to nhất tôi từng thấy sà xuống ngay trước mắt chúng tôi cùng với hai con chim nhỏ hơn bay sát đuôi nó kêu quang quác như bão.
“Ồ!” Piran nói. “Nó là diều hâu ạ?”
“Cô nghĩ vậy.” Mẹ nói. “Mấy con chim nhỏ hơn hẳn là đang đuổi con diều hâu ra khỏi lãnh thổ của chúng.” Thật quá đỗi thanh nhã và mạnh mẽ, tôi không thể tin một tạo vật to lớn như vậy lại có thể bay qua những rặng cây mà không đâm sầm vào thân cây.
Mọi thứ xung quanh tôi đang chuyển động. Lá cây đung đưa trong làn gió, tản luồng ánh sáng chiếu giữa chúng. Chim chóc và bọn sóc nhảy từ cành này sang cành kia, côn trùng và bươm bướm bay hình chữ chi, chúng bận rộn với công việc của mình, dòng sông ùng ục chảy và đổi màu dưới ánh mặt trời. Thị Trấn Đồng yên tĩnh đến kinh ngạc so với ở đây. Tôi cảm thấy bị áp đảo bởi sự sống xung quanh mình.
“Ước gì có cần câu ở đây.” Piran nói và chỉ một con cá hồi to tướng đang lướt qua xoáy nước. “Tớ cá là mình có thế ăn cá ở đây.”
Ngang qua đường tôi thấy một đường mòn dẫn vào rừng. “Mẹ ơi, Piran với con đi khám phá một lát trước khi mình về được không ạ?”
“Được.” Mẹ nói rồi ngả lưng lên tảng đá. “Mẹ không ngại tắm nắng một chút đâu. Nhưng đừng đi lâu quá, hai đứa cẩn thận đấy, nghe chưa?”
Tôi mỉm cười. “Vâng thưa quý bà.” Thật mừng khi thấy mẹ thả lỏng khác với bình thường.
Piran và tôi đây các cành cây khỏi đường đi và leo bộ dọc theo đường mòn khoảng một phần tư dặm.
“Gì thế nhỉ?” Cậy ấy hỏi và chỉ vào lớp vỏ côn trùng cứng màu nâu sáng đang bám vào một thân cây. Lớp vỏ có hai chân trước như cái kìm và phần lưng tẽ xuống. Tôi khẽ khàng nhấc nó khỏi vỏ cây. Nó mong manh quá. Tôi nhẹ khum hai bàn tay xung quanh lớp vỏ để khỏi nghiền nát nó.
“Ôi, ghê quá đi,” Piran nói.
“Đâu có. Nó thật tinh tế!” Tôi đáp.
Tôi nhặt thêm ba vỏ côn trùng nữa trong khi chúng tôi đi. Không khí mát mẻ và thom mùi hoa. Hàng lớp lá mềm và lá kim khẽ kêu lạo xạo dưới chân chúng tôi. Bao nhiêu âm thanh vây quanh hai đứa. Tôi không thể ngừng mỉm cười, rừng quả là đáng kinh ngạc.
Chúng tôi đi theo đường mòn dẫn xuống một thung lũng nhỏ hẹp rồi tới một khoảng trống nhỏ noi có một ống khói cũ bằng đá phủ đầy dây leo.
Piran bước tới và có tiếng rắc! “Cái gì…” Cậu ấy đẩy đám lá cây khỏi đường. “Nó là một lọ thủy tinh hiệu Mason.”
Chúng tôi càng nhìn kỹ càng thấy nhiều hơn. Có hàng tá lọ rải rác xung quanh ống khói.
“Cậu biết đây là gì không?” Tôi nói. “Đây là nơi đặt thiết bị chưng cất rượu lậu ngày xưa. Tớ nhớ đã học về chuyện này ở trường.”
“Cậu nghĩ là vậy à?” Piran hỏi.
Chúng tôi nhìn xung quanh thấy tất cả những dấu vết của con người thời kỳ đã qua. Có một thùng rượu, một cái xô và một ít ống dẫn, nhưng tất cả đều bị gỉ sét hoặc đã vỡ.
“Tớ cá là máy chưng cất từng nằm ngay đây.” Tôi nói.
