- 4 - Vài ngày trước, tại Paris
Maya nhìn tấm cửa lưới thép hạ xuống bên ngoài cửa kính văn phòng du lịch. Tiếng lách cách của xích sắt xoa dịu cô, như thể tấm cửa lưới này, trong lúc hạ xuống vào cuối ngày làm việc, đang trả cô về với tự do.
Có hai Maya, một của ban ngày và một của ban đêm, hai nhân cách hoàn toàn đối lập nhau, hoặc gần như vậy; mỗi thành viên của Hội 9 cũng đều gần như vậy, nhưng ở cô cái nhân cách kép này rõ rệt hơn.
Cô cho trợ lý nghỉ sớm nửa giờ. Sau 5 giờ chiều, chẳng còn khách nào gọi nữa. Cũng như mọi chiều, cô tới chỗ để đồ, thay chiếc juýp và áo vạt chéo ra, mặc lên người bộ đồ thể thao để đi chạy bộ ven bờ sông Seine. Điện thoại di động của cô đổ chuông, cô nhìn màn hình rồi không bắt máy mà nhắn tin trả lời, xin lỗi người bạn gái, cô phải giải quyết nhiều hồ sơ muộn nên không thể tới cuộc hẹn ăn tối như đã định. Một lời nói dối nảy ra do một ý thích đột ngột, một việc đã thành thói quen ở cô. Cô trở lại bàn làm việc, rút từ ngăn kéo ra một cái gương nhỏ và thấy ghét thứ mình nhìn thấy ở đó. Trong lúc chỉnh lại lớp trang điểm, cô cố gắng mường tượng lại cái lần gần nhất cô vẫn cảm thấy vô tư. Ý nghĩ đó làm tiêu tan ý muốn đi chạy bộ.
Cô rời văn phòng qua cửa sau và men theo đường phụ tới tận lối vào bãi đỗ xe Alma. Tay phụ trách đỗ xe cho khách của tiệm ăn Marius và Janette vừa vào ca làm việc. Cô đưa chùm chia khóa cho anh ta, mỉm cười với vụ hợp tác nhỏ. Maya có được chỗ đỗ quen thuộc trong số những lốt đỗ mà nhà hàng đã thuê, nằm ngay đối diện bốt an ninh. Đổi lại, cuối mỗi tháng cô lại đưa một tờ 100 euro cho Albert. Anh ta xuống lấy chiếc Austin Cooper cho cô. Một mẫu xe không còn xuất hiện nhiều trên đường phố Paris nữa, màu xanh nóc trắng, vô lăng bằng nhựa bakelite, ghế ngồi bọc da Connolly và cần gạt số bằng gỗ. Mạnh mẽ và nhanh. Mỗi lần đi xa về, Maya thích được thấy lại nó. Mỗi người đều có một nơi nương náu cho riêng mình, nơi nương náu của Maya là chiếc xe được bố tặng vào dịp sinh nhật hai mươi tuổi. Đến giờ đôi lúc cô vẫn nhìn sang ghế cạnh lái và thấy bố đang hướng dẫn mình cách nhả máy đúp.
Tiếng động cơ nổ mạnh hơn ở đoạn dốc của bãi đỗ xe. Tay phụ trách đỗ xe cho khách khá thạo việc và anh ta chạy xe mà không làm lốp nghiến xào xạo. Trong lúc anh ta giữ cửa xe cho cô, Maya cảm ơn anh ta rồi bước lên xe, suy nghĩ tìm lộ trình tốt nhất để về căn hộ ở khu Marais. Ngay khi về đến nhà, cô sẽ tự thưởng cho mình một chầu tắm trước, rồi gọi sushi và buổi tối thì một mắt xem ti vi, một mắt rình từng cú like trên những bức ảnh gần nhất cô đăng trên tài khoản Instagram. Một cửa tiệm thu hút khách hàng còn hiệu quả hơn cả cửa tiệm trên đại lộ Marceau vốn ngốn của cô cả mớ tiền thuê hằng tháng... Nhưng bố cô quá gắn bó với văn phòng ấy, đến nỗi đôi khi cô có cảm giác bóng ma của ông vẫn lảng vảng quanh đó. Địa vị là vô giá, ông nhắc đi nhắc lại với cô như vậy khi dạy cô các mánh lới trong nghề. Từ thuở thiếu thời của cô, ông đã dẫn cô đi chu du khắp chốn, cho cô khám phá thế giới và làm quen với những khách hàng lớn của hãng, chưa một phút nào nghi ngờ chuyện một ngày nào đó cô sẽ nối nghiệp ông, nhưng ông không thể ngờ được rằng con gái mình, hai mươi năm sau đó, sẽ không chỉ làm mỗi việc tổ chức các kỳ nghỉ cho một nhóm khách hàng giàu có.
