Vụ án thứ ba Côn trùng không lột xác
Muốn vào trong, trước tiên hãy để hy vọng lại ngoài cửa
- Dante -
Lời dẫnTrước tiên Thẩm Kiến Quốc bắt đầu kiểm tra từ côn trùng trưởng thành, bởi vì trên thân côn trùng trưởng thành sẽ có nhiều chứng cứ hữu dụng hơn. Ông phát hiện thấy một con dài khoảng 7,5mm, cửa thở phía trước màu vàng nâu, sẫm dần về phía trên, đốt thứ 6 ở phía lưng rộng hơn, đầu mút viền phía sau hơi phẳng, tuy nhiên vẫn chưa lột xác.
Điểm này khiến Thẩm Kiến Quốc chú ý, bởi vì có rất nhiều nguyên nhân khiến côn trùng không lột xác được, trong đó cách giải thích nổi tiếng nhất là quan điểm trong thuyết tiến hóa của nhà sinh vật học Darwin. Ông ta từng nói rằng: trên một hòn đảo nhỏ thường xuyên lộng gió, tất cả mọi côn trùng đều cởi bỏ bộ cánh để sống ký sinh trong đất, đó là một thủ đoạn tiến hóa nhằm tránh bị gió mạnh thổi bay, những con có cánh đều bị gió cuốn đi và chết, còn những con không có cánh lại tiếp tục sinh tồn, đó chính là nguyên lý ban đầu về chọn lọc tự nhiên.
Nguyên lý của Darwin là một quá trình biến đổi lâu dài, có thể phải trải qua nhiều đời côn trùng, trong một khoảng thời gian dài đằng đẵng. Nếu kết luận này là đúng thì môi trường hiện tại xung quanh nạn nhân chắc chắn phải có một nguyên nhân đặc biệt nào đó khiến côn trùng trưởng thành không thể lột xác hoặc bỏ qua giai đoạn lột xác. Điều này đòi hỏi phải kết hợp hàng loạt vấn đề trong đó có vấn đề khí hậu để tiến hành phân tích tổng hợp, tuy nhiên trong vụ án này rõ ràng côn trùng ở trên xác chết đã không có đủ thời gian để biến đổi ra một loại khác, vì thế về cơ bản có thể loại trừ khả năng này.
Án mạng ly kỳTôi bị nhốt trong phòng giam đặc biệt của phân cục công an thành phố Nam Minh đã 3 ngày nay, ngoài ăn uống và ngủ nghỉ ra, tôi chẳng khác gì loài ruồi nhặng bị người đời bỏ quên ở một xó xỉnh. Nhưng dù sao tôi cũng vẫn là nhân viên nằm trong hệ thống, biết rõ đây là một thủ đoạn thẩm vấn bằng tâm lý chiến mà người ta thường sử dụng. Xét trên góc độ tâm lý học tội phạm, cách làm này được gọi là chế áp khí thế, việc chỉ giam mà không thẩm vấn có thể khiến tội phạm mất tự tin.
Khiến tội phạm bắt đầu rơi vào trạng thái phiền muộn, khi tình cảm rối loạn thì hệ thống phòng ngự tâm lý rất dễ bị sụp đổ, thậm chí chưa cần đánh đã tự tan vỡ. Trước khi chết một cách ly kỳ, anh Hàn từng nói với tôi về kỹ xảo thẩm vấn này, còn trong giờ phút này tôi không còn là người tiến hành thẩm vấn nữa mà trái lại đã trở thành đối tượng bị thẩm vấn. Tiếc rằng, hôm nay anh Hàn đã không còn trên cõi đời này nữa, nhớ lại chuyện xưa kiến tôi không khỏi cảm thấy thổn thức.
Kể ra, những ngày tồi tệ tôi bị giam ở đây cũng không phải không có tác dụng. Tôi đã âm thầm ghi nhớ lại khoảng cách buồng giam, đường tuần tra dài khoảng 84 bước, theo độ dài trung bình mỗi bước của người trưởng thành khoảng 60 phân, tính ra tức là khoảng 50 mét, như vậy vừa đi vừa về phải mất 10 phút. Quản giáo có 2 cửa để đi vào, đến được cửa buồng giam giữ tôi nhanh nhất cũng phải mất 4 phút. Đúng là tôi cảm thấy rất vô vị, nhưng đây là cách duy nhất để tôi có thể giữ được đầu óc tỉnh táo.
Giống như mọi khi, tôi đang âm thầm đếm bước chân tuần tra: “51, 52, 53…”
Trong lúc tôi đang đếm thì bước chân kia dừng lại, thay vào đó là tiếng bước chân của vài người, trong đó một bước chân nặng nề, mệt mỏi, trọng tâm dồn vê mũi bàn chân, không cần đoán cũng biết người này nhất định đang có tâm sự phiền muộn. Ngoài ra, còn có một bước chân nhẹ nhàng điềm tĩnh, thể hiện tư thế lão luyện của một con người già dặn.
Không còn nghi ngờ gì, hai người này chắc chắn là anh Cao và sư phụ, tôi đoán có lẽ ngày mình bị thẩm vấn đã đến rồi.
Trong lòng tôi vẫn âm thầm đếm bước chân, nhưng rồi chúng lại im bặt, thay vào đó là tiếng mở cánh cửa sắt. Tôi mơ hồ nghe thấy tiếng hai người đang nói chuyện, sau đó rời đi trong sự chờ đợi mỏi mòn của tôi. Nếu tôi đoán không nhầm thì họ dừng lại tí chút ở buồng giam bên cạnh. Đây là hành động kéo dài của chiến thuật tâm lý, mang đến cho tôi một hy vọng để rồi lại tự mình đốt cháy nó.
Nhưng khi họ rời đi, rõ ràng xuất hiện thêm một bước chân, bước chân này nhẹ nhàng thanh thoát, rất khó phát hiện ra.
Đó là âm thanh phát ra từ đôi giày thiết kế đặc biệt, dành riêng cho trại giam, tôi nghe thấy âm thanh này bỗng nhiên cảm thấy khoan khoái giống như thể được giải thoát.
Vì thể ở đây có thể loại trừ khả năng giả tạo, bởi vì có thể sử dụng kỹ thuật để thay đổi hình dạng của một người, âm thanh cũng có thể cố ý bắt chước được, nhưng tiếng bước chân của một người thì không thể nào giả mạo được. Đúng vậy, bây giờ đã có thể chứng minh được một việc, đó là tôi lại một lần nữa bị người ta coi khinh không thèm đếm xỉa đến nữa rồi.
Sau khúc nhạc ngắn ngủi chen ngang đó, tôi lại trở về với việc kiềm chế những cảm xúc xáo trộn trong lòng như mọi khi.
Hằng ngày tôi đều dậy sớm, đếm đi đếm lại tiếng bước chân ra vào rất đúng giờ, tính toán xem lúc nào sư phụ quay lại thẩm vấn tôi.
Sau ngày thứ 7, tôi bỏ không đếm thời gian nữa, chỉ cần biết ban ngày hay ban đêm, và cũng không chăm chỉ đếm bước chân như trước nữa.
Tôi chưa được trải qua huấn luyện và đào tạo tâm lý chuyên nghiệp, biết rằng chiến thuật của anh Hàn đã phát huy tác dụng đối với bản thân mình. Tôi bắt đầu rơi vào trạng thái buồn bực không yên, hơn nữa còn phát hiện có một vài con ong mật bay qua bay lại bên cạnh mình. Tôi cho rằng đây là nguyên nhân của cơ chế phòng ngự tâm lý, cơ chế phòng ngự tâm lý là hành động của một người khi bị quấy nhiễu từ bên ngoài hoặc khi xảy ra biến cố nhằm thoát khỏi hiện trạng hoặc kiên định với những gì mình đã làm, trong đó bao gồm cả việc đổ trách nhiệm cho người khác hoặc đắm chìm vào thế giới hư vô.
