← Quay lại trang sách

7 - Giá Trị Lao Động

Mỗi buổi sáng, như thường lệ tôi mở cửa ra sân nhặt báo mà người phát báo đã để sẵn từ 5 giờ sáng. Một mảnh giấy nhỏ trong thùng thơ gần đấy chìa ra bên ngoài một nửa, cố ý cho có người trông thấy. Nhìn trong giấy viết địa chỉ, số điện thoại, nhận làm bất cứ một việc gì, thù lao $30 cho mỗi công việc.

Tôi đưa mảnh giấy vào nhà hỏi mọi người có việc gì cần người giúp. Việc vặt có nhiều… như sơn lại cửa, quét mái nhà đã từ lâu lá rụng đầy làm nghẹt máng chảy nước khi trời mưa, ống máng bị hoen rỉ phải thay, đào gốc cây bị tróc, sửa vườn, hàng rào ngã nghiêng, đổ hồ chỗ sân bị tróc, lối đi chung quanh nhà cần lát gạch lại v.v… Những việc vặt có nhiều mà phải mướn thợ chuyên môn từng việc rất khó tìm mà lại tốn phí, vì mỗi khi gọi người ta phải tới lượng giá trước, thấy công việc ít họ không muốn làm, hay có làm họ tính thật mắc.

Chúng tôi điện thoại theo trong giấy quảng cáo. Tiếng một bà trả lời: “10 giờ sáng hôm sau sẽ có hai người tới làm.” Ngày hôm sau, 10 giờ đúng hẹn, hai thanh niên lái xe tới làm. Họ mặc áo T-shirt, quần ngắn, dụng cụ mang theo có chiếc thang dài để trèo lên mái nhà và thêm cái chổi, cái bay, thước để làm hồ. Tôi đoán chừng không phải là những người chuyên môn trong nghề. Thôi cũng chẳng sao, tôi nghĩ thầm. Thiếu đồ dùng hay cần gì sẽ nhờ một trong hai người đi mua.

Không phải là người quen từ trước hay là người của công ty gửi đến nên chúng tôi vẫn dè dặt, đề phòng, chỉ để thợ làm bên ngoài. Nhận thấy họ làm việc cần mẫn, nhanh nhẹn, có lương tâm, khi làm xong việc gì họ chờ ý kiến chủ nhà, chỉ làm việc khác hay sửa đổi theo ý chủ nhà.

Vào giờ nghỉ trưa, tôi hỏi chuyện hai anh thợ. Một anh tên Bill, còn anh kia tên John. Các anh nói là sinh viên, nhân nghỉ hè có thì giờ đi làm cả ngày. Đến tối họ còn đi làm ở nhà hàng ăn. Nhà các anh không giàu, cha mẹ chỉ đủ sức nuôi các anh ăn học.

Nhưng cha mẹ khuyên các anh nên dùng những ngày nghỉ để đi làm nhất là kỳ hè có nhiều ngày nghỉ, đi làm có nhiều cái lợi, biết tôn trọng sự làm việc, lấy tiền công xứng đáng lúc tiêu tiền, hiểu được giá trị đồng tiền sẽ không tiêu bậy, phí phạm, biết tự lập. Tiền kiếm được họ gửi vào nhà băng, mở trương mục riêng để chi vào tiền học, tiêu vặt. Họ có sáu anh em. Hai anh này đã vào đại học, cha mẹ các anh không muốn các anh vay tiền chính phủ để học. Có vay sau này đi làm cũng phải trả lại. Cha mẹ các anh khuyên nên chịu khó đi làm, có thiếu cha mẹ sẽ bù thêm.

Người trả lời điện thoại là mẹ các anh. Tùy công việc bà chia việc nặng trèo cao cho các anh lớn, việc nhẹ cho các em nhỏ. Các em nhỏ đi làm, bà cho các anh chị lớn phụ giúp. Tất cả đưa tiền công về khoe với cha mẹ. Bà mẹ rất hân hoan và thường cho những món ăn mà các con ưa thích hay một chầu xi-nê.

Nhận thấy John và Bill làm việc giỏi không kém những thợ lành nghề, có nhiều việc cần sửa chữa, tôi yêu cầu các anh đưa thêm người đến cho chóng. Ngày hôm sau tăng cường thêm người anh cả là Jack, ngày kế có thêm một em. Gần về chiều, bà mẹ tới xem có cần chỉ bảo thêm và khuyến khích các con.

Tiện dịp, chúng tôi hỏi chuyện bà mẹ. Bà ta cho biết, người con cả 22 tuổi, Jack, năm tới học luật với ý định ra làm luật sư sau này. Bill, thứ hai, năm nay 19 tuổi, tháng 9 sẽ đi Tulsa học phi công lái máy bay. John 17 tuổi, vừa học xong trung học. Bà có sáu người con đi học, cứ mùa hè tất cả đều đi làm do bà hướng dẫn, đốc thúc. Bà kiểm soát không muốn các con để phí thì giờ vào sự ăn chơi, đua đòi với các bạn xấu dẫn dắt vào đường xì ke, ma túy.

Bà nói: “Các con tôi hiểu được tinh thần trách nhiệm, ý thức được việc học, việc làm. Không phải bây giờ tôi mới khuyến khích các con tôi Tôi đã để ý dậy bảo chúng từ lúc còn nhỏ mới bắt đầu đi học. Mỗi ngày tôi phải biết các con tôi học ra sao, chơi với bạn bè nào tốt, xấu. Tôi theo dõi rất sát để hướng dẫn chúng.”