Điện thoại di động của Maya đổ chuông, không phải chiếc điện thoại thường ngày, mà là chiếc khác, chiếc điện thoại trả trước và có thể vứt bỏ, và điều đó có nghĩa là cô sẽ phải từ bỏ các dự định. Khi tiếng chuông ngưng bặt sau hồi chuông thứ ba, cô đã được xác nhận điều đó. Cô quay đầu xe trên đại lộ George-V, đi lối bờ sông tới cầu Bir-Hakeim, giảm tốc độ dưới hầm Citroën. Cứ cách tối, cảnh sát của đội Phòng chống tội phạm lại đứng núp, nhắm súng bắn tốc độ vào những kẻ ngây thơ không biết cái bẫy đang giăng trước mặt.
Vòng xuyến, một loạt con phố, rồi các đại lộ mang tên các Thống chế, trước khi lao xuống con dốc của một bãi đỗ xe, đi tới tận tầng hầm dưới cùng và dừng lại trước bức tường trong cùng. Cô tắt đèn pha và ngắt động cơ, liếc mắt quan sát kính chiếu hậu. Khi đã chắc chắn nơi này không có ai, cô mới ra khỏi xe và đi về phía cánh cửa một buồng kỹ thuật của tòa nhà. Ở bên trong, cô nhìn chằm chằm vào một camera nhỏ đang quét võng mạc cô và chờ cho bức vách trượt ra trên một đường ray rồi bước vào một căn phòng bí mật với các bức tường màu xám, được một dãy đèn nê ông chiếu sáng.
Đồ đạc đơn điệu, một cái ghế tựa và một cái bàn kim loại trên đó có một phong bì bằng bìa cứng đang chờ sẵn. Cô mở phong bì thì thấy bức ảnh một bé gái, không có ghi chú gì phía sau. Cô bé bao nhiêu tuổi, bảy hay tám? Một người mẹ hẳn sẽ biết điều đó. Cô bé con có gương mặt thiên thần ủ rũ này là ai? Dưới đáy phong bì, cô còn tìm thấy một tờ giấy Bristol trên đó có viết:
21 giờ 30, cà phê Internet phố Rome.
Cái trò truy tìm manh mối này nghĩa là gì? Không có nơi nào an toàn hơn ở đây, hang ba con khỉ con, tên được đặt cho căn phòng này, một nơi cách âm, phá sóng điện từ, nơi ta không bị ai nhìn thấy, không bị ai nghe thấy cũng không thể giao tiếp được. Một nơi bị cắt lìa khỏi thế giới.
Có gì đó không khớp. Maya ngồi xuống để suy nghĩ.
Không gì buộc cô phải vội cả. Cho bản thân thời gian để thẩm thấu và hiểu những tài liệu không được phép lưu hành trong bất cứ trường hợp nào chính là lý do để ở trong cái hang này.
- Ai đã triệu tập cô ấy đến hang?
- Vài năm trước, Maya được Cục Tình báo tuyển làm người đưa tin. Trong các chuyến du hành, có lúc cô ấy thì thầm vào tai một vị khách ở một bảo tàng, bỏ một tờ ghi chú vào túi một bộ đồ giao cho nhân viên dọn phòng một khách sạn, giấu một USB trong nhà vệ sinh một nhà hàng, tiếp nhận một phong bì, hay cả chụp trộm ảnh. Ai có thể nghi ngờ được cô ấy chứ? Maya tổ chức các kỳ nghỉ cho những khách hàng nhiều đặc quyền của các siêu doanh nghiệp. Hoặc có người đi cùng, hoặc đi một mình trong những lần tiền trạm, cô ấy được vào khắp các khách sạn hạng sang trên thế giới và biết rõ lối đi bí mật ở những nơi đó, nhờ sự tiếp tay của những người gác cổng, nhân viên đỗ xe cho khách, người giữ cửa, hướng dẫn viên du lịch bản địa, thậm chí đôi khi cả nhân viên cảnh sát, những người được cô trả thù lao để lo việc bảo vệ cho khách của cô hoặc để có những giấy phép đặc biệt. Maya là một người liên lạc bí mật lý tưởng.
- Một người liên lạc bí mật... Cô ấy không hoàn toàn là người của Cục Tình báo ư?
- Không, Cục Tình báo chỉ thuê cô ấy làm thời vụ. Một cái lợi cho họ. Nếu xảy ra sự cố, Maya không thể cầu cứu những người thuê cô, cũng không liên đới gì tới họ vì những người này không thuê cô theo nghĩa đen. Thù lao trả cho cô khá cao, nhưng sự kín đáo và tính hiệu quả của cô đã chứng minh thuê cô ấy đáng đồng tiền bát gạo.
***
Cô ra khỏi hang và lại bước lên chiếc Cooper, vẫn hết sức bối rối. Có người dùng kênh chính thức của Cục Tình báo để chuyển cho cô một tài liệu chẳng có vẻ gì chính thức ư? và nếu đúng là như vậy, thì vì mục đích gì? Cô hy vọng có thể hiểu ra vấn đề khi tới cuộc hẹn thứ hai.
