← Quay lại trang sách

Phần III 21- MẮC LỪA

Có một ông phó tướng quân về kinh, đem tiền bạc theo nhiều lắm, có ý kiếm chỗ thuyên nhậm, mà ngặt không có ai đở đầu. Ngày kia có một người mặt áo cầu cởi ngựa tới thăm, ông phó tướng mời đải trà rượu tử tế. Người ấy vùng nói có anh ruột hầu gần hoàng đế, lại nói rằng: có một chỗ khuyết tướng quân, như quan phó tướng hào hiệp không tiếc vàng bạc, tôi xin trao lời với anh tôi táng tụng một hai tiếng trước bệ rồng, làm sao cũng giúp cho ông đặng, dẫu ai thế thần cũng không giành nổi. Ông phó tướng nghi là lời nói khoét, không muốn tin. Người ấy lại nói: ông đừng ngại, thiệt tôi có ý kiếm chắc chút đỉnh nơi anh tôi, của ông một đồng tôi không ham, ông tính chịu bao nhiêu, ông biên cho tôi ba chữ làm tin, để đợi Thiên tử người đòi ra mắt rồi tôi mới lấy bạc, như việc không xuôi thì bạc ông còn đó, ai dám tới mà giựt của ông. Ông phó tướng nghe được, mầng làm giấy lá xong xuôi. Qua ngày sau người áo cầu ấy trở lại đem ông phó tướng tới nhà người anh là họ Điền; nhà cửa sang trọng như nhà công hầu, ông phó tướng cũng nghinh ngang không giữ lễ phép. Khi ấy người áo cầu vào nhà trong rồi cầm giày ra nói với ông phó tướng rằng: tôi có tính với anh tôi, mà anh tôi nói phải một muôn mới xuôi, ông dồc lòng lo thì ông ký thêm đàng sau giấy. Ông phó tuớng chịu. Họ Điền nói không biết bụng người ta làm sao, sợ việc rồi trở trái làm mặt. Người áo cầu cười mà rằng: anh khéo lo, mình cho đặng, mình lấy lại không đặng sao? Vã trong trào các quan văn võ muốn gần anh, còn không đặng thay, tôi tính ông phó tướng đàng đi hãy còn dài, hãy còn phải nhờ anh nhiều ngày, chẳng lẽ có bụng gì xấu. Ông phó tướng cũng thề thốt không dám bội ước. Người áo cầu đưa ông phó tướng về, nói: ba bữa nữa tôi sẽ báo tin cho ông. Cách hai ngày trời gần tối, có một ít người chạy lật đật vào chỗ ông phó tướng ở mà truyền rằng: đức Hoàng đế đương ngự bên tiện điện có ý đợi ông đó. Ông phó tưóng thất kinh vội vả chạy vào chàu, thấy đức hoàng đế ngồi trên ngai, hai bên lỗ bộ sáng giới. Quan phó tướng múa lạy rồi, Hoàng đế dạy cho ngồi, hỏi han tiêm tất, lại ngó hai bên tả hữu mà phán rằng: trẫm có nghe danh quan phó tướng, nay thấy đây thiệt là một vị tài tướng; rồi lại phán rằng: có một chỗ phải có người anh tài trấn phủ mới yên, trẫm phải phú thác cho nhà ngươi, nhà ngươi phải làm cho xứng ý trẫm. Quan phó tưóng lạy tạ lui ra, liền có người mặc áo cầu theo mà đưa về cho tới nhà quán, ông phó tướng phải y theo giấy mà giao bạc đủ số.

Ông phó tướng chắc ý mầng rỡ ktoe khoang với chúng bạn, sắm sửa chờ ngày phó nhậm. Té ra ít bữa nghe chỗ khuyết ấy đã có người trám rồi, giận lắm vào dinh quan thượng binh mà sân si rằng: Hoàng thượng đã dành chỗ ấy cho tôi, sao bộ lại trao cho người khác. Ông Tư mã lấy làm lạ, hỏi quan phó tướng đầu đuôi, thid ra như chuyện chiêm bao. Ông Tư mã nổi giận bắt ông phó tướng giao cho quan Đình úy. Quan phó tướng khai tên họ người dẫn kiến, tra ra tthì trong triều không có tên họ ấy. Té ra quan phó tướng đã mất tiền muôn mà lại mất chức mà về, ấy là bị ăn cưóp không gươm dao. 22- CHỒN ĐẤT THƠ THỦY