Trong nhà giam không thể có ong mật tồn tại được, vì thế tôi cho rằng đây chỉ là ảo giác. Tôi đã sáng tạo ra được thứ mà mình thích để đổ lỗi cho trái tim đã sắp sửa tan vỡ của mình. Tuy nhiên, có một điều thú vị là chúng luôn xuất hiện rất đúng giờ, bò trên góc tường tôi không nhìn thấy và cũng không thể tiếp cận.
Có lẽ nghe thấy tôi gọi nên nó bắt đầu đậu xuống tay. Tôi đưa tay ra chạm vào để xem nó có phản ứng gì không, có lập tức biến mất khỏi tầm mắt tôi hay không, nhưng kết quả lại là một cơn đau nhói từ bắp tay theo dây thần kinh chạy lên đến tận óc. Tôi nhanh chóng ý thức được điều này, đây hoàn toàn không phải là ảo giác! Cơn đau bất ngờ giúp tôi tỉnh táo hẳn, nhưng tiếng kêu thất thanh của tôi cũng đã khiến quản giáo chú ý. Tôi lập tức ngồi xếp bằng trên nền nhà, nhân tiện nhặt xác con ong mật ở bên cạnh nắm vào trong lòng bàn tay giấu ra sau lưng, cố gắng giả vờ mỉm cười theo kiểu nghề nghiệp.
“Có chuyện gì thế?” Quản giáo là một người trẻ tuổi chừng ngoài 20, nhìn tôi hỏi với bộ mặt không vui.
“Không có chuyện gì, chỉ là không cẩn thận bị té ngã thôi.” Tôi lùi lại một bước, khẽ trả lời.
Quản giáo nhìn khắp bốn phía, thấy không có gì khác thường nên bỏ đi.
Không lâu sau khi viên quản giáo trẻ tuổi đi khỏi, tôi lại ôm lấy bắp tay bị ong đốt ngồi mặc niệm đến ba giây. Thật ra, tôi cũng không biết tại sao lại phải che giấu sự tồn tại của con ong mật, nhưng cũng dành thời gian quan sát kỹ con ong này. Kết quả là đã phát hiện ra nó có chỗ kỳ quái. Con ong này có điểm không giống với những con ong mật bình thường khác, lẽ nào đây là một chủng loại mới? Điều đáng để ý hơn nữa là tại sao bên trong buồng giam lại xuất hiện ong mật?
Cùng lúc đó tôi còn trông thấy cả mấy con ruồi đang bay loạn xạ, đó là loài ruồi vàng đầu to. Nhưng ruồi vàng đầu to không thể nào xuất hiện ở chỗ này được. Xuất phát từ nhạy cảm nghề nghiệp, tôi mạnh dạn suy đoán rằng chỉ có án mạng hoặc xác chết mới thu hút những con ruồi này đến đây.
Chẳng lẽ đã có người chết trong trại giam? Khi tôi nói suy đoán của mình với họ, không một ai tin tôi.
Cũng giống như con rồng của Carl Gustav Jung (một con rồng lửa không màu, không mùi, không có trọng lượng và cũng không chạm vào được, hơn nữa lửa của nó cũng không có nhiệt độ, vậy thì con rồng này tồn tại hay không tồn tại cũng không khác nhau bao nhiêu, đây chính là Thuyết ngụy biện Jung nổi tiếng), tôi đã hoàn toàn trở thành một trò cười trong mắt mọi người.
Nhưng ngay cùng ngày hôm đó, suy đoán của tôi đã được chứng minh. Điều này càng khơi dậy hứng thú, khiến tôi thật sự rất muốn tự mình điều tra nguyên nhân cái chết của người này, từng bước điều tra tìm ra thủ đoạn giết người và động cơ phạm tội của hung thủ, cuối cùng phá vỡ phòng tuyến tâm lý của hắn, bắt hắn về quy án. Có điều, đối với hoàn cảnh của tôi hiện tại, đó chẳng qua chỉ là mơ ước hão huyền mà thôi.
Hôm nay là một ngày thật đặc biệt, ngoài xác chết chưa biết tên, còn có cả chuyện Cao Kiện không nhẫn nại được nữa nên cuối cùng đòi ra tay với tôi.
Sau nhiều ngày chuẩn bị công phu như vậy, chắc chắn vụ án sẽ có bước đột phá lớn, trong lòng tôi thấy hơi xúc động và một cảm giác bất an mơ hồ.
Xúc động là bởi vì hôm nay có thể biết được nguyên nhân thật sự gây ra cái chết của Hàn Phi, điều mà đến giờ vẫn như một hòn đá đè nặng trong lòng tôi; ngoài ra còn có một lý do khác là do bị giam quá lâu nên đầu óc tôi sắp biến thành bã đậu cả rồi. Còn về cảm giác bất an, cụ thể thế nào chính tôi cũng không rõ, có lẽ đó là vì hôm nay tôi gặp phải con ong mật kỳ lạ kia.
Lại một lần nữa tôi bước đi trên con đường mà khi ở trong buồng giam đã đếm không biết bao nhiêu lần này, lúc đến bước thứ 18 có hơi chú ý một chút, bên trong là một người đàn ông khoảng ngoài 30 tuổi. Lúc tôi để ý đến anh ta, vừa hay anh ta cũng nhìn về phía tôi, đó là một đôi mắt vô cùng sắc lạnh, tôi không nhìn thấy bất kỳ một chút tình cảm nào từ ánh mắt ấy, bất giác cảm thấy rùng mình sợ hãi.
Vài phút sau tôi bị đưa vào một căn phòng trống trải rộng mênh mông, giữa phòng đặt một cái ghế sắt khiến người ta mới nhìn đã cảm thấy bị đè nặng, ngoài ra còn có một cái máy ảnh ở đối diện với chiếc bàn. Đây là dụng cụ bắt buộc phải có khi thẩm vấn, tiện cho ghi hình và kiểm tra lại bất cứ lúc nào.
Tôi vẫn còn chưa ngồi hẳn xuống ghế thì cửa phòng thẩm vấn đã mở ra. Có cảm giác như điều hòa đang có xu hướng chạy chậm lại, hình như ai đó đã cố tình hạ nhiệt độ xuống mấy độ. Lúc này, tất cả mọi thứ trước mắt tôi đều giống như hình ảnh quay chậm, bởi vì người bước vào không phải ai khác mà chính là sư phụ tôi, Thẩm Kiến Quốc.
Ông đi thẳng đến ngồi xuống chiếc ghế đối diện với tôi, mặt vẫn nở nụ cười mang tính nghề nghiệp.
Nhìn thấy ông, tất cả mọi ngột ngạt khó chịu của những ngày vừa qua trong chốc lát tan tành mây khói. Ngoài việc ông là sư phụ của tôi, còn có một lý do khác là trên người ông chứa đựng một khí chất đặc biệt, đó là lòng tự tin tuyệt đối và có thể thu gom tất cả mọi thứ.
“Cậu không định hỏi tôi gì à?” Sư phụ lên tiếng trước, lúc này tôi mới ý thức được rằng chúng tôi đã lặng lẽ nhìn nhau rất lâu rồi.
