← Quay lại trang sách

Chương 3 Rừng mả họ ma

Chiều chầm chậm buông.

Dãy núi Phja Bjooc giống con rồng lớn vồng lưng, oặt khúc, giơ những móng vuốt nhọn hoắt vồ nửa mặt trời đỏ bầm. Đó đây trên nương mới đốt nồng mùi cỏ tranh cháy. Từng đụn khói theo gió tốc ngược lên trời, gặp tụi sương quẩn vào nhau, bay là là sà xuống bản. Chiều buông heo hút, lạnh lẽo xuống khu rừng mả dòng họ Ma.

Nắng nhạt nhòa, yếu ớt cuối ngày hắt bóng lên những ngôi mộ đá chập chờn, ma quoái trước khi vụt tắt. Tụi chim lợn rít lên chói tai "choéc...éc...choéc...éc...éc..." bay ngang rừng mả, không làm Ngần sợ. Sương bủa vây trước khi bóng tối che mắt. Sương thấm ướt bờ vai mỏng mảnh của Ngần. Ngồi bên mộ cha và mé phủ đầy hoa mạy mác, Ngần cảm giác có hơi thở ấm nồng của cha, mé hà hơi, tiếp sức cho cô...

Ngần không rõ mặt cha, không tỏ mặt mé. Bóng hình hai người như sương sớm, khói chiều bảng lảng bay trên mái nhà sàn của bản, của mường. Những lúc thèm gọi tiếng "cha ơi", hay "mé à", cô lên đây, phủ phục bên mộ mà gọi khe khẽ...lấp đầy khoảng trống rộng thênh trong đầu.

Rừng mả dòng họ nhà Ngần nằm gần rừng mác cọp, giáp đường mòn leo núi Phja Bjooc. Nơi đây có những cây gỗ tán dày và cao. Vắt vẻo giữa những cây cao là tụi dây mây, cây móc gai nhằng nhịt đeo bám, tạo bức tường cách biệt. Đi sâu vào phía trong khu nghĩa địa có bạt ngàn cây bưởi, cây đào cổ thụ, quanh năm nở hoa, tỏa hương thơm vấn vít. Hoa nhiều mà không bao giờ có quả.

Tụi trẻ chăn trâu, chăn dê, không đứa nào dám bén mảng. Chúng sợ ma người dưới mộ. Thế nên chỉ có con cháu dòng họ bước chân vào thôi. Người họ Ma nếu không có đám chết phải đưa vào rừng ở cùng ông bà thì hiếm khi đặt chân tới. Mỗi năm một lần, đến Tết Thanh minh, cửa mả mở để người âm về. Các gia đình họ Ma quây quần quanh khu mộ, cắm cờ phướn, rắc giấy điều, bày mâm cơm cúng ông bà, ngồi ở đấy ăn uống, nói chuyện về người đã khuất. Chuyện trong họ, ngoài bản thâu đêm, đến rạng sáng hôm sau mới lật ngật về nhà.

Những Tết Thanh minh nối nhau chạy qua bên mộ phần, từng câu chuyện như hàng trăm mảnh vỡ vụn, chắp vá qua lời kể lể, khóc than của vợ chồng cậu Va, tái hiện lại cuộc đời của ông, bà và khúc sống ngắn ngủi của cha, mé Ngần.

...Mé Ngần là chị gái, cậu Va là em. Năm mé Ngần mười hai tuổi gầy nhẳng, cậu Va lúc ấy ăn được chín mùa quả cây mác cọt, ông bà ngoại đi làm trên nương, uống phải thứ nước ở khe suối có lá cây độc rụng xuống, về nhà bụng chướng lên, đau quằn quoại, mồm sùi bọt rồi dắt tay nhau đi về cõi âm trong rừng mả này. Cậu Va tay ôm một đôi "cáy cúm" trống, mái bé tí thả vào rừng mả làm bầu bạn với ông, bà... đôi "cáy cúm" ấy về sau phủ phục bên mộ ông bà mà chết. Chúng đau buồn không sống nổi.

