Cọp thổi tù và sừng trâu Và-Chuyện nghĩa hổ
Mỗi khi cọp tới phá rẫy, người ta thường thổi tù và sừng trâu để đuổi. Tại sao cọp lại sợ tiếng còi sừng trâu? Tích xưa như vầy:
“Anh nọ giữ rẫy khoai, hằng đêm đốt lửa nướng vài củ khoai lang để ăn giải buồn. Gần chòi anh, có một con cọp thường tới lui rình, thấy vậy cọp ta bắt chước, móc khoai lên, thổi lửa nướng khoai như anh nọ.
Anh nọ giận lắm vì mỗi khi cọp đến, anh phải leo lên chòi cao mà trốn. Về sau, anh bày kế: mua dầu chai đem về rưới mấy bó rơm chung quanh bếp lửa. Gần đó anh đặt hai bó củi, trong bó củi có hai cây pháo tre thật to.
Cọp ăn quen lại ngồi trên bó rơm. Dính dầu chai, dính rơm vào lông, cọp ngơ ngác không hiểu chuyện gì bèn đem hai bó củi nọ thảy vào bếp lửa. Ý của cọp là đốt lên cho sáng để coi rõ. Dè đâu khi củi ngún, hai cây pháo tre nổ lên, rơm và dầu chai phựt cháy khiến cọp phải hoảng chạy. Lửa bốc phừng phừng thiêu rụi lông, râu, làm phỏng da. Vô cùng tức giận, hôm sau cọp trở lại ngồi sát chòi, chờ dịp trả thù.
Ngồi trên chòi cao, anh nọ vô cùng sợ hãi, bèn ném xuống dao, mác, hũ, chén... Cọp không sợ, trái lại há miệng thật lớn như chờ anh té xuống mà nhai xương. Sau rốt, còn cái còi sừng trâu, anh nọ liệng xuống rớt vào ngay cuống họng cọp nọ... Cọp giựt mình không hiểu vật gì làm nó nghẹt thở. Cọp hít hơi, hơi gió lọt vào còi kêu lên: “Cò. Cò”. Thở mạnh ra, hơi gió kêu lên: “Kè... Kè...” Hoảng sợ, cọp chạy miết về rừng. Càng sợ, hơi thở càng mạnh, cho nên dọc đường cọp nghe trong họng mình: “Cò kè, cò kè...”
Từ đó về sau, hễ cọp nghe tiếng còi sừng trâu là chạy cong đuôi”.
Chuyện nghĩa hổNăm Tự Đức thứ hai, tại làng Long Phụng, tổng Hòa Quới, huyện Kiến Hòa (nay là Bến Tre) có gia đình họ Võ nuôi một con cọp con.
Cọp nọ lớn lên được gia đình thương mến xem như con ruột. Ông tú tài họ Võ dạy hai đứa con của mình (một trai, một gái) kêu cọp nọ bằng anh Hai.
Vài năm sau, ông được lệnh ra Huế lãnh chức vụ mới. Trước khi đi, ông kêu cọp nọ mà căn dặn ráng ở nhà nuôi mẹ nuôi em.
Chừng ông đi được vài ngày, cọp nọ bỗng dưng lại bàn thờ quỳ xuống, la hét. Người mẹ an ủi cọp. Cọp bèn ra dấu tỏ ý muốn xin phép ra đi rồi trở về.
Bà tú tài họ Võ cho phép. Cọp mừng rỡ chạy mất.
Bữa đó, ông tú tài nằm cáng trên đường về Huế, thình lình gặp con cọp đón đường. Nhìn lại, rõ là cọp ở nhà chạy theo. Ông biểu cọp trở về. Cọp khóc lóc, sau cùng đem dâng cho ông tú tài một hoàn thuốc xạ hương để phòng bịnh dọc đường.
Khi về nhà, cọp nọ biếng ăn biếng uống. Về sau được thơ ông tú tài gởi về, cả nhà mới biết rằng cọp đi kỳ rồi là để dâng thuốc. Ai nấy hết sức cảm động.
Vài năm sau, ông tú tài đau nặng nhờ hoàn thuốc nọ nên tạm thuyên giảm. Ông bèn gởi thơ nhắn đứa con trai lớn ra săn sóc. Đứa con đến nơi, ông đã chết.
Cọp ở nhà hằng ngày lo nuôi mẹ và em gái, rảnh thì vào rừng bắt heo hoặc đi lối xóm cột bùa cho con nít kiếm tiền về chi dụng. Bà tú chẳng may mắc bệnh qua đời. Đứa con gái khóc lóc thảm thiết, chạy đầu làng cuối xóm để báo tin buồn rồi lạy tạ ơn những người đến giúp chôn cất mẹ.
Năm bảy tháng sau, người con trai ở Huế về đến Bến Tre. Chừng gặp mặt, cọp khóc lóc rồi dẫn hai anh em ra thăm mả của bà tú tài. Đến nơi, cọp đập đầu vào mà tự tử.
Người con trai bèn để tang cho cọp, làm lễ chôn cất kỹ lưỡng rồi lập miếu thờ, đề mấy chữ: “Nghĩa Hổ Trưởng Huynh chi mộ”. Sau đó có người làm thơ khen tặng như vầy:
Hùm còn biết nghĩa nặng cùng người.
Trả thảo liều thân giữa đất trời,
Một tấm da dầu chôn chặt đất.
Trăm năm còn mãi tiếng khen đời.