Tôi lắc đầu, vừa cười vừa hỏi lại: “Không phải là Cao Kiện đến thẩm vấn em à?”
Hình như sư phụ đã biết tôi sẽ hỏi như vậy, ông nhếch đôi lông mày, hỏi: “Sao vậy? Cậu không hoan nghênh tôi à?”
Tôi ngập ngừng một lúc rồi mới trả lời: “Không phải vậy, nhưng chẳng phải thẩm vấn phạm nhân không nằm trong phạm vi công việc pháp y hay sao?”
“Đúng vậy. Nhưng nếu tôi không chỉ làm mỗi một công việc pháp y thì sao nào?” Ông mỉm cười hỏi ngược lại tôi.
Bị sư phụ phản bác, tôi lập tức cứng họng không nói được gì, đành nhún vai: “Sư phụ lợi hại thật.”
“Cậu chỉ muốn hỏi thế thôi à? Vậy thì tôi đi đây.” Nói xong ông chuẩn bị đứng dậy bỏ đi.
“Khoan đã! Sao sư phụ có thể đối xử với em như vậy!?”
“Rất đơn giản, bởi vì cậu đã giết Hàn Phi.” Ông trừng trừng nhìn tôi, hét lên đầy vẻ tức giận.
“Em không giết người! Em không giết!” Tôi trợn mắt nhìn thẳng vào mắt Thẩm Kiến Quốc, cũng hét to đáp lại. Tôi nhận thấy toàn thân nóng dần lên, hơi thở khó khăn, không những vậy mọi thứ trước mắt bắt đầu quay cuồng, nhưng chỉ một lát sau lại cảm thấy vô cùng lạnh, chân tay không điều khiển được nữa, toàn thân cũng đau buốt khủng khiếp, sau đó mặt mũi tối sầm, và cuối cùng là bất tỉnh nhân sự.
Trong lúc mơ mơ màng màng tôi ngửi thấy mùi chất tẩy rửa, một trong những mùi tôi ghét nhất. Tôi mở to mắt, thấy mình đã nằm trong bệnh viện. Đầu nặng chịch, tuy nhiên tôi vẫn cảm nhận rất rõ cánh tay chĩu nặng, quan sát kỹ mới thấy đã được tiêm thuốc. Tôi biết, tay mình đã sưng to như móng giò.
Tôi vừa định ngồi dậy thì bị một thứ gì đó kéo trở lại, thì ra tay tôi vẫn đang đeo còng, chiếc còng đó được nối với thanh sắt ở đầu giường.
“Cậu tỉnh rồi à?” Nghe giọng nói, tôi mới biết sư phụ đã luôn ở bên cạnh mình.
“Em làm sao vậy?” Tôi lúc lắc đầu, cố gắng làm cho tỉnh táo hơn.
“Cậu đột nhiên trở nên hung dữ, co giật, chắc là bị trúng độc.”
“Trúng độc?” Tôi không dám tin là mình lại bị trúng độc.
“Từ vết thương của cậu có thể thấy là do loài ong gây ra, cậu bị nó đốt ở đâu vậy?”
“Lúc ở trong buồng giam, em trông thấy có ong mật và cả ruồi nữa, lúc đó em đã bị ong mật đốt.”
“Trong buồng giam sao? Con ong mật trông thế nào?”
Tôi cố gắng lấy xác con ong mật giấu trong áo ra.
Sư phụ quan sát kỹ một hồi, rồi nói với vẻ đầy lo lắng: “Đây là… loài ong giết người!”
Xác chết không tên ở núi An Lạc“Ong… ong giết người?” Chỉ nghe đến cái tên này thôi cũng đã khiến tôi ngứa râm ran khắp người.
Nên nhớ rằng, ong giết người hoàn toàn không phải là hữu danh vô thực, chỉ sau một thời gian rất ngắn, người bị nó đốt sẽ có những triệu chứng như toàn thân phát sốt, ớn lạnh, đau nhói khắp người…, nếu không kịp thời cứu chữa, để đến lúc nghiêm trọng sẽ trở thành điên cuồng, bị choáng và thậm chí suy hô hấp dẫn đến tử vong.
“Xong rồi, triệu chứng của em giống hệt như vậy, em sắp chết đến nơi rồi!”
Thẩm Kiến Quốc không hề ngăn cản, trái lại còn ở bên cạnh vừa gọt táo vừa mỉm cười.
“Sư phụ, em sắp chết rồi, thầy nói gì đi chứ!”
Thẩm Kiến Quốc gọt táo xong, khẽ cắn một miếng rồi nói: “Đừng có cuống lên thế, số cậu còn tốt lắm.”
“Vận số tốt à? Hôm qua đã xuất hiện triệu chứng phát điên rồi, tiếp theo là chờ chết thôi!”
“Hình dạng con ong mật đó chỉ có chút giống loài ong giết người thôi, nói một cách chính xác hơn là chúng chỉ có họ với nhau mà thôi.”
“Vậy thì sao?”
“Trước tiên cậu hãy cứ lo chuyện phải ngồi tù mấy năm đi đã.” Sắc mặt Thẩm Kiến Quốc lại trở về trạng thái bình thường.
Ngoài đau đầu chóng mặt tôi không còn có triệu chứng nào khác, điều này chứng tỏ mức độ nhiễm độc không sâu, tuy nhiên sau lúc hạnh phúc, bầu không khí lại trở lại nặng nề như cũ.
“Sư phụ, em không giết người! Thầy phải tin em!”
“Tôi tin cậu cũng không tác dụng gì, bởi vì bây giờ tất cả mọi chứng cứ đều nhằm vào cậu rồi!”
Tôi không có lời nào nói lại được, cho dù phân tích ở bất kỳ góc độ nào thì mức độ nghi ngờ phạm tội ở tôi vẫn lớn nhất.
“Cậu có biết tại sao ve sầu phải lột xác không?” Thẩm Kiến Quốc đột nhiên hỏi.
Tôi lắc đầu, không đoán được sư phụ muốn biểu đạt ngụ ý gì, ông thích nhất là đánh đố người khác.
“Có rất nhiều cách kiến giải khác nhau, nhưng đối với ngành của chúng ta, nó cũng giống như ánh sáng, mang ý nghĩa hy vọng, nhưng khoảng cách xa vời vợi.”
Tôi ngẩng mặt lên, thấy miệng Thẩm Kiến Quốc mở ra thành một hình cánh cung, trong mắt tràn đầy ánh sáng hy vọng.
“Vừa rồi cậu bảo phát hiện ra côn trùng ở trong trại giam à?” Không đợi tôi kịp hỏi, sự phụ đã nhanh chóng chuyển chủ đề.
“Đó là ruồi vàng đầu to.”
“Theo cậu nên giải thích hiện tượng này thế nào?” Ông hỏi ngược lại tôi.
“Sư phụ, thế này coi như thầy đang tra khảo em phải không? Căn cứ vào địa thế và một số điều kiện khí hậu của thành phố Nam Minh, giống ruồi này tuyệt đối không thể tồn tại ở đây được. Vì thế em mạnh dạn suy đoán, ở gần đó nhất định đã xảy ra án mạng, mùi xác chết thu hút chúng đến hoặc chính bản thân xác chết mang theo trứng của chúng.”
Sư phụ đứng dậy bước đến bên cửa sổ, sau đó mới nói: “Cậu đoán rất đúng.”
Mắt tôi sáng lên, lập tức truy hỏi: “Đã bắt được hung thủ chưa ạ?”
