← Quay lại trang sách

Chương 11

Ba thấy nhớ bố dù lúc còn sống, anh và bố không thật sự hợp nhau. Hồi trẻ, khi bố khuyên anh tìm một công việc gì đó vui vẻ, năng động anh đã kiên quyết gạt đi. Sự lựa chọn của anh đi ngược lại mong muốn của bố. Bố muốn anh hoạt bát thì anh lại đắm mình vào một thế giới suy tư. Bố muốn anh năng nổ, anh lại tìm một công việc trầm lặng. Bố muốn anh gần nhà anh lại ở một nơi rất xa. Khi anh bày tỏ ý định muốn viết lách và từ chối tất cả những định hướng hướng nghiệp, bố đã nổi giận và quát mắng anh rất nhiều. Đặc biệt, với cuộc hôn nhân tan vỡ của anh, bố đã rất buồn, ông muốn có những đứa cháu để vỗ về thì anh lại không thể, anh từ chối sự can thiệp của y học hoặc phương thức nào đó để có những đứa con.

Cũng chính vì thế đôi khi anh cảm thấy có lỗi với bố mẹ mình, dù đó chỉ là cá tính, khí chất của anh. Bố muốn anh là con người của cộng đồng, của gia đình, dòng họ nhưng anh thiên về bản thân mình. Anh muốn được tự do, nghĩ và làm theo ý muốn của mình. Anh không chống lại bố mẹ hay cộng đồng nhưng anh sống vì anh chứ không phải vì họ. Sự đau khổ hay sung sướng anh một mình gánh chịu và không cần đổ lỗi hay chia sẻ với ai, anh chịu trách nhiệm về đời mình.

Nhưng có những kỷ niệm khiến anh không thể không dằn vặt. Lúc còn nhỏ, Ba có một tập bản thảo, thơ và truyện ngắn, bố đã phát hiện ra anh lén lút viết lách và ông nổi giận, tất cả thành viên trong gia đình không ai đứng về phía anh, chỉ có trách mắng la hét, dè bỉu và chế giễu. Đam mê đầu đời của anh gần như lụi tàn sau cuộc bạo hành tinh thần đó.

Ba vĩnh viễn không viết nữa, vết thương tuổi thơ đã cho anh một cú chí mạng. Anh tìm một cách khác để giúp đỡ, nâng niu những người viết. Anh chọn nghề biên tập sách để được thỏa mãn những đam mê chữ nghĩa, anh mổ xẻ, chữa trị nó, làm cho nó hay hớm lên, cũng phần nào giải tỏa những khát vọng không thỏa mãn trong anh.

Mang nỗi đau âm thầm, Ba ít khi về thăm nhà. Thời sinh viên anh sống xa nhà và một năm chỉ về hai lần: nghỉ hè và tết, cả hai lần đó, anh đều ít trò chuyện với bố mẹ, không thể chia sẻ vì những suy nghĩ trái ngược.

Đó là trạng thái u uất không người đồng cảm. Ba lặng lẽ, gần như cô độc. Không có người giống mình, anh cũng không muốn san sẻ với ai, hình như những người xung quanh, cả bố mẹ và chị gái, đơn thuần là những người xa lạ buộc phải sống cùng nhà, ăn cùng mâm và làm một số việc cùng nhau.

Cả cuộc hôn nhân thất bại của mình, anh cũng không nói với ai. Vợ chồng anh suy nghĩ khác nhau, quan điểm trái ngược và một lần nữa anh thấy mình phải sống chung với người xa lạ.

Có lần bố hỏi anh về những đứa cháu ông mong chờ. Anh đã trả lời như một cái máy, dửng dưng lạnh lùng. Anh hiểu những tâm tư của bố nhưng anh không thể nói cho dịu dàng, mềm mỏng hơn. Anh đã không cố gắng, bằng một cách nào đấy, để thỏa mãn mong muốn của bậc sinh thành.

Anh đã không làm việc ấy, không phải anh ghét bỏ bố mẹ mà anh thấy rằng nếu làm điều đó anh sẽ giả dối với chính mình, anh không muốn diễn kịch để hài lòng một ai đó. Anh mua thức ăn ngon cho bố mẹ, gửi tiền về phụng dưỡng hàng tháng và chăm sóc tận tình khi bố mẹ ốm nhưng nhất quyết không tìm mọi cách để thòa mãn ước mong của bố mẹ: có những đứa cháu để ông bà bồng bế.

Như thế có phải là bất hiếu? Truyền thống dân tộc luôn đòi hỏi những đứa con để nối dõi tông đường. Không có con là tội bất hiếu lớn nhất, nhưng anh sẵn sàng cảm thấy có tội để được là chính mình.