Tôi cám ơn bà Mỹ đã cho tôi biết về phương pháp giáo dục các con của bà. Tôi cũng đã gặp một số các con ông bà du học tại Mỹ từ trước 1975 là những anh chị em được học bổng và một số anh chị em được cha mẹ giầu có cho đi du học đã kể lại về kỳ nghỉ hè. Một số phải đi làm để lấy tiền ăn học, đã không nề hà một việc gì, như về các vùng quê hái trái cây, nhổ rau, giữ em, làm vệ sinh lau chùi nhà cửa… Anh chị em chóng thích nghi với phong tục, nếp sống, không có mặc cảm khi phải làm những công việc bằng chân tay.

Biến cố 30-4-75 xẩy đến. Trên miền đất xa lạ, mọi người còn hồi hộp ít lâu rồi cũng phải kiến tạo lại đời sống. Người lớn vừa đi làm vừa đi học, trẻ con cũng đi học. Nhưng một số người quý phái, sang trọng không động gì đến tay chân, nay chạm vào thực tế phải kiếm việc làm. Thật khổ tâm cho những người không có nghề chuyên môn, đi làm nhà hàng phải bưng đồ ăn. Nghe khách gọi lấy làm xấu hổ. Làm hãng, làm sở, phải khuân vác nhọc nhằn cho là nghề của những người hạ cấp. Giữ trẻ, lau chùi nhà cửa, các bà các cô sợ mất giá trị, xấu hổ.

Những công việc khác lại không có khả năng, chỉ có cách đi xin trợ cấp xã hội. Những người này vì mặc cảm tự ái vặt đã không thức thời, không tiến lên được mà còn ảnh hưởng đến con cái họ. Khi con cái họ đi học, chúng thiếu thốn đủ thứ mà bố mẹ chỉ trông vào tiền trợ cấp, lấy đâu để chu cấp cho con cái. Do đó chúng phải tự kiếm với mánh lới gian dối, dần dần sa ngã vào vòng trộm cướp, du đãng, băng đảng.

Kế tiếp, một số người tới sau tuy ở nhà mất tự do, thiếu thốn đủ thứ, khi tới đây không có gì nhưng vẫn mang theo trong tâm trí tự ái, mặc cảm không đúng chỗ đã làm khổ cho những người thân, bà con, anh em như trường hợp sau đây:

Gia đình người anh đi trước nay đã ổn định với công việc. Ông làm trong siêu thị với việc xếp đồ, đủn xe theo khách hàng, bà chọn rau, khoai làm cho cửa hàng bán thực phẩm. Trước kia ông đã từng là bậc chỉ huy cao cấp trong một binh chủng nhưng nơi xứ lạ, hoàn cảnh khác biệt, ông bà đều ý thức được đời sống thực tế ở đây nên chịu khó làm việc, dành dụm, chẳng bao lâu đã có xe mới, nhà riêng.

Cách hai năm sau, ông bà được tin mừng đón tiếp một lúc hai gia đình; một người em ông, một người em bà. Lấy kinh nghiệm đi trước, ông anh bà chị thuê sẵn hai căn nhà trong chung cư đón các em. Mừng rỡ, hàn huyên, vài ngày sau ông anh bà chị đưa tặng mỗi gia đình em $1.000 và nói: “Anh chị đã tìm sẵn cho các em việc làm.” Người em hỏi chị: “Sở em làm ở đâu? Làm công việc gì? Lương bao nhiêu? Có người đưa đón không?”

Ông anh từ tốn giải thích: “Ở đây phong tục, nếp sống khác xứ mình. Muốn làm công chức các sở phải có bằng cấp chuyên môn, học lực khá, có quốc tịch. Có chí cầu tiến thì ban ngày đi làm, tối về đi học thêm (ở đây sẵn có lớp học tối). Như gia đình anh còn nặng gánh vì đông các cháu nhỏ, cả anh chị đều phải đi làm như các em đã thấy.”

Mặc anh chị giải thích, ông em không chịu đi làm những việc tầm thường, ít lương vì trươc kia ông là công chức cao cấp ngành hành chính, còn bà vợ lại tỏ vẻ chán đời, bất mãn, luôn nghĩ về quá khứ ‘vang bóng một thời’. Vậy tìm đến sở xã hội cho được nhàn hạ. Ông anh bà chị chán ngán, biết nói nhiều chỉ thêm xích mích. Và từ đây những người quen biết thêm một danh từ “bất cần đời” của các ông, bà em này.

Khi về già, bố tôi đã gọi các con mà nói: “Nếu các con thiếu tiền tiêu, hãy bán những gì không cần thiết trong nhà. Không nên đi vay phải trả lời. Tiền lời sẽ làm con mất thứ gì con đem bảo đảm hay phải mang ơn người ta nếu người ta không lấy lời, rồi cũng phải tìm cách trả ơn người ta. Hãy nhớ không ai cho không mình vì người ta phải làm vất vả mới có. Nếu có đói, con hãy đổ mồ hôi mà kiếm sống, chớ có mang lụy ai về đồng tiền cả. Như thế mới có thể ngẩng mặt nhìn trời mà không thẹn, nhìn người mà không nhục.”