Ấp Thơ, họ Lý có một cái nhà vườn, xảy có một ông già tới mướn, chịu một năm là năm chục đồng bạc; họ Lý chịu cho mướn, nhưng bỡi lâu ngày không thấy ông già tới ở, bèn biểu đầy tớ cho người khác mướn. Qua ngày mai ông già tới nói: nhà mướn có giá, sao ông còn cho người khác mướn? Họ Lý nói tại ông để lâu, tôi nghi ông không mướn. Ông già nói tôi tính mướn lâu, cho nên để mà coi ngày, nói rồi liền đem năm chục đồng bạc mà giao trước, lại nói: dầu tôi có bỏ không cả năm, ông chớ nói tới. Họ Lý đưa ông già ra về, hỏi chừng nào dọn, ông già nói chừng chừng, cách hơn mười ngày cũng vắng vẻ. Đến khi họ Lý đi thăm nhà, thì cửa đóng chặt, thấy khói nấu ăn, nghe tiếng người ta chào rào mới lấy làm lạ; bèn viết thiếp đi mầng, ông già vội vã rước vào, trò truyện vui vẻ. Họ Lý trở về bèn sai người đem đồ cho, ông già cũng thết đãi cùng cho lại nhiều. Cách ít ngày họ Lý dọn ăn mời ông già, lần lần hỏi tới quê quán, thì ông già nói mình ở bên đất Tần. Họ Lý lấy làm xa xác. Ông già nói đất Tần sẽ mắc nạn to, không khá ở lâu dài, bây giờ coi thì thới bình mà ngày sau chưa biết ra làm sao, có một chỗ này là phước địa. Qua ngày sau ông già làm giấy tạ chỗ ở, dọn yến tiệc mời lại họ Lý. Họ Lý thấy màn trướng dọn dẹp sang trọng, thì lấy làm kỳ dị, tưởng là một vì quan lớn. Hai đàng ở với nhau một ngày một thân thiết, ông già mới nói thiệt mình là chồn; họ Lý sửng sốt, gặp ai nói nấy, các kẻ hào mục trong ấp nghe sự lạ, cũng đều tới cửa ông già, xin làm quen. Ai tới, ông già cũng lụm cụm đi tiếp rước, các quan tỉnh cũng thường tới lui. Có một ông huyện sở tại xin tới, ông già cứ kiếm điều từ chối; ông huyện cậy chủ nhà nói giùm, ông già cũng không chịu. Họ Lý hỏi cớ sự làm sao, ông già bèn xít lại gần mà nói nhỏ rằng: ông không biết kiếp trước y là lừa, coi đàng hoàng ở trên đầu trên cổ dân, song quả y uống nuớc hồ, y cũng say, tôi không phải loài người, tôi cũng không thèm làm quen với y. Họ Lý phải kiếm đều nói tránh rằng: ông già ấy sợ ông thần minh, cho nên không dám ra mặt với ông. Quan huyện tin, không đòi đến nữa; ấy là việc đời Khương Hy năm thứ 11. Chẳng khỏi bao lâu đất Tần mắc việc binh lửa, té ra có một mình con chồn già biết trước.

Sách Dị sử bàn rằng: con lừa hình dạng cao lớn, hễ có giận thì đá đạp, hầm hí, con mắt lộ bằng cái chén, hơi thở như bò, tiếng khó nghe, hình cũng khó coi, nêu lấy một bó cỏ mà dỗ, thì nó liền cúi đầu xủ tai, mặc ý người cột trói; người như vậy mà ở trên đầu dân, uống nuớc hồ cũng say là phải lắm. Kẻ trị dân lấy gương con lừa mà răn mình, lại cầu cho được tiếng khen con chồn, thì sẽ nên người đức hạnh.

