Chương 21
Ba còn trở lại vùng hồ tìm ông già vài năm sau đó, chuyến đi tìm con của anh miên man trong một thời gian dài trước khi anh quyết định chấm dứt vì không ra manh mối nào.
Anh đi tìm cố nhân trong một nỗi buồn man mác.
Khi ấy, Ba đến vùng hồ, từ trên đập cao, anh nhìn thấy một ngôi nhà bên mép nước nhưng không nhìn thấy con thuyền quen thuộc mà anh đã từng run rẩy ngồi trên đó uống rượu.
Mặt hồ, nước xanh thẳm yên bình, có vẻ như nước hồ cao và xanh hơn, vắng lặng, rợn ngợp.
Trong tầm mắt, Ba không thấy bất cứ ai, anh làm loa miệng gọi nhưng không tiếng đáp lại, có lẽ ông già không còn ở đó, đã chết, hoặc biến mất, mặt nước lạnh lẽo đáng sợ.
Ba đi dọc bờ đập, chênh chếch con đường mòn anh nhìn thấy một cái quán nhỏ. Một cô gái bày bán những đặc sản của vùng: măng khô, thịt gác bếp, rượu ngô, vài thứ cây thuốc, chục quả trứng gà màu hồng bé tí.
Ba vào trong quán, hỏi thăm cô gái về ông già. Cô gái có đôi mắt to, khuôn mặt tròn. Cô gái nghe câu chuyện của Ba, một lúc cô “ồ” một tiếng và kể cho anh nghe chuyện đã xảy ra với ông già đánh cá.
Đó là một ông già lập dị, ông ta dành dụm tiền của để xây ngôi nhà bên hồ, vợ ông ta đã bỏ đi, ông ta nghiện rượu nặng và nghe đâu đã từng đi tù trước khi đến sống ở vùng này.
Ba nói với cô gái rằng, anh nghe ông già kể vợ ông vì tham tiền đã bỏ ông nhưng cô gái không tin, cô bảo rằng ở vùng này, ai cũng cho rằng vì tính lập dị nên vợ ông ta mới đi biệt tích.
“Thế bây giờ ông già đâu rồi?”
“Ông ta chết rồi.”
“Sao cô không nói từ đầu?”
“Thì anh có hỏi ông ta sống hay chết đâu.”
Cô gái nói cho Ba biết ông già đó chết như thế nào. Rất nhiều ngày, những người mua cá không thấy ông đến. Họ ngược mặt hồ thì chỉ thấy một con thuyền neo sát nhà, rồi cất tiếng gọi nhưng không ai trả lời. Nghi là có chuyện chẳng lành, họ thuê thuyền để vào nhà ông, đến nơi, tất cả kinh ngạc vì ông đã chết khô như con cá bị hong trên lửa.
Cô gái kể, điều lạ lùng nhất là xác của ông không bị thối rữa và bốc mùi. Nó khô quắt như xác ướp, bộ quần áo còn nguyên, nhăn rúm vì không căng chặt nữa, ông già chết ngồi, lưng dựa vào ghế và có vẻ như đang nhìn ra ngoài.
Cái xác khô của ông già gây sự hiếu kỳ cho những người xung quanh, họ đến xem và bàn tán. Khi không tìm được bất kỳ người thân nào của ông, chính quyền địa phương đã đứng ra mai táng, họ chôn ông ngay cạnh hồ, trên một mô đất cao.
Cô gái rót cho Ba cốc nước hãm từ một thứ lá cây, nó hơi chát, giống mùi vị của một loại trà. Ba đề nghị cô gái nướng cho anh một ít thịt khô và bao giờ cũng sẵn rượu mang theo, anh nói sẽ uống một vài ly ngay trong quán của cô.
“Anh đừng uống rượu nhiều quá,” cô gái nói, “anh có biết vì sao xác ông già đó khô quắt lại không?”
Ba lắc đầu. Cô gái tiếp tục câu chuyện. Cô bảo người ta đồn đại rằng, ông già uống nhiều rượu, rượu ngấm vào da thịt ông. Khi ông chết, thịt da ông khô quắt vì không loại côn trùng nào dám lại gần vì sợ mùi rượu. Thậm chí người đầu tiên phát hiện ra xác của ông, khi anh ta mở cửa bước vào, ngôi nhà tỏa hơi rượu rất đậm, phải mở cửa cả tiếng đồng hồ, mùi rượu mới phai lạt đi.
