Chương 20
B chịu kỷ luật vì đốt bản thảo của Mạo. Ông giám đốc đã phải lựa chọn giữa việc sa thải B hoặc buộc anh phải bồi thường. B là một nhân vật quan trọng của nhà xuất bản, thậm chí còn là một người kín tiếng và bảo thủ, nhiều tác giả rất tin B, họ chỉ chịu giao bản thảo nếu B là người biên tập. Mất B sẽ là thiệt hại đáng kể của nhà xuất bản, họ vừa mất Mạo, nay mất thêm một biên tập viên kì cựu nữa thì tổn thất quá lớn.
Giám đốc đã cân nhắc và chấp nhận cho B đền bù thiệt hại bằng tiền để anh khỏi mất việc. B phải trả một khoản tiền lớn hơn giá trị thật của cuốn sách.
B đã hủy hoại bản thảo gốc của Mạo và bản biên tập, anh đã xóa vĩnh viễn mọi dấu vết của nó. Anh thủ tiêu những miêu tả tỉ mỉ về căn phòng của anh, cá tính và con người anh. B đã xóa mọi vết tích mà người đồng nghiệp đã viết về anh.
Sau vụ hủy hoại đó, B từ chối gặp Ngọc một thời gian. B không sợ dư luận mà anh không thoải mái khi ở bên Ngọc. Anh vẫn nhớ cái đám cháy do việc đốt bản thảo gây ra. Người đồng nghiệp của anh viết tay trên một loại giấy tốt, những tàn quăn của giấy cong lại, tuyệt vọng trước khi thành tro bụi.
Có thể sự hủy diệt chỉ là tương đối, B đốt cháy, tiêu hủy bản gốc, nhưng biết đâu Mạo đã sao thêm thành vài bản nữa, cất giấu hoặc gửi một ai đó. Một ngày nào đó, vào một dịp thích hợp, những tài liệu ấy sẽ được công bố.
Nỗi ám ảnh về một bản án dành cho mình làm B thấy bất an. Anh không sợ việc xuất bản quyển sách nhưng điều anh sợ là toàn bộ con người, tính cách, thói quen và sở thích của anh sẽ bị phơi bày.
Nỗi lo sợ có quá nhiều người biết rõ về mình làm B kinh hoàng. Anh sẽ không còn một bí mật nào nữa, mọi ngóc ngách trong phòng, trang phục và thói quen của anh sẽ được trưng ra. B sẽ không còn là một con người cá nhân nữa, anh buộc phải hòa nhập vào cái thể giới biểu lộ bên ngoài.
Có những giấc mơ, B thấy Mạo trở về. Anh ta nhìn B, gần như cầu cứu. Đôi mắt anh ta đỏ ngầu, yếu đuối và quỵ lụy. Anh ta khẩn khoản cầu xin B, bằng một cách nào đó hãy khôi phục bản thảo của anh ta, bằng trí nhớ chẳng hạn.
B thường xuyên ở cơ quan hơn, anh làm việc, ăn ngủ ở nơi làm việc.
Một tối, B rời cơ quan. Anh đi theo tuyến phố quen thuộc. Anh lại thấy cô gái váy đen đi trước mặt, B đuổi theo cô ta.
Vẫn là cái quán cà phê ấy, cô gái chọn chỗ ngồi quen thuộc, chân cô ta thõng xuống, đung đưa. B chọn một vị trí thuận tiện để quan sát.
B nghe thấy tiếng cười rất to. Cách anh không xa, Mạo đang ngồi nói chuyện với cô gái bóng tối B đã quen mặt.
B quan sát anh ta, điệu bộ cử chỉ đều giống lần trước, chỉ có tiếng cười làm B bất ngờ, anh ta không bao giờ có thái độ lộ liễu như thế khi ở cơ quan và đây là lần thứ ba, B gặp anh ta ở nơi này với cô gái bóng tối, và điều ngạc nhiên là, theo lời mô tả của Ngọc, thì anh ta gần như liệt dương.
Nhưng tại sao anh ta ở đây? Chẳng phải anh ta đã chết rồi hay sao, Mạo đã tự tử bằng thuốc ngủ liều cao. B đã đến dự đám tang, thậm chí còn tham gia vào nhóm người khiêng quan tài.