23- CHUYỆN ÔNG TẤN SĨ LƯNG MỌC LÔNG DÊ

Đất Hiệp Hữu có một ông Tấn sĩ hay nhớ việc kiếp trước. Ông ấy nói kiếp trước mình làm học trò, được nửa đời người mà chết, xuống âm phủ thấy vua Thập điện đương có tra án, bày những lò vạc gớm ghiết, y như chuyện người ta nói trên đời; bên góc đền về phía đông, thấy những giá treo da dê, da chó, da trâu, da ngựa cùng các thứ da; thấy người coi bộ kêu tên từ người, hoặc bắt đi làm ngựa, hoặc bắt đi làm heo, quỉ đều lột trần truồng, lấy da trên giá mặc cho. Giây phút kêu tới tên ông Tấn sĩ. Ông ấy nghe vua Thập điện dạy đi làm dê, liền thấy quỉ lấy một cái da dê, bắt ông ấy lột trần, tròng vào khít rịt. Xảy có một tên thơ lại tâu nói ông ấy có cứu một người khỏi chết. Vua Thập điện tra lại quả có như lời, bèn trở giận làm vui mà rằng: tội ác nó thiệt quá lắm, song một việc lành ấy cũng cứu nó được. Vua Thập điện nói rồi bèn dạy quỉ lấy da dê lại. Chẳng dè da dê đã dính vào trong thịt, cởi không ra, hai thằng quỉ phải nắm cánh tay ông Tấn sĩ, đứa trì đứa lột, đau ông ấy quá chừng, da dê rách từ miếng, lột không sạch, bên vai ông Tấn sĩ hãy còn dính một miếng lớn bằng bàn tay. Đến khi ông ấy sống lại, sau lưng có lông dê mọc vấy vá, cạo đi nó mọc lại không tuyệt.

24- LẬP TỰ CHO CHÁU

Có một người bá hộ lớn tuổi mà không con; người em lại có hai đứa trai. Bá hộ thường nói với em, biểu cho một đứa mà lập tự. Vợ bá hộ nghe nói, không dám cải ý chồng, nhưng mà không bằng lòng, cứ đi chùa chiền cúng cấp, vái Phật bà, họa may cho mình có con, kẻo ức tấm lòng. Người em nghe anh nói thì mầng, chíp lấy trong bụng. Chẳng khỏi bao lâu người bá hộ thọ bịnh nặng, cầu thầy chạy thuốc, sám hối tụng kinh, vái trời vái phật, ếm quỉ trừ ma cũng chẳng ích gì. Bá hộ chết xuống, người vợ làm theo phép phật, tống táng đủ lễ. Giáp năm làm tiểu tường, người vợ rước một ông hòa thượng lớn làm chay, cầu cho chồng trực vãn Tây phương phật. Lệ làm chay: hễ nhà giàu rước thầy, phải có ba lễ, một lễ cúng tổ, một lễ trưong tượng Thành, một lễ mầng thầy. Vợ bá hộ không thuộc ba lễ ấy, mà thầy cũng không đòi, hóa ra bỏ đi không làm. Đến khi làm đám gần rồi mà phần mả, ông hòa thượng làm hiểm, vái trẹo cho vong hồn trực vãn Đông phương, không cho trực vãn Tây phương. Vợ bá hộ lộng kính bắt hồn chồng mà hỏi, thì hồn chồng quả ở Đông phương, lấy làm tức tối quá.

Qua đại tường người em bá bộ xin làm tuần thế, vợ bá bộ cũng đành để cho người em chồng làm, họa may có đòi cho chồng mình về Tây phương chăng, cứ rưóc ông hòa thượng cũ. Thầy tới, người em bá bộ làm đủ ba lễ, mỗi lễ chịu một đồng bạc, thầy lấy làm bằng lòng, đến khi phần mả, thầy vái ngay cho vong hồn trực vãn Tây phương. Người em lộng kính bắt hồn mà hỏi, thì hồn bá hộ được về Tây phương rồi. Người em đắc ý nói với chị dâu rằng: nghĩ lại khi anh tôi còn sanh tiền, thường nói có chị nghe, là để sự ngbiệp cho con tôi nó giữ, thì là đáng lắm, bỡi vì anh tôi biêt cha con tôi giỏi, cho nên mới đành lòng phú thác. Vợ bá bộ tức mình nói: tuần chay trước tôi làm dở, tuần chay nầy chú làm lại hay gì? Chú nhờ có ba lễ ba đồng, cho nên chồng tôi được về Tây phương, còn tôi làm trơn cho nên chồng tôi phải qua Đông phương. Khác nhau có một sự có bạc cùng không bạc; có bạc lên trời cũng đặng, chẳng lựa là qua Tây phương; may chồng tôi giàu, phải mà nghèo, cũng chẳng lẽ về Tây phương được, có khi cũng không có em có cháu nữa.