Ông cất tiếng thở dài, lúng túng cười bảo tôi: “Vụ án này khá hóc búa, cậu Cao đang tiến hành điều tra.”
Thẩm Kiến Quốc rất ít khi thở dài, điều đó chỉ có thể nói lên rằng ngay cả ông cũng cảm thấy đau đầu vì vụ án này. Chính vì thế mà tôi lại càng muốn biết vụ án có thể khiến Thẩm Kiến Quốc cảm thấy đau đầu là vụ án như thế nào. Còn về thân phận là đối tượng tình nghi quan trọng của mình hiện nay, tôi nhận thấy nếu hỏi trực tiếp thì sư phụ sẽ không nói cho biết, vì thế chỉ có thể dùng cách nói bóng nói gió để dò hỏi mà thôi.
“Cậu có tin rằng ma quỷ có thể giết người được không?” Trong lúc đầu óc tôi đang lướt qua vô số cách thức thì Thẩm Kiến Quốc lại đột nhiên hỏi.
“Tất cả mọi kiến giải không có bằng chứng xác thực để chứng minh thì đều là ảo tưởng. Trừ phi tận mắt nhìn thấy, nếu không em không tin.” Mặc dù không biết tại sao sư phụ lại hỏi như vậy, nhưng tôi cho rằng vẫn có hy vọng.
Thẩm Kiến Quốc một lần nữa thở dài, chìm vào ký ức.
“Mấy hôm trước đã xảy ra một vụ án đặc biệt kinh khủng, vụ án ma quỷ giết người, tôi chính là người thụ lý.”
“Sư phụ, thầy đang đùa đấy à?” Tôi lắc cái đầu u mê nặng chịch, vẫn cho rằng mình nghe nhầm.
Nhưng Thẩm Kiến Quốc quay người lại, kéo cổ áo tôi, nhìn tôi với vẻ mặt kiên định lạ thường: “Cậu không nghe nhầm, chính là ma quỷ giết người.”
Ánh mắt ông vô cùng đáng sợ, khiến tôi đặt mình vào hoàn cảnh mà cảm nhận được nỗi sợ hãi trong lòng ông.
Tiếp sau đó ông kể cho tôi nghe vụ án khủng khiếp này, hoàn toàn không thể nào tưởng tượng nổi.
Do Hàn Phi đã chết, tôi trở thành đối tượng tình nghi quan trọng nên vụ án có ảnh hưởng rất lớn.
Cục cảnh sát thành phố Nam Minh quyết định điều động Thẩm Kiến Quốc xuống đảm nhiệm công việc pháp y, hỗ trợ Cao Kiện điều tra phá án.
Nhưng vụ án mãi không có tiến triển, mặt khác nó là vụ án gây ảnh hưởng lớn, không thể làm việc cẩu thả được, vì thế tạm thời vẫn đang gặp trở ngại.
Cùng thời gian đó, người ta phát hiện thấy một thi thể đàn ông đã thối rữa ở trên núi thuộc huyện Lương Bình, Cao Kiện được lệnh chủ trì điều tra vụ án, Thẩm Kiến Quốc có nhiệm vụ phối hợp hỗ trợ.
Ngọn núi này có tên là núi An Lạc, bởi vì trên núi cơ bản là bãi tha ma. Xác chết được phát hiện ở ngay chính giữa phía dưới bãi tha ma, hơn nữa đầu quay về hướng Tây, hai chân bị bẻ quặt tạo thành góc vuông lần lượt quay về hướng Bắc và hướng Nam. Không ai biết được tại sao xác chết lại như vậy, có lẽ chỉ có hung thủ mới biết được nguyên do từ đâu.
Cao Kiện đến bên cạnh Thẩm Kiến Quốc hỏi: “Anh Thẩm, có phát hiện gì không?”
Thẩm Kiến Quốc nhíu hai hàng lông mày, trả lời: “Thật kỳ lạ, rất có thể nạn nhân tự bóp cổ giết chết chính mình.”
Cao Kiện tiếp tục hỏi: “Tại sao lại có thể như vậy?”
Thẩm Kiến Quốc ngồi xổm xuống, móc tay vào trong miệng người chết: “Cậu xem, miệng nạn nhân há to, niêm mạc miệng khô, hơn nữa mạch máu ở cạnh huyệt Thái Dương phồng to, mắt, mũi và miệng vặn thành một khối, kết mạc mắt ứ máu, phần lưỡi thè ra ngoài đã thâm tím, đây rõ ràng là biểu hiện do ngạt thở mà chết.”
Cao Kiện hỏi: “Sao anh biết là nạn nhân tự bóp cổ giết chết chính mình chứ?”
Thẩm Kiến Quốc chỉ vào cổ nạn nhân: “Cậu kiểm tra lại chỗ này xem thấy được gì nào?”
Cao Kiện cũng ngồi xổm xuống, quan sát kỹ lưỡng rồi nói: “Trên cổ có dấu vết một vòng tròn màu xanh, điều này chỉ có thể nói lên rằng nạn nhân bị thít cổ chết thôi, có liên quan gì đến việc tự sát chứ?”
Thẩm Kiến Quốc cười bảo: “Không có liên quan gì, nhưng cậu nhìn lại tay nạn nhân xem có chỗ nào đặc biệt không?”
Cao Kiện lại từ cổ nạn nhân nhìn xuống phía dưới: “Tay à? Có thể có gì đặc biệt được chứ?”
Thẩm Kiến Quốc giơ tay mình ra so sánh với tay nạn nhân: “Cậu không phát hiện thấy tay nạn nhân đã cứng đờ, co quắp rồi sao? Kết hợp với vết thít màu xanh trên cổ nạn nhân, vừa vặn chứng minh nạn nhân có bóp cổ chính mình.”
Cao Kiện tiếp tục chất vấn: “Chẳng lẽ không có khả năng hung thủ bóp chết nạn nhân rồi sau đó tạo hiện trường giả à?”
Thẩm Kiến Quốc một lần nữa chỉ vào cổ người chết: “Có khả năng, nhưng cậu hãy quan sát kỹ vết bầm trên cổ nạn nhân xem có thấy chỗ nào đặc biệt không?”
Đây đúng là làm khó Cao Kiện quá mức, từ đầu đến cuối việc khám nghiệm tử thi vốn là sở trường của Thẩm Kiến Quốc, hơn nữa, ngoài việc suy lý vụ án thì tất cả những việc khác quả thật cũng không nằm trong phạm vi năng lực của anh ta.
Bí ẩn Côn trùng không lột xácThấy bộ dạng khó xử của Cao Kiện, Thẩm Kiến Quốc liền tiếp nhận chủ đề, nói một cách nghiêm túc: “Vết bầm nằm ở phía dưới yết hầu khoảng một thốn, có 2 vết tương đối to tách biệt nhau, kích thước vừa vặn trùng khớp với ngón tay cái của người chết, nếu là bị hung thủ bóp chết thì dấu vết này phải nằm ở chỗ yết hầu của nạn nhân, không tin cậu có thể thử xem.”
Thẩm Kiến Quốc nói xong liền bỏ mặc Cao Kiện ở một bên, chuyển sang thu thập côn trùng. Ban đầu Cao Kiện ngây ra mất một lúc, sau đó đặt tay lên cổ loay hoay hồi lâu, đến khi anh ta kịp phản ứng trở lại thì Thẩm Kiến Quốc đã đi ra chỗ khác: “Khoan đã, anh vẫn chưa nói hết mà.”