Tôi tưởng tượng mình có thể ngửi thấy mùi nước ủ rượu chua chua và nghe thấy tiếng súng nổ khi cảnh sát đuổi những kẻ buôn lậu rượu đi. Tôi tìm thấy một lọ thủy tinh vẫn còn trong tình trạng hoàn hảo dù hơi bẩn. Tôi để mấy vỏ côn trùng vào trong rồi mang về chỗ mẹ.
“Chắc đó là nơi nấu rượu lậu cũ.” Mẹ đồng ý. “Như mẹ nói đấy, từng có nhiều nhóm rượu lậu quanh đây.” Mẹ giơ cái lọ lên phía mặt trời. “Đây là vỏ xác ve. Con có thấy chỗ ve chui ra không?”
“Đó là lý do có một đường tẽ xuống ở chỗ lưng ạ?” Tôi hỏi.
“Ừ. Đây là lớp xương ngoài.”
“Ghê quá.” Piran rùng mình.
Mẹ chỉ cười. “Các con sẵn sàng lên đường chưa?”
Tôi chưa sẵn sàng. Tôi có thể ở đây mãi mãi.
※
Về đến nhà, tôi giúp mẹ rửa đống mâm xôi qua một cái rây rồi để quả vào trong các túi cho vào tủ lạnh. Bồn rửa đầy nước quả màu tím. Tôi bỏ mấy quả vào miệng nhưng mẹ đập vào tay tôi.
“Đừng có ăn nữa Jack!” Mẹ nói. “Mẹ sẽ đóng hộp tất cả những quả không dùng để làm bánh.”
Ngày hôm sau khi tôi vào bếp để ăn trưa, tôi thấy căn bếp bị bao phủ bởi nước quả tím, các lọ thủy tinh và những cái nồi cao đầy mứt với nước sôi.
“Con muốn giúp không?” Mẹ hỏi với nụ cười nhăn nhở.
“Trong này nóng như cái lò ấy!” Tôi nói. Mẹ đã mở tất cả cửa và để quạt ở cả phía trước lẫn phía sau nhằm làm mát mọi thứ, nhưng chẳng có mấy tác dụng. “Không đâu ạ, cảm ơn mẹ.”
Mồ hôi nhỏ xuống mặt trong khi tôi ăn phần bánh kẹp của mình nhanh hết mức có thể.
Tôi ngắm mẹ dùng kẹp nhấc các lọ thủy tinh đựng mứt nóng ra khỏi nồi nước sôi. Mẹ xếp chúng thành hàng trên kệ bếp, chúng lấp lánh như những viên ngọc tím.
BỐP! BỐP!
“Âm thanh của niềm vui.” Mẹ mỉm cười.
“Sao chúng lại tạo ra âm thanh ấy ạ?” Tôi hỏi.
“Khi mẹ luộc lọ rồi làm nguội, mẹ đã tạo ra một vùng chân không.” Mẹ đáp. “Tiếng bốp có nghĩa là chúng đã được đóng kín.”
“Con thử được không ạ?”
“Ồ, giờ lọ đang nóng lắm, nhưng mẹ sẽ để một lọ vào tủ lạnh để làm sau.” Mẹ nói.
Có một tờ báo nằm ở góc bàn bếp. Tôi không thể không chú ý mấy tấm ảnh chụp tội phạm chiếm phần lớn trang đầu. “Hai người bị bắt vì trồng cần sa gần Tiếng La Địa Ngục.” Tựa đề viết.
Cần sa. Dù mấy người trong ảnh không phải là Eli Munroe nhưng bất ngờ mọi thứ ăn khớp với nhau trong đầu tôi. Đó là việc Eli đã và đang làm. Chuyện này giải thích mọi thứ…
“Mẹ ơi, mẹ đọc tin này chưa?” Tôi hỏi. “Tiếng La Địa Ngục gần ngay chỗ mình đã đến ở Ổ Quỷ đúng không ạ? Chỉ cách một dãy đồi mẹ nhỉ?”
Mẹ đặt khăn lau bếp lên mặt tờ báo để che hàng tựa đi. “Phải.” Mẹ nói trong con bối rối. “Năm sau mình sẽ chỉ quay lại chỗ hái mâm xôi cũ của mẹ thôi.”
“Con đoán là cuối cùng Ổ Quỷ cũng không thay đổi mấy.” Tôi nói. Không còn rượu lậu nữa, ngày nay đó là cần sa.