25- NỢ KHÔNG TRÔNG TRẢ

Ông Lý Trước Minh, khẳng khái hay làm việc bố thí. Trong làng có một người tới ở mướn, mà tánh làm biếng, không biết việe làm ruộng đất, nghèo khô nghèo khiểng mà cũng có tài khéo léo; hễ có làm việc gì, ông Lý Trước Minh đều ưng bụng, trả nhiều tiền bạc, lỡ làng không gạo nấu, năn nỉ xin ông ấy liền cho. Có một bữa tên ở mướn ấy thưa với ông ấy rằng: kẻ tiểu nhơn chịu ơn ông hậu lắm, nhà ba bốn miệng ăn khỏi chết đói cũng nhờ ông; nhưng mà không lẽ nhờ đời, xin ông cho tôi vay một tạ đậu xanh để làm vốn. Họ Lý chịu cho, tên ấy lật đật gánh đậu đi, hơn một năm không thấy trả chi cả; hỏi ra thì vốn đậu đã sạch, họ Lý thấy vậy đem lòng thương không đòi. Cách ba năm họ Lý qua chùa đọc sách, nằm chiêm bao thấy tên ấy tới mà thưa rằng: tôi mắc tiền đậu ông, nay tôi tới mà trả lại cho ông. Họ Lý rằng: bằng tra nợ cũ, bắt chú phải trả, thì chú thiếu biết là ngần nào! Tên ấy buồn mà nói rằng: thiệt quả như lời ông nói; con người ta có công việc làm mà chịu tiền ngàn cũng không phải trả, bằng chịu thinh không, dẫu một bát cơm cũng chẵng nên quên, huống chi là chịu ơn vô toán. Tên ấy nói rồi liền đi mất. Họ Lý cũng sanh nghi trong lòng, thoát chúc người nhà tới thưa đêm ấy con lừa cái đẻ một con lừa đực mà sổ sữa xinh tốt. Họ Lý nhớ mạy nói: có khi con lừa con nầy thì là đứa thiếu nợ mình chăng. Cách ít ngày, họ Lý trở về nhà thấy con lừa con, bèn hô tên người thiếu nợ mà kêu chơi, con lừa con liền chạy lại dường như có đều hiểu biết. Từ ấy họ Lý mới lấy tên người thiếu nợ mà đặt cho con lừa. Đến khi con lừa lớn, ông ấy cởi đi chơi xa, nhiều người giàu có muốn mua, trả nhiều bạc; kế lấy ông ấy có việc nhà phải trở về không kịp làm giá. Qua năm sau lừa ngựa nuôi chung một chuồng, lừa bị ngựa cắn gảy ống chơn, làm thuốc không lành. Xảy có một ông thầy thuốc trâu tới nhà họ Lý, thấy con lừa bèn xin lảnh về cho thuốc, họa may có mạnh, bán được giá bao nhiêu sẽ chia đôi. Họ Lý chịu, thầy thuốc trâu lảnh lừa về nuôi ít tháng lành đả rồi, bán được một ngàn tám trăm, chia phân nữa cho họ Lý, họ Lý nhớ sực lại thì đúng giá tiền đậu xanh. Ấy rõ ràng nợ dương gian, mờ mờ âm phủ trả, cũng đủ mà giục lòng người.

26- CHUỘT CÓ NGHĨA

Hai con chuột đi ăn, rủi thì một con bị rắn bắt, con kia làm bộ giận dữ, lòi hai con mắt như hột tiêu; song cũng ở xa xa mà ngó, không dám lại gần. Con rắn nuốt con chuột nọ vô bụng rồi, lểnh nghểng bò xuống hang, vừa quá nửa mình, con chuột bạn chạy xốc lại cắn riết đuôi con rắn; con rắn giận tháo đầu trở ra, chuột lẹ nhảy trái, rắn rượt không kịp, trở lộn lại, xăm xăm chun xuống hang; con chuột cứ việc chạy lại cắn đuôi như trước: hễ rắn xuống hang, nó trở lại, rắn thụt ra, nó chạy đi. Nó làm như vậy một hồi lâu, con rắn tức mình phải trở ra, mửa con chuột nuốt ra trên đất, rồi mới trở xuống hang. Con chuột sống thấy xác con chuột chết, chạy lại hít ngửi dường như thương tiếc rồi tha mà đi mất. Có người ngó thấy chuyện ấy rõ ràng, bèn đem làm chuyện nghĩa thử để đời.

27- CHUYỆN NGƯỜI ĐINH TIỀN KHÊ.