Mé Ngần, khi đỏ hỏn lọt lòng bà ngoại, đến lúc thành thiếu nữ không biết nói, chỉ cười. Từ ngày ông bà mất, mé với cậu Va kiếm được gì thì ăn nấy, miễn là cái bụng no. Ngày qua ngày mé cặm cụi, quẩn quanh từ nhà lên nương, xuống ruộng, vào rừng... làm ra hạt thóc, củ sắn nuôi miệng hai chị em. Mắt mé không vượt qua ngọn núi của Mường Vang. Chân không biết xuống chợ. Trong nhà thứ cần nhất là muối thì cậu Va nhờ người bản đổi mấy con lợn, con ngựa lấy thúng muối ăn cả năm. Muối lúc ấy là của hiếm ở vùng núi heo hút này. Cũng vì muối mà cha Ngần bị chết đấy thôi.

... Cha Ngần là người nơi khác lạc bước đến vùng núi này. Ông mang nét chữ dạy người bản biết viết, biết đọc. Dân Mường Vang, Mường Hái, Mường Cốc Lổm...biết mặt chữ là do ông. Người bản gọi cha là "ông giáo". Không ai biết vì sao cha dừng chân nơi hẻo lánh. Chuyện cha chọn căn nhà hai chị em côi cút của mé Ngần nương thân thì chỉ mé Ngần biết.

Mé lấy cha, người bản thổi lời khó nghe. Họ thầm thì rỉ tai nhau, nói rằng cha Ngần phạm tội bị quan tây truy nã, trốn vào rừng rú, che tông tích, thân phận, thế nên cha lấy người con gái câm làm vợ.

Một lời bỏ vào tai này, trôi sang tai khác chảy nhanh như nước máng. Những chuyện không hay đồn đoán về cha, trôi theo gió mưa năm tháng. Người dân trong vùng sớm nhận ra "ông giáo" hiền lành, đức độ, có chí khí hơn người. Mé Ngần, cậu Va biết cha đến đây gây dựng cơ sở cách mạng.

Khi đứa bé gái Ngần biết bò quanh sàn nhà, cái miệng nhỏ xinh gọi "cha...cha" thì chuyện cha Ngần tuyên truyền cách mạng lọt tai chúa mường Hiểng. Chúa mường ton hót với tụi quan tây mũi lõ dưới đồn huyện, cha Ngần lôi kéo thanh niên trong vùng thành lập "hội kín" cách mạng.

Lũ quan tây do tuần Ngái dẫn đường ập đến nhà, bắt cha Ngần, đeo gông vào cổ, dẫn lên huyện. Dọc đường cha đi, dân bản đóng kín cửa, lén lấy tay chấm nước mắt. Họ biết "ông giáo" khó có ngày trở về với dân mường...Cha bị bắt, lũ quan tây thưởng cho chúa mường Hiểng với tuần Ngái mười bảy thúng muối, cho cả con ngựa nâu thồ về mường.

Cha Ngần bị quan tây Pháp chặt đầu, thân cha treo lên ngọn cây kháo trắng giữa ngã ba đường vào phố huyện Pó Liểng. Đầu cha bị tụi giặc cắm vào cọc tre nơi cổng chợ. Dân bản vừa thương, vừa sợ bị trả thù nên mấy ngày, mấy đêm không ai dám đưa thi thể xấu số của cha mang đi chôn. Tụi tây ác tuyên bố, nếu bắt được người đem chôn cha thì sẽ diệt họ hàng, gia tộc.

Không biết có phải ông trời thương hay không, nhưng hai ngày sau khi cha bị hành hình, trời đổ mưa đá tầm tã. Đá trắng trong suốt như có ai đó ném dồn dập xuống bản, xuống mường. Đêm ấy, cậu Va cùng mấy người trai tráng trong vùng phi ngựa xuống huyện, leo cây kháo, lấy thi thể và đầu cha đem lên trên núi. Chiếc cọc tre cắm đầu cha, ông cậu mang về, buộc vành khăn trắng bằng vải mộc, dựa vào bàn thờ tiên tổ.

Cha mất, mé Ngần đau khổ, quay quắt. Đôi mắt mé đỏ bầm rực màu lửa. Mé lăn ra ốm, nằm bẹp sàn. Ốm hai ngày, hai đêm thì từng mảng tóc trên đầu rụng xuống như người ta bóc vỏ. Mé trút hơi thở đi lên rừng mả cùng cha...