“Dựa vào dáng vẻ của người chết có thể suy đoán, lúc đó chắc chắn đã bị kích động rất mạnh, hay nói đơn giản hơn là đã bị đe dọa một cách khủng khiếp. Trước tiên hãy khoan bàn đến việc nạn nhân tử vong ở phía dưới khu mộ, nhưng bộ dạng lúc chết vô cùng kỳ quái, người này lấy tay bóp vào cổ mình, lập tức sau đó miệng há hốc, niêm mạc miệng khô, trên ngón tay và răng có thể trông thấy dấu vết màu đen, tất cả những tính chất và trạng thái này của xác chết đều có một số không thể giải thích được từ góc độ khoa học.” Thẩm Kiến Quốc thấy Cao Kiện vẫn chưa hết nghĩ ngợi nên tiếp tục tổng kết.
“Vậy là cứ theo ý tứ của anh à?” Cao Kiện hỏi.
Thẩm Kiến Quốc giang tay ra giải thích: “Rất có thể nạn nhân bị dọa cho sợ hãi đến chết.”
“Bị dọa chết ư?” Cao Kiện tỏ vẻ không tin.
“Đúng vậy, nhưng hiện tại tất cả những điều này đều mới chỉ có thể dừng lại ở mức độ suy đoán, hơn nữa vết bóp ở cổ rõ ràng không phải là vết thương chí mạng, vì thế vẫn cần phải tiến hành kiểm nghiệm thêm một bước, trước khi có báo cáo kiểm nghiệm cuối cùng thì không được loại trừ bất kỳ khả năng nào.” Thẩm Kiến Quốc nói.
Cùng lúc đó điện thoại của Cao Kiện đổ chuông, sau khi bấm nghe, thái độ anh ta lập tức trở nên nghiêm túc.
Tắt điện thoại xong, Cao Kiện vội bước nhanh đến bên cạnh Thẩm Kiến Quốc: “Tôi phải lập tức về sở cảnh sát, công việc ở đây giao cả cho anh, nếu có phát hiện gì mới thì lập tức thông báo ngay cho tôi là được rồi.” Nói xong, anh ta liền vội vã bước đi.
“Được rồi, cậu yên tâm, việc ở đây cứ giao cho tôi.” Thẩm Kiến Quốc trả lời. Mặc dù Cao Kiện không nói lý do cụ thể nhưng Thẩm Kiến Quốc vốn biết rõ con người anh ta nên hiểu rằng nếu không có việc gì đặc biệt quan trọng thì anh ta sẽ không bao giờ rời đi trong những lúc như thế này, vì thế cũng không hỏi gì thêm.
Sau khi Cao Kiện đi rồi, Thẩm Kiến Quốc tiến hành bước kiểm nghiệm tiếp theo, lần lượt thu thập mẫu côn trùng ở miệng, tay và cả những bộ phận hở trên cơ thể nạn nhân. Thu thập xong, ông trở về phòng giải phẫu, tất nhiên còn mang theo cả xác chết đã qua xử lý đơn giản.
Đối với một chuyên gia côn trùng học pháp y như Thẩm Kiến Quốc, vấn đề phải giải quyết trước tiên là phải làm cho côn trùng lên tiếng, để chúng nói thay cho người chết, tất cả những điều hung thủ che giấu đều sẽ bị lật tẩy dưới thiên la địa võng do côn trùng giăng sẵn.
Trước tiên Thẩm Kiến Quốc bắt đầu kiểm tra từ côn trùng trưởng thành, bởi vì trên thân côn trùng trưởng thành sẽ có nhiều chứng cứ hữu dụng hơn. Ông phát hiện thấy một con dài khoảng 7,5mm, cửa thở phía trước màu vàng nâu, sẫm dần về phía trên, đốt thứ 6 ở phía lưng rộng hơn, đầu mút viền phía sau hơi phẳng, tuy nhiên nó vẫn còn chưa lột xác.
Điểm này khiến Thẩm Kiến Quốc chú ý, bởi vì có rất nhiều nguyên nhân khiến côn trùng không lột xác được, trong đó cách giải thích nổi tiếng nhất là quan điểm trong thuyết tiến hóa của nhà sinh vật học Darwin. Ông ta từng nói rằng: trên một hòn đảo nhỏ thường xuyên lộng gió, tất cả mọi côn trùng đều cởi bỏ bộ cánh để sống ký sinh trong đất, đó là một thủ đoạn tiến hóa nhằm để tránh bị gió mạnh thổi bay, những con có cánh đều bị gió cuốn đi và chết, còn những con không có cánh lại tiếp tục sinh tồn, đó chính là nguyên lý ban đầu về chọn lọc tự nhiên.
Nguyên lý của Darwin là một quá trình biến đổi lâu dài, có thể phải trải qua nhiều đời côn trùng, trong một khoảng thời gian dài đằng đẵng. Nếu kết luận này là đúng thì môi trường hiện tại xung quanh nạn nhân chắc chắn phải có một nguyên nhân đặc biệt nào đó khiến côn trùng trưởng thành không thể lột xác hoặc bỏ qua giai đoạn lột xác. Điều này đòi hỏi phải kết hợp hàng loạt vấn đề trong đó có vấn đề khí hậu để tiến hành phân tích tổng hợp, tuy nhiên trong vụ án này rõ ràng côn trùng ở trên xác chết đã không có đủ thời gian để biến đổi ra một loại khác, vì thế về cơ bản có thể loại trừ khả năng này.
Ngoài ra, còn có một số cách giải thích sát với thực tế hơn nữa, thứ nhất là môi trường đóng kín, khi xác chết bị đóng kín vào một góc có rất ít không khí, không gian hoạt động chật hẹp, ô xy không đủ cho côn trùng lột xác; thứ hai là thành phần sinh vật, nếu kết cấu sinh vật của côn trùng thay đổi thì cũng sẽ có thể dẫn đến kết quả côn trùng trưởng thành không lột xác được, nói một cách đơn giản đó là chất hóa học gây ảnh hưởng đến kết cấu sinh vật. Nếu trên xác chết có chất hóa học có thể thay đổi kết cấu sinh vật của côn trùng thì có khả năng rất lớn nguyên nhân khiến nạn nhân tử vong là do trúng độc.
Mặc dù như vậy, là một chuyên gia pháp y từng trải, chỉ dựa vào việc côn trùng trưởng thành không lột xác được mà đã vội vàng kết luận nạn nhân chết do trúng độc là việc làm hết sức cẩu thả. Vì thế Thẩm Kiến Quốc lựa chọn tiếp tục kiểm nghiệm xong xuôi tất cả mẫu côn trùng thu thập được.
Tiếp theo sẽ là ấu trùng. Thẩm Kiến Quốc để ý thấy, bất kể là mẫu thu thập hay là ngoài hiện trường, số lượng ấu trùng cũng đều nhiều hơn so với côn trùng trưởng thành.
Cơ bản có thể kết luận ấu trùng chỉ có một loại, cơ thể chúng to béo, màu trắng vàng. Ở chỗ tiếp giáp giữa các đốt, ngoài phần bụng và bên sườn có gai nhỏ, còn lại chủ yếu gồm các gai to và tù, sắp xếp tương đối thưa thớt; đầu mút của móc miệng dài bằng 2 lần thân chính của bộ phận này, phần giữa mép trên xương họng ở phía lưng bằng phẳng, mép dưới xương họng ở phía bụng thể hiện rõ xu hướng phát triển kéo dài về phía sau. Tổng hợp các đặc trưng của ấu trùng, nhận thấy chúng rất giống ấu trùng ruồi xanh đầu đỏ 3 tuổi. Tuy nhiên, ở phía lưng của đốt bụng thứ 5 và thứ 6 của chúng không có dải gai phía sau, vì thế đây là ấu trùng 3 tuổi của ruồi xanh Calliphora vomitoria.