Họ Đinh hiệu Tiền Khê là người giàu có, ăn ở rộng rãi, hay làm điều nhơn nghĩa, nuôi lầm đứa bất lương, quan địa phương hay đặng cho quân bắt. Họ Đinh trốn đi tới đất An Khâu, mắc mưa vào quán mà đụt. Té ra mưa trót ngày không tạnh, trong quán có một đứa nhỏ ra dọn đãi ăn uống bỉ bàn, rồi thì kế tôi, họ Đinh phải ngủ đêm tại quán. Thấy thằng nhỏ có bụng tử tế, cắt tranh cỏ cho ngựa ăn, họ Đinh mới hỏi tên họ chủ quán. Thằng nhỏ nói chủ quán là họ Dương, nó là cháu ruột, bác nó hay kết bạn chơi bời đi vắng, có một mình bác gái nó ở nhà, nghèo lắm không có tiền mà đãi khách. Họ Đinh hỏi chủ quán làm nghề gì? Thằng nhỏ ấy nói có một nghề chứa bài, kiếm một hai đồng xâu mà ăn. Qua ngày sau trời còn mưa, mà trong quán cũng cứ việc dọn ăn. Đến tối thấy cỏ tranh cắt để vày vò dầm ướt, họ Đinh lấy làm lạ mà hỏi, thằng nhỏ thưa rằng: chúng tôi không dám giấu ông, nhà chúng tôi nghèo không có chi mà cho ngựa ăn, bác tôi phải giựt tranh mái nhà mà cho nó ăn. Họ Đinh càng lấy làm kỳ, trong ý tưởng chủ quán làm hết lòng như vậy mà đòi cho nhiều tiền. Sáng ngày họ Đinh trả nhiều tiền, chủ quán không lấy, họ Đinh ép thằng nhỏ biểu cầm vào, tức thì nó đem ra mà trả và nói rằng: bác tôi không phải làm nghề đãi khách mà kiếm ăn, bác trai tôi đi chơi đâu mấy ngày cũng không hề đem một đồng tiền, nay ông tới nhà có lẽ đâu cho chúng tôi lấy tiền. Họ Đinh nghe nói lấy làm khen ngợi, từ giã mà đi, lại dặn: khi chủ nhà về phải nói mình là người ở Chư Thành, họ Đinh, chủ nhà có rảnh xin qua chơi.

Cách mấy năm không có tin tức gì, nhằm năm mất mùa, họ Dương khốn túng lắm, chẳng biết làm chi mà ăn, người vợ nhắc chừng biểu chồng qua viếng họ Đinh. Họ Dương tới đất Chư Thành, nói tên họ cho người giữ cửa, họ Đinh quên lửng, hỏi đi hỏi lại mới nhớ, liền xỏ giày ra rước, thấy họ Dương lang thang rách rưới, đem vào nhà dọn yến tiệc đãi đằng, làm ra cách thương yêu quá chừng, sáng ngày may áo quần, trong ngoài đều no ấm. Họ Dương lấy làm cám ơn, mà nghĩ phận nhà lại thêm buồn; vì đàng xa tới anh em cũng có bụng trông chút đỉnh, té ra ở mấy bữa nghe vắng vẻ, không thấy nói tới chuyện cho chác chi cả. Họ Dương tức mình phải nói thiệt với họ Đinh rằng: tôi không dám nói giấu anh, khi tôi qua đây thì gạo trong nhà còn có mấy nồi, nay nhờ anh lấy lòng rộng rãi, rách cho mặc đói cho ăn, tôi lấy làm có phước, mà ngặt vợ con ở nhà không biết liệu làm sao. Họ Đinh rằng: anh đừng lo, tôi đã tính cho anh rồi, anh ở nán ít ngày tôi phải giúp vốn cho anh. Rồi đó họ Đinh cho người đi kêu tay đánh bạc, biểu họ Dương ngồi coi lấy xâu; đánh một đêm xâu hơn một trăm quan, mới đưa họ Dương về. Họ Dương về tới nhà thấy vợ con giày dép áo quần nhỗn nha lành lẻ, lại có tớ gái hầu hạ, lấy làm sự lạ lùng, hởi vợ nhơn sao mà được tử tế như vậy? Vợ nói từ anh đi rồi, qua ngày sau liền có xe chở vải lụa, gạo thóc tới chất để đầy nhà, hỏi ra thì người dẫy xe nói là của họ Đinh buổi trước có ở đổ tại nhà, dạy đem tới mà cho, lại có cấp cho một đứa đầy tớ gái để giúp đỡ cho tôi nữa. Họ Dương cảm mến chẳng khi đừng, từ ấy trong nhà mới khá, bỏ nghề cũ khòng làm nữa.