“Hay nhỉ. Nếu tôi chết giống ông già đó, cũng không có ruồi nhặng đến bu bám.”
“Anh nói gở vừa chứ.”
Ba vừa nhai thịt khô vừa uống rượu và nghe cô gái kể chuyện. Sự ly kỳ về cái chết của ông già không dừng ở đó. Ba ngày sau khi người ta chôn cất ông, mười tám cậu thanh niên đã đến mộ ông và khóc, tất cả đều nhận ông là cha đẻ của mình.
“Có chuyện đó sao? Mười tám cậu thanh niên đến nhận ông là cha đẻ?”
“Đúng thế. Từ sáng sớm đến tối, mười tám chàng trai lần lượt đến, họ thuê người chèo thuyền ra thăm mộ ông và người lái thuyền hôm đó vớ bẫm.”
“Lạ thật, sao em biết?”
Ba nói và xé một miếng thịt khô đưa vào miệng, hình như câu chuyện là thứ dư vị làm cho miếng thịt đậm hơn.
“Thì người chèo thuyền hôm đó là chú em. Em biết việc ấy rõ lắm. Ông chú em hôm đó kiếm được nhiều tiền.”
Cô gái bảo ông chú cô, qua việc hỏi thăm những chàng trai đó, biết rằng ông già từng là lái xe đường dài, ông ta lang chạ với rất nhiều phụ nữ và nhiều phụ nữ tin rằng ông già là bố đẻ những đứa con của mình.
“Sao họ không tìm đến sớm hơn? Tại sao sau khi ông chết họ mới đến.”
“Em không biết, nhưng người ta đồn thổi là do tài sản. Họ nghĩ rằng ông già có nhiều tiền của để lại.”
“Thực sự thì chẳng có gì, ông già đã kể cho tôi, ngôi nhà là tài sản duy nhất của ông.”
“Nhưng ngôi nhà đấy thì không ai dám ở đâu.”
“Vì sao?”
“Vì sao à?” Cô gái nhìn Ba mỉm cười. “Người ta bảo cứ buổi tối ngôi nhà lại tỏa ra mùi rượu nồng nặc. Như thể ông ta vẫn sống và đang uống rượu.”
“Ra thế,” Ba bặm môi và uống hết ly rượu.
Ba ngỏ ý muốn thuê người chèo thuyền sang thăm ngôi nhà của ông già. Cô gái bảo giờ đây khó tìm người chèo thuyền. Cách đây hai năm, một nhà máy hóa chất ở đầu nguồn đã bí mật xả nước thải xuống hồ, cá tôm trong hồ chết trắng, những người đánh cá trên hồ đã bỏ nghề hoặc chuyển đi nơi khác. Bây giờ đó là một hồ nước chết, mặt nước lúc nào cũng xanh thẳm đáng sợ.
“Thế ông chú của em đâu rồi?” Ba hỏi.
“Ông ấy cũng bỏ nghề đánh cá rồi. Bây giờ ông ấy nấu rượu.”
“Thế cái thuyền bữa trước còn chứ?”
“Em vẫn thấy nó.”
Ba đã thuyết phục cô gái đóng cửa quán và đi tìm ông chú của cô. Ba trả cho ông ta một món tiền để ông ta gọi thêm một cậu thanh niên nữa, khênh con thuyền cũ kỹ lên bờ đập và thả xuống mặt hồ. Ông ta chở Ba đi thăm ngôi nhà và mộ ông già.
Lúc ở trên thuyền, người đàn ông bỗng nhìn Ba và hỏi:
“Rốt cuộc anh là ai, muốn gì ở ông già?”
“Tôi là một người bạn và muốn thăm ông thôi.”
Người chèo thuyền im lặng. Ba nhìn mặt hồ xanh lịm, dường như có một thứ ghê rợn và khủng khiếp đang ở phía dưới.
Nhiều năm sau, Ba vẫn nhớ lúc ấy. Khi người đàn ông nhảy lên bờ và cột thuyền vào một gốc cây, Ba đã phát hiện ra người chèo thuyền có đôi mắt giống hệt ông già và cơ thể anh ta cũng tỏa ra mùi rượu nồng đậm.
Ba đứng trước ngôi mộ và thở dài. Ngôi mộ bằng đất, chỉ có ba hòn đá xếp thành hình tam giác trên đỉnh.
Cỏ, cây bụi và vài loài hoa dại đang vươn ra những cành hoa bé tí.