Bởi vậy cũng có thể cơ bản xác định côn trùng trưởng thành cũng thuộc loại ruồi xanh Calliphora vomitoria.
Từ đó suy đoán, thời gian nạn nhân tử vong là vào khoảng 11 ngày trước (giai đoạn côn trùng trưởng thành 7 ngày, ấu trùng 3 tuổi 4 ngày, tức là tổng cộng 11 ngày).
Nhưng thời gian nạn nhân mất tích tổng cộng mới có 6 ngày, có nghĩa là vào 6 hôm trước nạn nhân vẫn còn khỏe như vâm, mà 11 hôm trước lại đã chết rồi hay sao? Điều này không hợp lý! Từ đó có thể xác định chắc chắn nạn nhân chết do trúng độc, như vậy các hiện tượng kỳ quái trên cơ thể nạn nhân cũng đều có thể giải thích được.
Thẩm Kiến Quốc lập tức liên lạc với Cao Kiện.
“Anh muốn đề nghị phòng thí nghiệm sinh vật phân tử à?” Cao Kiện chau mày hỏi.
“Đúng vậy.” Thẩm Kiến Quốc trả lời.
Cao Kiện day day thái dương, bảo Thẩm Kiến Quốc: “Cần biết rằng phòng thí nghiệm sinh vật phân tử này, ở thành phố chúng ta nếu không có tình huống đặc biệt thì không được tùy tiện sử dụng.”
“Tôi đang nghi ngờ nạn nhân chết do trúng độc, về đặc tính của chất độc rất có thể sẽ là mấu chốt để phá án, cậu nói xem đây có phải tình huống đặc biệt không? Đồ tốt phải được dùng đúng chỗ, bây giờ chính là lúc phòng thí nghiệm sinh vật phân tử phát huy tác dụng của nó, tôi nghĩ cấp trên cũng sẽ hiểu việc này.” Thẩm Kiến Quốc nói với Cao Kiện bằng lời lẽ hết sức chuẩn xác.
“Anh có thể khẳng định chắc chắn nạn nhân chết do trúng độc không?” Cao Kiện năm lần bảy lượt hỏi đi hỏi lại.
“Tuyệt đối không sai được, tôi dám bảo đảm! Bởi vì tất cả những côn trùng tôi kiểm tra đều đã bị ảnh hưởng vô cùng lớn, chưa cần nói đến chu kỳ sinh trưởng của ấu trùng bị đẩy nhanh, chỉ nói riêng một điểm côn trùng trưởng thành không lột xác được (côn trùng không thể lột bỏ lớp vỏ ngoài để mọc cánh), ở đây chỉ có hai khả năng, một là xác chết nằm trong không gian bị đóng kín, hai là cơ thể người bị trúng độc. Cậu cũng đã biết, xác chết nằm trong không gian rộng rãi thoáng đãng, vì thế trong hai khả năng này chỉ còn lại một mà thôi.” Thẩm Kiến Quốc nói.
Cao Kiện suy nghĩ một hồi rồi mới trả lời: “Thế thì tốt, tôi sẽ đi đề nghị ngay. À đúng rồi, căn cứ vào báo cáo khám nghiệm anh gửi cho, đã xác định được thân phận người chết, nạn nhân tên là Trần Cường, nam, 38 tuổi. Theo người hiểu tình hình cho biết, lúc còn sống người này là một kẻ không nghề nghiệp, lang thang nay đây mai đó, thường ở cùng với hai tên du côn lưu manh khác. Ba tên này là loại côn đồ có tiếng ở huyện Lương Bình. Hai tên còn lại lần lượt là Trương Bân và Lưu Dương. Anh thấy thế nào?”
Thẩm Kiến Quốc theo bản năng móc bật lửa trong túi áo ngực, đang chuẩn bị lấy tiếp bao thuốc thì lại trông thấy ánh mắt sắc lẹm của Cao Kiện đang nhìn mình, thế là bàn tay vừa cho vào túi lại rút ngược ra: “Thật ngại quá, mỗi khi suy nghĩ việc gì là tôi lại thấy thèm thuốc.”
Nhưng rõ ràng điểm Cao Kiện tập trung chú ý không phải là ở đây: “Vậy anh suy nghĩ thế nào về vụ án này?”
Thẩm Kiến Quốc nhanh nhẹn bỏ bật lửa vào túi áo ngực, sau đó mới nói: “Sự việc đã như vậy, tôi cảm thấy xác suất Trần Cường bị giết do thù oán vô cùng lớn. Tuy nhiên, mức độ tình nghi của hai người kia cũng không nhỏ, trước tiên hãy đưa về thẩm vấn xem thế nào, biết đâu vụ án sẽ có tiến triển mới. Trên xác chết đã rất khó lấy được thông tin có giá trị, nhưng tôi tin côn trùng không biết nói dối, mẫu côn trùng không có vấn đề gì, chỉ cần có thể phân tích được cấu trúc độc tố có trong các mẫu côn trùng này thì vụ án nhất định sẽ có đột phá mới. Nhưng mà tôi luôn cảm thấy mình đã bỏ qua một thứ gì đó, vì thế đang chuẩn bị đi kiểm tra lại xác chết một lần nữa, xem có tìm được manh mối gì mới không.”
“Được, vậy chúng ta chia nhau hành động.” Cao Kiện nói xong lập tức chuẩn bị đi làm việc.
“Khoan đã, tôi đưa mẫu côn trùng cho cậu.” Vừa nói Thẩm Kiến Quốc vừa mở hộp dụng cụ lấy ra mấy chiếc lọ đưa cho Cao Kiện.
Không hiểu vô tình hay cố ý, chiếc lọ đưa cho Cao Kiện là loại trong suốt, bên trong có một đám côn trùng đang thả sức bò lổm ngổm, hình như có thể bò ra ngoài lọ bất kỳ lúc nào. Khi nhận chiếc lọ, khóe miệng Cao Kiện bất giác run run, chỉ mình anh ta biết rằng bản thân bị mắc hội chứng sợ lỗ (Trypophobia).
“Được rồi, chia nhau ra làm việc thôi, hy vọng ở chỗ anh có tin tốt.” Cao Kiện vừa đi vừa nói.
Thẩm Kiến Quốc cũng cười, hét to: “Càng mong rằng bên phía cậu có tin tốt, hãy nhớ kỹ phải chăm sóc chu đáo cho đám côn trùng của tôi đấy.”
Cao Kiện cố nuốt một ngụm nước bọt, sau đó ngoái cổ lại hỏi một câu yếu ớt: “Có thể mượn hộp dụng cụ của anh một lúc được không?”
Sau khi tách khỏi Cao Kiện, Thẩm Kiến Quốc quay lại phòng giải phẫu. Dưới ánh đèn chiếu chỉ có riêng ở phòng giải phẫu là một xác chết đã thối rữa đến mức không thể chịu nổi, do một số bộ phận bị xơ cứng nên nó nằm trên bàn giải phẫu với một tư thế vô cùng lạ lùng. Vết thương trên xác chết bị phơi bày một cách hoàn toàn không hề giấu giếm dưới ánh đèn, lại còn bốc ra từng luồng khí hôi thối như mùi cống rãnh. Thẩm Kiến Quốc dùng kính lúp bắt đầu quan sát kỹ vết thương trên xác chết, muốn bảo xác chết lên tiếng một lần nữa, cho dù trên xác chết có một số chỗ đã nát rữa, hơn nữa cũng đã rất khó phân biệt dấu vết của vết thương.