28- CHUYỆN THÂY MA LÀM DỮ

Ấp Thái có một ông già cất quán xa thành để tiếp bộ hành ngủ đêm, có bốn tên dẫy xe thường ngủ đậu. Một bữa trời vừa tối, bốn tên ấy tới thì khách đã chật nhà, khòng biết đi đâu, xin quyết chủ quán cho ngủ đổ. Ông già ngẫm nghĩ hồi lâu, nói có một chỗ mà e không xứng đáng. Bốn người nói cho có chỗ nằm thì thôi, hè chái chi cũng nên. Nhằm lúc dâu ông già mới chết còn để thây giữa nhà, con trai ông ấy thì đi mua hòm chưa về, ông già mới dắt bốn người vào phía đàng sau, gần chỗ thây nằm, đèn chong leo lét, có bốn cái giường để liền nhau, bốn người mệt nhọc nằm xuống, liền nghe tiếng ngáy khò khò. Một người còn lim dim mơ màng, xảy nghe tiếng động bên giường thây nằm, nhướng mắt coi thì đèn chưa tắt, thấy thây tốc mền chờ dậy trèo xuồng giường, lần lần lại chỗ bốn người ấy nằm, mặt mũi xanh dờn, lụa trắng choàng ngang qua trán, cúi xuống thổi mặt ba người. Người ấy thất kinh sợ nó thổi luôn tới mình, sẽ lén kéo mền trùm đầu nín hơi để coi nó làm thế gì. Giây phút con gái chết ấy cũng men lại mà thổi trên mình người ấy như ba người kia; rồi nó thoát ra khỏi phòng, liền nghe khua bên giường nó, người ấy hé mền dòm thì thấy thây nằm ngữa như cũ. Người ấy sợ lắm không dám đánh tiếng, lén đạp ba người kia trơ trơ không cục cựa. Người ấy nghĩ phải mặc áo mà chạy, mới ngồi dậy giủ áo, lại nghe động nữa, sợ nằm lộn xuống, quấn mền lại. Con gái ấy liền qua mà thổi nữa, thổi đi thổi lại đôi ba lần rồi mới đi. Người ấy nghe động bên kia, chắc ý nó trở về rồi, lén thò tay mò áo bận vào bỏ giày chạy khan. Chằng dè thây con gái cũng chờn vờn chờ dậy làm như bộ rượt, nó vừa ra khỏi màn, người ấy đã mở cửa thoát ra ngoài. Thây ma vụt chạy theo, người ấy và chạy và la, trong làng không có ai canh, muốn đứng lại mà kêu cửa nhà gần, nhưng sợ thây ma theo kịp, bèn cứ đàng lộ chạy miết dài tới bên phía đông, thấy một cái chùa, thầy chùa đương gở mỏ tụng kinh, liền chạy sấn vào, thầy chùa thấy kì dị không cho vô. Thoát chúc thây ma theo kịp, cách chừng một thước, người ấy túng thế, thấy ngoài cửa chùa có một cây dương lớn gốc đôi ba vầng, mới tráo xây quanh gốc dương: hễ thây ma chạy bên này, người ấy chạy bên kia, thây ma giận lắm, mà hai đàng cũng đã mõi mệt, thây ma vùng đứng lại, người ấy tháo mồ hôi hột thở không ra hơi, cứ núp theo cội cây. Thây ma làm dữ giang hai tay xoát ngang qua gốc cây vói bốc, người ấy hết hồn té ngửa ra, thây ma bắt hụt, ôm riết lấy gốc cây mà đứng sững.