Vì mặc cảm tội lỗi, anh luôn cố gắng làm vui lòng bố mẹ, chỉ cái ước nguyện lớn nhất thì anh từ chối. Anh từ bỏ viết lách, hứa sẽ trở lại quê hương khi nghỉ hưu và làm tất cả những nghĩa vụ của một đứa con nhưng có thêm một người vợ và sinh con thì anh không thể.

Anh biết mình vô sinh vào năm thứ ba trong cuộc hôn nhân. Vợ anh cũng không quá khao khát có con. Anh biết nếu muốn có con y học phải can thiệp, thụ tinh trong ống nghiệm hoặc biện pháp nào đó. Anh từ chối tất cả những phương pháp ấy. Việc đó, giống như giới hạn cuối cùng sự chịu đựng, nó đánh thẳng vào lòng tự tôn và tra tấn tinh thần. Anh biết nếu có con, đứa con sẽ nhắc nhớ về thứ anh không có được, sẽ là vật chứng vĩnh viễn của một thằng đàn ông khiếm khuyết, anh không chấp nhận điều ấy.

Rốt cuộc, anh một mình, sống tự do, có một vài người tình. Tất cả những người tình của anh, anh đều nói rõ cho họ rằng anh không thể có con và cũng không muốn một cuộc hôn nhân thứ hai. Nếu ai chấp nhận điều đó thì tiếp tục, còn nếu không, anh sẵn sàng rời bỏ, không nuối tiếc hay ân hận.

Một lần, mẹ kể về một cô gái đến nhà. Theo cái cách mẹ mô tả thì có thể là cô gái anh đã gặp ở thác nước trong rừng. Mẹ bảo, nếu anh lấy cô gái ấy thì sẽ dễ dàng có con.

Anh đã bật cười về suy nghĩ hồn nhiên đó. Mẹ đơn giản nghĩ rằng, sinh con là việc của đàn bà và đàn ông chỉ cần rót cái chất lỏng của anh ta vào người đàn bà là họ khắc có con, không cần biết thứ chất lỏng ấy chất lượng thế nào và người đàn ông có trục trặc gì không.

Chính vì thế mà anh rất nhớ mẹ. Ở một điểm nào đấy anh yêu mẹ hơn bố. Không phải vì sự phân biệt đối xử nhưng mẹ ít gay gắt với anh hơn. Bà học không nhiều và không dùng lý để nói chuyện với anh. Khi hỏi về công việc của con trai, bà chỉ hỏi đơn giản, đại loại lương anh có đủ sống không, anh ăn uống thế nào, ăn ngon ngủ tốt không. Bà không quan tâm tới các mối quan hệ của anh với đồng nghiệp, thăng tiến hay thụt lùi, không giống như cách bố anh vẫn hỏi.

Và như thế anh thấy được yên bình. Khi mẹ nhắc chuyện cô gái kia tìm mình, trong lòng anh bất ngờ rộn lên một ý nghĩ táo bạo. Hay là đi tìm và cưới Cầm.

Ba thở dài và đặt tay lên tập bản thảo. Có lẽ anh sẽ làm thế nếu tìm thấy cô gái. Nhưng anh đã không gặp lại Cầm suốt hai mươi năm qua. Dù có thể anh đã gặp nhưng sự thật có vẻ không như vậy.

Và nếu như anh già, chết đi thì sẽ sao nhỉ, thì cũng giống như bố anh thôi. Một tấm bia giản dị ở nghĩa trang, một dòng chữ khắc trên đá: Biên tập viên Ba, mất ngày... tháng... năm...

Nhưng anh không nghĩ đến cái chết, không phải anh bàng quan mà dần dần xem nhẹ nó. Anh đã chứng kiến cái chết của bố mẹ và những người khác nữa, không quá ghê gớm và đáng sợ như người ta vẫn kể. Những cái chết êm đềm và vĩnh viễn, nhưng liệu nó có nhẹ nhàng với anh không, anh chưa biết.

Ba tiếp tục đọc bản thảo, trực giác của anh không khác bao năm trước là mấy. Bản thảo này sẽ sửa chữa vài chỗ nhỏ rồi cho in. Anh sẽ thuyết phục để xuất bản hoặc nếu không, anh tự bỏ tiền ra in cũng được.

Và anh bỗng thấy khát khao và hào hứng như thể đó là quyển sách của chính mình, do anh viết ra. Giống như khi sáng tác được những bài thơ, những truyện ngắn hồn nhiên của tuổi thơ. Những dòng chữ, ý tứ đơn sơ nhưng là của riêng anh. Anh bỗng tìm được niềm vui sướng đã đánh mất trong nhiều năm. Anh thấy khoái cảm của sự viết và sáng tạo. Anh muốn làm như chính mong ước của anh.