Điều không khó hình dung ra ở đây là kết quả sẽ như thế nào đối với một công việc vô cùng khó khăn, có thể nói chẳng khác nào mò kim đáy bể.
Tình hình hoàn toàn trái ngược ở phòng thí nghiệm sinh vật phân tử, với nỗ lực không biết mệt mỏi, cuối cùng Cao Kiện cũng được lãnh đạo cấp trên phê chuẩn, việc phân tích thành phần kết cấu chất độc diễn ra thuận lợi. Anh ta lập tức không kịp nghỉ ngơi chạy đến huyện Lương Bình, nằm vùng ở chỗ hai tên Trương Bân và Lưu Dương thường hay xuất hiện.
Cao Kiện dễ dàng tìm được Trương Bân, nhưng Lưu Dương lại không thấy tăm hơi đâu cả. Trong lúc anh ta đang lùng sục tìm kiếm khắp nơi vẫn chưa có kết quả thì lại trông thấy Lưu Dương ở bến xe, hắn đã mua xong vé để lên xe đi đến nơi khác. Trong quá trình bắt Lưu Dương khó tránh khỏi xảy ra vật lộn. Nhưng bản tính của một tên lưu manh đã bảo hắn, lần thứ 2 trông thấy Cao Kiện hãy lập tức biền thành một người trung thực.
Cao Kiện tập trung ánh đèn rọi vào mặt hai người để họ chỉ có thể trông thấy cái bóng của anh ta, hỏi: “Tại sao các anh lại bỏ chạy?”
“Ông đuổi chúng tôi, đương nhiên chúng tôi phải chạy, tôi còn tưởng rằng ông đuổi tôi để đòi nợ. Làm phiền ông cảnh sát muốn bắt chúng tôi thì phải thông báo trước một tiếng, đừng dọa chúng tôi sợ hết hồn.” Trương Bân nói giọng lưu manh.
Viên cảnh sát trẻ tuổi ngồi đối diện hai người kia nghe thấy thế liền định lên tiếng nạt nộ nhưng bị Cao Kiện ngăn lại, “Chúng ta là cảnh sát, có chứng cứ mới bắt họ, Trần Cường chết rồi.”
“Trần Cường chết rồi sao?” Biểu cảm của hai kẻ bị bắt sau một thoáng nhìn nhau thì tỏ ra ngạc nhiên một cách rất có nghệ thuật.
“Vì thế hy vọng các anh phối hợp.” Viên cảnh sát trẻ tuổi ngồi trước mặt họ nói.
Trương Bân lấy tay sờ mũi, nói với vẻ cười cợt: “Có điều, thưa ông cảnh sát, chuyện này có liên quan gì với chúng tôi ạ? Ông bắt nhầm người rồi.”
Cao Kiện cố tình cất tiếng thở dài: “Chúng tôi chỉ muốn tìm ra thủ phạm thật sự giết chết Trần Cường, nếu các anh không phải thủ phạm thì tốt nhất đừng nên giấu giếm điều gì, nếu không tôi sẽ khép vào tội tòng phạm che giấu hung thủ giết người. Đến lúc đó, các anh sẽ không chỉ đơn giản là bị giam giữ mấy ngày nữa đâu.”
“Ý cảnh sát Cao nói là, các người có thắc mắc gì thì cứ việc hỏi.” Lưu Dương nhanh chóng trả lời.
“Anh ta chết thì đã chết rồi, còn nhốt chúng tôi làm gì, không phải các ông nghi ngờ chúng tôi giết người đấy chứ?” Trương Bân hỏi vặn lại.
“Cảnh sát chúng tôi tuyệt đối công bằng nghiêm minh, không bao giờ xử oan cho người tốt, nhưng cũng tuyệt đối không bỏ qua cho bất kỳ kẻ xấu nào. Tôi có thể tiếp tục hỏi các anh được chưa?”
“Cảnh sát Cao, xin mời!” Lưu Dương vội vàng gật đầu.
Trương Bân nhún vai, đồng thời giơ tay lên.
“Lần cuối cùng các anh gặp Trần Cường là khi nào?”
Trương Bân nói: “Một ngày sau tiết Thanh minh.”
Lưu Dương nói: “Tiết Thanh minh.”
Hai cảnh sát thấy câu trả lời không thống nhất thì quay sang nhìn nhau, và đều cảm thấy kỳ lạ, hình như hai kẻ kia đang cố tình giấu giếm điều gì đó.
Cao Kiện hỏi lại: “Rốt cuộc là ngày nào?”
“Tiết Thanh minh.”
“Hôm đó chúng ta ngồi xe của Trần Cường đi tảo mộ, sau đó lại cùng nhau trở về. Đúng không?” Trương Bân tiếp lời, ánh mắt quay sang nhìn Lưu Dương.
“Đúng rồi, đúng là như vậy.” Giọng nói của Lưu Dương tỏ rõ không chút sức lực.
Cao Kiện lấy ngón tay trỏ chậm rãi gõ nhịp trên mặt bàn: “Trương Bân, lúc nói xong cằm anh khẽ gật xuống dưới, hơn nữa trong lúc nói lại liếc mắt sang bên phải 3 cái. Điều này chứng tỏ các anh đang nói dối. Thật ra các anh đang che giấu điều gì?”
“Không có, không… không có.” Lưu Dương trợn mắt to hết cỡ, lắc đầu quầy quậy, ấp úng vài tiếng.
“Thật không?”
Cao Kiện đột nhiên nổi giận đập bàn, sau đó hai tay đè lên mặt bàn, cúi xuống nhìn chằm chằm vào Lưu Dương, cố tình quát to: “Rốt cuộc hôm đó đã xảy ra chuyện gì hả!”
Trương Bân bị dọa sợ run cầm cập mất một lúc, cố gắng co người về phía sau, “Hôm đó, hôm đó… không, không, không có!”
Tâm trạng Lưu Dương bắt đầu có chút rối loạn, ánh mắt đầy vẻ sợ hãi. Anh ta liên tục lùi lại, dường như đã trông thấy thứ gì mà những người khác không nhìn thấy được. Cuối cùng, anh ta ngồi bệt xuống đất và như thể mất hoàn toàn kiểm soát, co dần vào tận trong xó, miệng hét lên những tiếng hơi kỳ lạ: “Đừng tìm tôi, đừng tìm tôi! Tôi vô tội! Chẳng phải Trần Cường đã đền cho cô rồi sao, cô còn muốn gì nữa…”
Hung thủ thật sựCao Kiện chau mày, rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì mà khiến một người bình thường phải đến nỗi như vậy? Nhưng mà, điều có thể khẳng định chắc chắn lúc này là Trương Bân đã ở vào trạng thái điên loạn, đành phải đưa anh ta ra ngoài.
Tiếp sau đó, chỉ còn lại một mình Lưu Dương là người biết tình hình thực tế.
Bắt đầu từ lúc Lưu Dương lên cơn, Trương Bân luôn đờ đẫn ngồi yên tại chỗ, hai mắt đỏ ngầu, mồi hôi đầm đìa trên trán.