Thầy chùa rình nghe một hồi không có tiếng tăm gì, mới ra coi thì tên bộ hành nằm ngay, soi đèn thì đã chết rồi, song rờ ngực hãy còn hoi hoi hóp như sợi tơ, khiêng vào chùa, sáng đêm mới sống lại, đổ hồ cháo hỏi cớ sự làm sao. Tên bộ hành nói đủ đầu đuôi. Khi ấy chuông đã đánh sáng, trời mờ mờ thầy chùa coi gốc cây dương, thấy một đứa con gái ôm đó mà chết. Báo huyện, quan huyện đi khám nghiệm, dạy người ta gở tay con gái mắc cứng trong gốc cây, giựt không ra, coi kĩ thì tay tả hữu bốn ngón đều bấu trong cây lút mất móng, nhiều người giựt ra mới được, coi dấu ngón móc vào trong cây có lỗ tút hút. Ông huyện khiến người hỏi bên ông già quán, thì trong quán nhộn nhàng về sự thây mất, mấy người bộ hành chết. Người sai học chuyện, ông già qua lảnh thây về. Tên bị thây rượt khóc bẫm với quan huyện rằng mình đi bốn người, nay về một mình, biết nói làm sao với làng xóm? Quan huyện dạy làm vi bằng cho nó đem về mà trình. 29- CHUYỆN HỌ THÂN

Bên sông Hà có họ Thân là con nhà học hành, nhà nghèo, bữa đói bữa no, bếp núc vắng lạnh, vợ chồng nhìn nhau không biết làm chi cho có mà ăn. Vợ nói với chồng rằng: Nghèo nàn thế này, anh phải đi ăn trộm mới nuôi nhau đặng. Họ Thân rằng: mình là con nhà lễ nghĩa, không lẽ làm nhục tông môn, thà thác theo ông Bá-gi, chẳng thà sống làm Đạo chích (1). Vợ giận mà rằng: muốn sống mà còn sợ xấu nổi gì? Ở đời chẳng cày mà đặng ăn cũng có hai cách, anh chẳng muốn làm ăn trộm thì thà để tôi đi làm đĩ. Họ Thân bất bình nói nhiều tiếng xúc phạm, vợ hờn bỏ đi ngủ. Họ Thân nghĩ mình là trai, có hai bữa ăn mà lo không đặng, đến đỗi vợ đòi đi làm đĩ, thì sống cũng chẳng làm gì, lén ra sau vườn làm vòng thắt cổ. Họ Thân mới đút cổ vào vòng, xảy thấy cha chạy tới dứt vòng, quỡ con sao cả gan làm chuyện dại, lại biểu rằng: chuyện ăn trộm cũng nên làm đở, là đi coi chỗ nào lúa lên cao dày phải núp đó, như đi phen nầy có lẽ làm giàu, thì phải chừa cải không nên làm nữa. Vợ nghe té một cái đụi, giật mình chờ dậy kêu chồng không lên tiếng, thắp đèn đi kiếm, thấy vòng trên cây đứt, chồng nằm dưới gốc cây mà chết, thất kinh ôm chồng vuốt ve một hồi, chồng mới sống lại, dịnh vào để nằm trên giường. Vợ thấy vậy không dám giận hờn nữa, sáng ngày mượn cớ chồng đau, đi xin lối xóm đặng một chén cháo đem về cho chồng húp đở. Họ Thân húp miếng cháo rồi, vùng chờ dậy ra đi, tới xế qua mới vác về một bao gạo. Vợ hỏi gạo ở đâu, họ Thân nói anh em bạn với cha tao đều giàu sang, bấy lâu tao lấy sự ngoắt đuôi làm hổ, cho nên tao không chịu đi xin. Người đời xưa có nói rằng: túng thì phải biến, nay tao tính đi ăn trộm thì còn luận gì xấu hổ. Mầy phải nấu cơm cho mau, tao tính nghe lời mầy, tao đi ăn cướp. Vợ tường là chồng nói lẩy, lật đật đi vo cơm. Họ Thân ăn no rồi, bèn đi kiếm cây chắc, chặt làm đoản côn, hăm hở vác ra đi. Vợ coi ý chồng thiệt đi ăn cướp, bèn kéo lại không cho đi. Họ Thân rằng: mày biểu tao, mai sau có mang họa, thì đừng trách; nói rồi bèn giựt vạc áo mà đi một bề. Mặt trời vừa chen lặn, họ Thân ngó thấy xóm, bèn núp xa xa cách chừng một dặm; thình lình mưa lớn mình mẫy ướt dầm, mù mù ngó thấy một lùm cây, muốn đi cho tới đó mà nghỉ chơn, không dè trời chớp thấy mình đã hầu kề một bên tường có lúa mọc dày, bèn chạy sấn vào đó, ngồi chồm hổm mà núp. Cách một chặp có một tên trai tráng vặm vỡ cũng vào trong đám lúa. Họ Thân sợ không dám máy động; may tên trai tráng ấy đi tránh, dòm theo thấy nó leo qua tường, chắc ý nó là quân tử ngồi rường (2), để nó đem đồ ra, sao vậy mình cũng có phần, mà nghĩ bộ tịch nó thì mạnh bạo hung ác, nếu mình lấy ngang ắt là có đánh lộn, làm sao mình đánh cũng khòng lại, chẳng bằng lừa thế mà đánh nó trước. Họ Thân lập tâm rồi cứ việc núp đó mà chực. Gà gần gáy sáng, thằng ấy xơn xao leo tường nhảy ra, chơn chưa tới đất, họ Thân nhảy tới đánh một côn trúng ngang lưng nó nhào xuống, thì là một con rùa lớn hả miệng ra bằng trang cái miệng chậu, họ Thân thất kinh đánh bồi nó mới chết.