Nhưng B cũng không chắc chắn những hình ảnh mình nhìn thấy là sự thật. Chẳng lẽ đó là ảo ảnh, cả cái đám tang kia cũng không thật, cái quan tài anh từng khiêng không có người bên trong, hoặc người nằm trong đó không phải là Mạo?
Thế còn bản thảo anh đã đọc và biên tập. Nó có thật không? B nhớ rất rõ cái trạng thái giận dữ khi trở thành đối tượng miêu tả vẻ bề ngoài, tính cách của mình cực kì tỉ mỉ. Sững sờ và căm giận.
Và người đàn ông đang cười thô lỗ và uống bia trước mặt anh kia là ai? Là Mạo hay một người nào khác. Hoặc B chưa từng đến quán cà phê này, anh đang ngồi im lặng trong phòng và tưởng tượng ra tất cả.
Cô gái ngồi trước mặt B động cựa, cô ta đang muốn về. Lần này B sẽ ra khỏi quán trước người đồng nghiệp. Kịch bản đang khác ải.
B tiến đến quầy thanh toán. Anh muốn ra trước và chờ cô gái, anh sẽ đối mặt với cô ta.
B phải đợi khá lâu cô gái mới bước ra. Nhưng cô ta đã ra bằng một cửa khác, rất nhanh.
B đi theo cô ta. Cô ta đi nhanh B đi nhanh, cô ta đi chậm B kìm bước, nhưng có vẻ cô ta chỉ muốn chế giễu anh.
B chăm chú nhìn theo cái váy đen, đèn phố loang loáng bắp chân. Chỉ cần nhanh hơn một chút hoặc chạy, B sẽ bắt kịp cô ta.
Cô ta qua một con phố, lại thêm một phố nữa. Đường phố vắng, nhiều cửa hiệu đã đóng nhưng cô ta chưa dừng lại.
B đi theo cô gái qua một phố nữa và anh thấy mỏi chân. Nếu cô ta đi tiếp anh sẽ không theo kịp, anh phải giáp mặt cô ta ngay bây giờ.
B bước nhanh hơn, anh vọt lên trước ba bước và quay ngoắt lại, đôi mắt anh tự tin và kiên quyết: trước mắt anh là Ngọc, cô bình thản nhìn anh.
“Em từ quán cà phê ra phải không?” B hỏi.
Ngọc nhìn anh không trả lời và bước tiếp, B lại chạy lên và chặn lại.
“Có đúng là em từ quán cà phê đi ra không?”
“Em có phải trả lời không?”
“Phải.”
“Em không nói.”
“Tại sao?”
“Vì sao cái gì cũng phải nói, anh đi theo em làm gì?”
“Anh không biết.”
“Vậy em cũng không biết liệu mình có đi ra từ quán cà phê hay không.”
“Em thách thức.”
“Đâu cần thế.”
B áp sát Ngọc, hình ảnh của Ngọc bỗng nhoè đi như ảo ảnh không giống với thường ngày và như một người hoàn toàn khác. B thấy bất lực và mệt mỏi, đúng lúc này, chính anh cũng không chắc chắn cô gái đang đứng trước mặt có phải là Ngọc hay không.
“Bây giờ em định đi đâu?”
“Em không biêt.”
“Anh đã đi theo em qua mấy phố.”
“Em cũng có cảm giác có người đi theo mình.”
B nắm tay cô gái và đẩy cô ta vào một góc tưởng. Anh định hôn nhưng cô gái đẩy anh ra.
“Tôi còn chưa biết anh là ai.”
“Tôi ư?”
“Đúng thế.”
“Tôi là ai?”
“Tôi làm sao biết anh là ai.”
B sững sờ nhìn lại mình. Quần áo anh mặc trên người là đồ quen thuộc. Người đứng trước mặt cô gái nhất định là B, không thể là người khác, B gần như xác quyết về điều đó.
“Bây giờ không phải là lúc tranh cãi,” người có thể là B nói.
“Đúng thế, chúng ta cần một chỗ nghỉ,” cô gái nói, “đêm đã khuya rồi.”
“Chúng ta hãy đến một khách sạn,” người có thể là B nói.
“Đồng ý,” cô gái nói, “chúng ta thuê một phòng nhưng đêm nay anh không được chạm vào tôi.”
“Vì sao,” người có thể là B nói.
“Vì tôi chưa chắc chắn anh là ai,” cô gái trả lời.