Ngày mé xuống âm thế, mưa trút nước trắng bản. Sấm chớp nhoáng nhoàng rạch nát trời. Nước sông Nậm Khao đổ lũ về đỏ ối như máu tuôn...tụi chim lợn kêu cả ngày lẫn đêm não nùng...

Rừng mả là nơi Ngần thỏa thuê rủ rỉ nói chuyện với cha, mé mà không lo ai biết. Dạo này có điều lạ lắm. Lần nào cũng thế, Ngần nói chuyện về Khỉnh thì chân nhang đang cháy đượm cũng tắt. Gió kêu u...u...nghe như lời khóc than, ai oán. Thế nên từ ngày trong bụng biết nhớ Khỉnh, mấy chục lần Ngần vào rừng mả, chuyện kể về Khỉnh vẫn dở dang. Ngần không muốn nhìn thấy nhang cháy rừng rực bị tắt. Ngần nghe cậu Va bảo, chân nhang tắt là người âm thế quở trách. Trong bụng Ngần dấy lên điều nghi vấn...

Hình như trở trời thì phải. Con mắt trái giật giật, buốt nhói vì còn mảnh đạn găm trong ấy. Ông Va khẽ xoa nhè nhẹ, đầu mông lung nghĩ.

Ngần là cháu nhưng ông Va coi như đứa con gái. Nó đến tuổi lấy chồng phải chọn người tử tế, không có oan gia với họ nhà mình. Ngẫm ra, ông nội, ông ngoại và cha mé thằng Khỉnh chân chất, lành hiền. Nó cũng là thằng trai khỏe mạnh, thế nhưng người trong họ nó gây thù, chuốc oán, làm cha mé cái Ngần chết tức tưởi, oan uổng, thế thì làm sao có thể để con Ngần về làm dâu dòng họ Nông ấy?

Ông Va lặng lẽ lắc đầu. Vết sẹo trên mặt ông giật giật, con mắt bị hỏng rịn ra từng giọt đục ngầu...

Ông Va bị thương trước ngày bộ đội ta giành thắng lợi trên mặt trận Điện Biên Phủ. Khi lá cờ chiến thắng tung bay trên nóc hầm Đờ Ca-xtơ-ri thì ông mê man trong trạm phẫu tiền phương. Thân ông mất một phần máu xương trên chiến trường. Thế nên dù muốn trở lại hàng ngũ cùng đồng đội sau khi điều trị quân y viện, nhưng ông không còn lành lặn để tiếp tục cầm súng. Ông trở về quê núi năm 1955.

Ngày ông về nhà, bà Sang vợ ông, cái Ngần và thằng Ngành con ông ôm chầm khóc như mưa, như gió. Vợ ông thoắt khóc, thoắt cười. Bà bảo sau ngày chiến thắng, những người trai bản đi bộ đội Bác Hồ như ông về nhà rồi tiếp tục ra đi, thế mà ông bặt âm vô tín, làm bụng bà có rượu nặng cháy. Ông về, bà làm bánh ngải, bánh vắt vai thật nhiều mời người bản chung vui...

Cậu Va trở về mới đấy mà đã sáu mùa nước sông Nậm Khao dâng cao trôi qua. Ngần giờ là cô gái xinh đẹp nhất mường, nhiều thằng trai dán mắt. Em Ngành được nhà nước cho đi học chữ ở Trường Thiếu nhi rẻo cao Khu tự trị Việt Bắc dưới Bắc Thái xa xôi. Nơi ấy là đâu thì Ngần sao biết được? Cái chân Ngần đi đến chợ huyện thôi. Mỗi lần về nghỉ hè, em Ngành kể đủ thứ chuyện, Ngần nghe mãi không chán. Hè vừa rồi nó học xong lớp chín. Nó về mang gương mặt không vui. Ngần đoán biết nó có chuyện phải nghĩ, nhưng để nó khắc tự nói ra.

Chập tối. Gió hè dắt cái mát hơi đá xua oi nồng. Trời vằng vặc sao nhấp nháy. Tụi đom đóm túa ra rước đèn bay lượn, nhảy nhót.

Ăn cơm xong, cả nhà quây quần bên bộ bàn ghế trúc, dưới gốc cây mác mịt giữa sân. Em Ngành nói trong hơi thở buồn:

- Cha mé à, con viết ba lá đơn xung phong đi bộ đội, nhà trường không cho đi.