Số là trong tường ấy có ông nhà giàu, có một đứa con gái xinh tốt trong đời, cha mẹ yêu thương như vàng như ngọc. Đêm kia có một người cao lớn vào nhà làm bức, con gái ấy kêu la không ra tiếng; con gái ấy xấu hổ không dám nói ra, bắt đầy tớ gái nằm một bên, đóng cửa chắc, thằng dữ ấy cũng cứ việc tới như cũ. Ông nhà giàu giận, dạy tôi tớ canh khắp trong ngoài, cũng không bắt nó được. Lâu ngày con gái ấy ốm o gầy mòn, ông nhà giàu tức mình đặt cuộc: ai trừ đặng yêu quái ấy thì thưởng 300 lượng bạc. Họ Thân bình nhựt cũng có hay chuyện ấy, đêm nọ giết đặng con rùa, ngỡ là nó làm hại con ông nhà giàu, bèn kêu cửa xin lảnh thưởng. Ông nhà giàu mầng rước vào, cho người đi khiêng con rùa vào trước nhà, dạy chặt ra từ khúc, rồi cầm họ Thân lại, quả không có yêu quái nữa, mới đem bạc ra thưởng đủ số. Vợ ở nhà thao thức đợi trông, thấy chồng vác bạc về để tại giường, sợ hỏi chồng đi ăn trộm thiệt sao? Họ Thân nói mầy biểu tao, mầy còn nói gì. Vợ khóc mà nói rằng: trước tôi có ý nói chơi, nay quả anh phạm tội chết chém, không lẽ tôi chịu tội chung với ăn cướp, tôi phải liều mình tôi trước, chẳng để cho người ta động tới tôi. Vợ nói rồi liền chạy đi, họ Thân kéo lại, cười mà nói thiệt, vợ đổi giận làm mầng, từ ấy vợ chồng có vốn làm ăn một ngày một thạnh lợi.

Sách Dị sử bàn rằng: con người ta chẳng phải lo nghèo, một lo không có đức hạnh; người ở có hạnh dầu đói cũng không chết, nếu người ta không thương, cũng còn có quỉ thần phù hộ. Nhửng người nghèo ở đời hay dục lợi chẳng vì nghĩa, tham ăn không biết hổ, một đồng tiền người ta cũng không muốn giùm, phương chi là quỉ thần có thương xót làm sao đặng.

Chú thích:

(1) Châu võ vương phạt Trụ, Bá Gi, Thúc Tề, hỗ vì vua, không chịu ăn thóc nhà Châu mà chết.

Đạo Chích sanh đời nhà Châu, hung hoang, trộm cướp, vô sở bất vi.

(2) Đời Hậu Hán, ngươi Trần Thật bỉnh tánh ôn hòa, một bữa có ăn trộm ẩn bóng vào nhà, trèo ngồi trên thượng lương, chờ trong nhà ngủ xuống mà lấy đồ. Trần Thật ngó thấy tên ăn trộm, làm thinh không nói, lật đật kêu các con dậy mà nói rằng: con ngiười ta làm dữ, không phải là bổn tánh dữ, là tại tập dữ tánh thành. Các con chớ bắt chước người quân tử ngồi trên rường làm chi. Tên ăn trộm nghe nói liền tuột xuống mà lạy, Trần Thật khuyên rằng: con người cơ hàn, đại để là tại không lo làm ăn, coi tướng nhà ngươi không phải là dữ, nhà ngươi hãy giải nghiệp, phải làm nên người liêm sĩ; nói rồi liền đuổi nó đi.