Cô chạy xe về phía khu châu Âu, và chộp lấy bức ảnh cô đã đem theo để nhìn thật kỹ lúc dừng đèn đỏ.
- Con là ai? cô lẩm bẩm.
Cho tới khi biết thêm gì đó, Maya suy diễn rằng cái người hẹn cô tới đây không hề được đào tạo hoặc có được dạy thì cũng chẳng đến nơi đến chốn về nghệ thuật ẩn thân. Các quán cà phê Internet đều được trang bị camera và máy tính dùng ở đó được giám sát kỹ hơn bất kỳ nơi nào khác. Trong túi cô có đồ nghề để sửa cái lỗi ấy, một máy tính bảng 4G có cài sẵn một SIM rác. Cô đỗ chiếc Austin ở phố Rome, cách điểm hẹn chừng hai mươi mét.
Vài phút sau, cô bước vào khu phục vụ của quán cà phê Internet và ngồi xuống bên một bàn chân quỳ. Rồi trên không gian ảo, cô chờ đợi người liên lạc xuất hiện.
Một dây ký tự và số xác nhận tính xác thực của kết nối đột ngột hiện trên màn hình máy tính bảng. Đến lượt mình, cô gõ một mật mã để xác thực.
Giây lát sau, một đoạn ký tự khác hiện trên màn hình:
@C9# I2_V27/ilTQ
Ngồi sau vô lăng chiếc Cooper, Maya bắt đầu giải mã.
“C9” ám chỉ một “gói hàng” cực kỳ quan trọng, nhưng không nói hàng kiểu gì.
Ký tự # tức là cô phải lấy được và mang về một cách bình an vô sự.
“I2” ám chỉ những hướng dẫn tiếp theo sẽ được lấy ở hòm thư lưu ký.
Cô gõ phần còn lại của dãy ký tự vào phần mềm trong máy tính bảng:
_V27/ilTQ
Bản đồ một đô thị xuất hiện, cô nhận ra ngay đó là Istanbul. Hệ thống mã hóa mới được cập nhật chưa lâu. Cô nghĩ rằng nếu có kẻ nào thâm nhập vào mạng lưới của Cục Tình báo, kẻ đó chắc chắn phải nắm được rất nhiều thông tin, nghĩ như vậy không phải không có lý.
Tiến hành lấy một gói đồ nhạy cảm ở địa bàn nước ngoài không có trong thỏa thuận hợp đồng của cô. Vì sao lại giao cho một người đưa tin đơn thuần một nhiệm vụ phức tạp nhường ấy? Chuyện này không bình thường. Những e ngại của Maya là có căn cứ bởi bị bắt quả tang ở Thổ Nhĩ Kỳ hẳn có hậu họa. Làm sao xác minh được mệnh lệnh thực thi nhiệm vụ này đúng là do các đầu mối thông thường của cô giao? Việc chọn quán cà phê Internet này làm điểm hẹn quá thiếu logic, khiến cô đồ rằng đó là một cái bẫy.
Maya tắt máy tính bảng, tháo thẻ SIM và quẹt một que diêm đốt cháy nó trong gạt tàn. Rồi cô quay xe, chạy thẳng về khu Marais.
- Chị biết những hoạt động song song của cô ấy chứ?
- Biết.
- Những người khác cũng vậy ư?
- Không, họ không có lý do gì cần phải biết những việc cô ấy làm ngoài các vụ đột nhập máy tính. Khi họ biết điều đó, có những việc nhất định sẽ được sáng tỏ.
- Những việc gì?
- Hội được lập nên từ những hacker ngoại hạng, chứ không phải từ các siêu anh hùng. Những con người, với sự mạnh mẽ và những thiếu sót riêng, nhưng đều là những lập trình viên thiên tài. Người Nga, người Trung Quốc, người Mỹ, chúng tôi vượt trội hơn hẳn tất cả bọn họ... Thêm vào đó, Maya còn có bản lĩnh hành động trên thực địa cực kỳ xuất sắc, quy tắc không được đến đó không áp dụng với cô ấy.
- Và chuyện đó chưa bao giờ làm dấy lên các mỗi nghi ngờ trong Hội ư, trong suốt ngần ấy thời gian?
- Ekaterina khẳng định đã nghi ngờ gì đó, nhưng tôi nghĩ cô ấy hơi khoe khoang.
- Vậy là Maya có ba khuôn mặt: nhân viên lữ hành, người đưa tin cho Cục Tình báo và hacker của Hội 9? Vì sao chị lại là người duy nhất được biết điều này?
- Nếu anh thật sự muốn hiểu chuyện gì đã xảy ra, tôi cần phải kể cho anh nghe câu chuyện này theo đúng trình tự và để làm được như vậy, chúng ta phải trở lại Oslo.