Cậu Va thủng thẳng: - Nước mình chia cắt vì thằng giặc, mày đi bộ đội, thắng thằng giặc rồi về học sau cũng được.

- Con nghĩ thế nhưng thầy hiệu trưởng bảo, đất nước cần những người giỏi. Việc của em bây giờ là học cho xong lớp 10! – Ngành rầu rĩ nói.

- Thì mày nghe lời thầy giáo học xong đi! – Mợ Sang nhẩn nha.

- Các bạn trong trường đi bộ đội ầm ầm, hết lớp này đến lớp khác, con không muốn ngồi yên học đâu. Nhưng...

Sau điếu thuốc lào rít lên sòng sọc, cậu Va hỏi:

- Mày có điều khó nói hay sao mà ngập ngừng thế con?

Em Ngành lạu bạu: - Vì...vì gia đình mình có cha là thương binh, con là con một, nhà trường không cho đi.

Mợ Sang nhanh nhảu:

- Đúng rồi, nhà này, nhà khác đông con đi trước, nơi ấy bom đạn dày trời, mày đi bộ đội tao lo lắng.

Thật bất ngờ, em Ngành vùng vằng, nói sẵng:

- Mé biết gì mà nói. Cứ như mé thì mất nước.

- Ơ, cái thằng cục cằn này, mày giống tính ai thế? Là tao nghĩ sao nói vậy. Đấy, pò mày năm xưa đi đánh trận, tao rầu ruột. Pò mày về nhà thân không lành lặn, bụng lo âu đến giờ đấy! – Mợ gằn giọng: - Lúc trở trời vết thương của pò mày buốt lắm!

Tay cậu Va đập đập xuống mặt bàn, tụi chén sành va vào nhau kêu lanh canh, cậu quay sang nói với mợ:

- Ơi Phạ! Bà cũng chẳng ra sao, con nó có chí hướng đấy! – Cậu kéo tay em Ngành ngồi xuống, nhẹ nhàng an ủi: - Thôi, mày cố học cho tốt rồi chờ thời gian nữa xem sao!

Tụi đom đóm dạn người, nhởn nhơ bay lượn, soi rõ khuôn mặt đỏ căng của Ngành. Mợ Sang lặng ngắt thở dài.

Ngoài ngõ tiếng sáo của thằng trai đeo bám Ngần vút lên thiết tha như gọi, như mời. Trời tràn căng gió, bỗng trở nên ngột ngạt. Ngần kéo tay Ngành, rủ em: - Ra bờ đá ngoài sông đi.

Cậu Va hắng giọng: - Con Ngần ngồi xuống. Có chuyện này...

Tự nhiên chân tay Ngần run lên. Linh tính mách cô có chuyện hệ trọng, bởi giọng nói của cậu như lạc đi. Chưa để Ngần kịp suy đoán, cậu nói chắc nịch:

- Tao bàn với mợ mày rồi. Ngày mốt nhờ bà mối sang đánh tiếng hỏi cháu ông Sìu làm chồng mày.

Tai Ngần ù đi như có bát nước dội vào, cô lắp bắp:

- Ơ...nó là thằng lạ mà cậu bắt cháu ở đời, ăn kiếp với nó a? Sao nhà mình ngược đời đi hỏi lấy người ta?

- Dà! Nó ở với ông Sìu cũng là họ hàng xa lắc thôi! – Ngưng một lát như cố nén tiếng thở dài, cậu bảo: - Cha nó hy sinh trên đường số ba. Khi sinh nó ra mấy tháng, mé nó giặt quần áo dưới suối bị lũ cuốn trôi mất xác... nó được vợ chồng ông Sìu nuôi thành người. Mày lấy nó hợp cảnh, hợp người. Nhà mình ít người nên hỏi nó làm "rể đứt".

Ở vùng này, gia đình nhà gái hỏi "rể đứt" giống như nhà trai đi hỏi vợ. Nhà gái phải lo các thủ tục làm lễ "minh hom", đến ngày lành thì làm "đắt cáy" xin ông bà tổ tiên cho lễ cưới rước rể về dòng họ."Rể đứt" thì thằng trai phải ở hẳn bên nhà vợ, con cái sinh ra mang họ mẹ...