Lúc Cao Kiện bắt được Trương Bân, anh ta đã không ngủ suốt một tuần liền. Anh ta không dám ngủ, bởi vì hễ cứ chợp mắt là lại quay về ngày hôm đó, cái ngày mà anh ta muốn mãi mãi quên đi. Anh ta phải liên tục cố gắng rất lâu, cuối cùng đã có thể ngủ yên được một tiếng, nhưng hôm nay lại một lần nữa bị buộc phải nhớ lại ngày hôm đó, cũng có nghĩa là bao nhiêu ngày nỗ lực cố gắng vừa qua đều đổ cả xuống sông xuống biển.
Trương Bân mệt mỏi gục đầu xuống chạm vào mặt bàn sắt. Một lúc sau, anh ta từ từ ngẩng lên, được một lát lại va mặt vào bàn làm vang lên một tiếng “bình” chát chúa, sau đó lại một lần nữa ngẩng lên, rồi lại va xuống mặt bàn, hơn nữa tốc độ mỗi lúc một nhanh. Cao Kiện lập tức bước đến ngăn lại, nhưng phải rất khó khăn mới ngăn được.
Trương Bân hét lên những tiếng xé lòng: “Đừng hỏi tôi! Tôi không biết gì hết!”
Rất có thể Trương Bân đang diễn kịch nhằm che giấu sự thật, vì thế Cao Kiện không hỏi tiếp nữa mà chỉ lạnh lùng ngồi đối diện. Anh ta muốn biết rốt cuộc Trương Bân có thể diễn đến lúc nào.
Quả đúng như vậy, chỉ một lúc sau Trương Bân đã ngừng rên rỉ, cúi gằm mặt xuống.
“Anh mua vé xe đi sang vùng khác à?” Cao Kiện biết thời cơ đã chín muồi, lập tức tiếp tục hỏi Lưu Dương.
Đuôi lông mày Lưu Dương hơi giật giật, nhưng anh ta vẫn giữ được vẻ trầm tĩnh, làm như thể không nghe thấy gì.
“Tại sao anh lại phải đi nơi khác?” Cao Kiện tiếp tục hỏi.
Lưu Dương vẫn không hề động đậy.
Cao Kiện biết nếu Lưu Dương vẫn cứ mãi im lặng như vậy thì họ sẽ không thể hỏi được thông tin gì. Muốn bắt Lưu Dương mở miệng thì chỉ còn cách chuyển từ thế bị động thành chủ động, vì vậy Cao Kiện bắt đầu tấn công tâm lý.
“Bởi vì anh chột dạ!” Cao Kiện để ý thấy ánh mắt Lưu Dương bắt đầu đảo qua đảo lại, biết rằng anh ta đã sắp sửa lên tiếng, vì thế nhấn giọng cao hơn: “Tại sao anh lại chột dạ? Đó là vì anh và Trương Bân đã cùng nhau giết chết đồng bọn thân thiết của mình là Trần Cường!”
“Tôi không giết!” Cuối cùng Lưu Dương đã lên tiếng.
“Anh không giết thì sợ gì chứ!” Cao Kiện lấn tới hỏi tiếp.
“Tôi…” Lưu Dương định nói nhưng lại thôi, hình như nghĩ đến một chuyện gì đó rất đáng sợ.
“Anh thừa nhận rồi phải không?” Cao Kiện nói.
“Không giết là không giết! Việc gì cũng đều cần phải có chứng cứ, tôi với cậu ta không thù không oán, việc gì phải giết cậu ta chứ! Lẽ nào cảnh sát các ông có thể ngậm máu phun người sao?” Lúc này bản chất lưu manh của Lưu Dương đã quay trở lại.
“Cần chứng cứ hả? Được thôi, anh giải thích thế nào về chiếc xe của Trần Cường?” Cao Kiện nghiêm nghị nhìn Lưu Dương.
“Xe nào? Tôi… tôi không biết!” Rõ ràng Lưu Dương có hơi chột dạ.
“Xe của Trần Cường mấy hôm trước đã bị anh và Trương Bân bán rồi, chủ cửa hàng rất quen các anh. Anh không lừa được ai đâu.” Cao Kiện nói một cách hết sức nghiêm túc.
“Tôi… anh…” Lưu Dương thấy những lời nói dối bị lật tẩy thì lập tức cứng họng.
Cao Kiện biết rõ đây mới chỉ là bắt đầu: “Thế nào, khai hay không khai?”
Bản chất lưu manh vừa rồi của Lưu Dương lập tức tan tành mây khói: “Vâng, vâng, chúng tôi đã bán xe của cậu ấy, nhưng chúng tôi cũng không nhất thiết phải giết cậu ấy đúng không ạ?”
“Thật vậy sao? Theo những gì tôi được biết thì ba người các anh mặc dù chơi thân với nhau nhưng rõ ràng điều kiện kinh tế của Trần Cường tốt hơn hai người, cũng chính vì chuyện này mà giữa các anh từng nhiều lần xảy ra cãi cọ phải không? Như vậy là các anh đã có động cơ giết người hợp lý, có cần tôi phải kể tiếp ra nữa hay không?” Cao Kiện nói.
Lưu Dương nghe xong mồ hôi toát ra đầm đìa, định nói gì đó nhưng lại thôi, rõ ràng anh ta vẫn đang giấu giếm gì đó.
Cao Kiện nói tiếp: “Nếu anh thành thật khai báo, tôi sẽ đứng ra bảo đảm cho anh được tòa án giảm nhẹ hình phạt khi xét xử, còn nếu cứ nhất quyết giấu giếm thì sẽ có lợi gì cho anh chứ?”
Nhưng trong giây phút đó Lưu Dương lại rơi vào im lặng.
Cao Kiện cố tình xem đi xem lại đồng hồ, sau đó nói với Lưu Dương: “Hôm nay đến đây thôi, tôi còn có việc khác phải làm, anh hãy suy nghĩ cho kỹ, đến khi nghĩ kỹ rồi thì chúng ta lại từ từ nói tiếp.” Nói xong liền quay người đi ra, làm như không hề để cho Lưu Dương dù chỉ một chút cơ hội để nói.
“Khoan đã.” Đúng lúc Cao Kiện đang chuẩn bị bước chân trái ra khỏi cửa phòng thẩm vấn thì vừa hay nghe thấy tiếng Lưu Dương cất lên sau lưng, trong lòng anh cảm thấy mừng thầm, cuối cùng anh ta đã thắng ván bài này.
Cao Kiện quay lại, bước dài đến ngồi xuống trước mặt Lưu Dương: “Nói đi.”
Lưu Dương im lặng rất lâu, nhưng câu đầu tiên anh ta nói ra lại vô cùng kỳ lạ, dường như câu nói đó làm nhiệt độ giảm xuống vài phần: “Ông, có tin trên đời này có ma không?”
Cao Kiện nhận thấy Lưu Dương đã biến thành một con người khác, nhưng ánh mắt đầy nỗi sợ hãi và lạnh lẽo của Lưu Dương quả thật đã truyền vào trong mắt anh ta. Lúc này nếu anh ta nói rằng không tin thì chắc chắn Lưu Dương sẽ mất hết hứng thú, không còn muốn nói tiếp nữa. Nhưng anh ta là một sĩ quan cảnh sát nhân dân chỉ tin vào khoa học, sao có thể tin vào những lời đồn thổi vô căn cứ như vậy được: “Sao? Nói nghe xem nào.”
Lưu Dương nắm chặt hai tay, nói tiếp: “Hôm Thanh minh, tôi và Trương Bân cùng Trần Cường đi tảo mộ, nhưng do đi vào buổi chiều và đường xa nên lúc quay về đã là nửa đêm. Vốn suốt dọc đường đi chúng tôi đều hết sức hòa thuận không có gì không phải với nhau, nhưng…”