Hai bàn tay Ngần đan ngón vào nhau, xoắn lại vặn vẹo đau rát lên như bị ngọn lửa liếm. Chuyện ông cậu nói sao nhanh thế? Ngần đâu dám trái ý. Từ bé Ngần đã ngoan, không dám trái lời cậu, mợ. Cho dù trong bụng Ngần có hình bóng thằng Khỉnh, tai cô say lời sáo réo rắt, bay bổng của nó, thế nhưng, cô thiệt phận mất cha mé là do họ nhà mé nó gây ra...Đầu Ngần bừng bừng, căng thẳng. Tiếng cậu Va kéo Ngần về thực tại:

- Ý con thế nào hả Ngần? Có ưng không?

- Con...con...không biết...con...

Ngần vụt đứng dậy, bỏ ngang câu nói, cắm đầu, cắm cổ chạy như bị con trâu lồng lên hung hãn đuổi phía sau. Mặc bóng tối chụp kín mắt, chân Ngần lướt trên đá, vượt qua bụi gai lớn gai bé, dẫm đạp lên hoa mạy mác...cô chạy theo thói quen, theo trí nhớ, theo cả luồng sáng của bầy đom đóm dẫn đường. Khi cái chân vấp đá, ngã lăn ra, tay bập vào chân nhang, cô biết mình đã vào trong rừng mả của dòng họ.

Ngực đau tức. Cổ nghẹn đắng.

Bầy đom đóm tụ lại, tản ra trước đôi mắt khô khốc của Ngần.

Gió chạy thông thốc, hoang dại. Hoa đào, hoa bưởi tứ mùa ngào ngạt hương thơm... Ngần sõng xoài giữa những ngôi mộ nấc khan. Nước mắt ứ lại, vón cục trong người không thoát ra nổi. Cô mê man trôi trong lạnh lẽo, hoang vu, trong tiếng cú rúc liên hồi, chờn rợn.

Từ nơi nào đó xa lắc, mé hiền hậu trở về nở nụ cười, nhẹ nhàng bế bổng Ngần lên, cất lời ru dịu dàng, êm ái:

"...Ứ nọn nòn/Nòn đắc noọng nòn/Nòn tắng pí au qua/Nòn tắng a au luổm/Luổm lầu đảy sloong boóc/Nốc choóc đảy sloong tua..."

(Ư em ngủ/Ngủ say em ngủ ngoan/ Ngủ đợi chị lấy dưa/Ngủ đợi cô bắt muỗm/ Muỗm to được hai ống/Chim sẻ được hai con...)

Ngần thiếp đi trong lời ru êm ái, bay bổng của mé.

Trôi vào giấc ngủ say nồng, Ngần nghe tiếng mé da diết, cậu mợ thay pò, mé nuôi dạy con trưởng thành, cớ sao con trái lời làm mé đau lòng... đi chơi với mé với pò một lát thôi, chỉ lần này thôi rồi về nhé. Về nhà sống tốt, nghe lời cậu mợ... Và từ trong rừng cây trắng phau, pò lướt tới, ôm Ngần vào vòng tay bao dung. Ngần dang tay giữa pò và mé, hai người dắt Ngần đi chơi trong muôn trùng mây chập chờn, hư ảo.

Mé ru Ngần ngủ lâu lắm. Ngủ say mãi, mé với pò dắt đi chơi mãi...

Ông trưởng họ Ma Thái Sùng đặt ba chậu than đỏ dưới chõng tre Ngần nằm, dải chín đồng bạc trắng tượng trưng cho chín vía, trên đầu là quả bầu khô vàng óng, trong có núm nhau sơ sinh với lá bùa hộ mệnh, lũ con gái tuổi trăng tròn cầm đuốc đi xung quanh, bà then Sải khuơ thanh la, xục xèng gọi hồn Ngần bay đi chơi về nhà...

Cái mắt Ngần biết mở ra bởi nghe tiếng tù và, thanh la, xục xèng ngân vang trong nhiều lời gọi thảng thốt, ời ời của bà then Sải, cậu Va, mợ Sang và các mé, các pò trong dòng tộc...

Bất chợt, Ngần thấy người nhẹ bẫng. Cô chồm dậy, nhảy ra khỏi chõng tre, Ngần ào đến bên cậu Va, cúi đầu nói khẽ:

- Con...con thuận theo lời dạy của cậu mợ! – Ngần thảng thốt nói như nước chuội trên mặt đá.