Chương 24
B đã tìm cách truy bắt con sóc đực ấy. Nó đã dám vui hơn anh, thỏa mãn hơn anh. Rõ ràng một con vật, ví dụ như con sóc kia, nó tự do tự tại hơn hẳn anh.
B theo dõi hành trình của con sóc, anh thấy nó chuyển trên những cành cao trước cửa phòng, cũng có lúc nó biến mất mấy ngày trời. Anh mở cửa sổ, nhìn lên lùm cây nhưng không hề thấy bóng dáng chú sóc to bằng con mèo ấy đâu.
Nếu con sóc đã đi khỏi những lùm cây, biến mất vĩnh viễn trong thành phồ thì sao nhỉ.
Sẽ chẳng ai để ý đến sự biến mất ấy, có chăng duy nhất một người bận tâm, đó là anh.
Nhưng nếu như B, biên tập viên của nhà xuất bản bống dưng mất tích thì sự việc sẽ ra sao? Rõ ràng một con sóc mất đi thì dễ dàng hơn, sẽ chẳng ai để ý đến sự biến mất ấy, còn anh, B, dù là biên tập viên quèn, sự việc sẽ không đơn giản như vậy.
Nhưng nếu thực sự anh muốn trốn khỏi thế giới này thì sao, giống như cái bản thảo kỳ lạ anh đã từng nhận, đến tay anh rồi đột ngột mất tích và sau hai mươi năm sau mới trở lại. Nếu bây giờ B mất dấu vết, hai mươi năm nữa anh mới hồi lại, nghĩa là khi trở về anh một ông già thì sự thể sẽ thế nào.
B cảm thấy mình mất dần vai trò trong nhà xuất bản từ khi anh đốt bản thảo của Mạo, đồng nghiệp đã nhìn anh với một ánh mắt khác. Hình ảnh của anh giống như một con quái vật, một nhân vật không thể dung hòa, không thể lại gần, như một kẻ lập dị, đầy bí hiểm.
B đã suy nghĩ nghiêm túc tới sự biến mất của mình. Một ngày nào đó anh không xuất hiện nữa, người ta không thấy anh ở phòng làm việc, ở nhà hoặc bất cứ đâu, không có dấu hiệu bị bắt cóc hay ám hại, không một biểu hiện bất thường nào cả, đơn giản là mất dấu vết.
Đầu tiên, B nghiên cứu cách biến mất của con sóc đực, đã hai tuần anh không nhìn thấy nó.
Sự vắng mặt bình dị và lặng lẽ, con sóc không có dấu hiệu báo rằng nó sẽ mất tích. Nó là một sinh vật tự do và có quyền định đoạt số phận mình, nhưng còn anh, nếu anh đột ngột mất tích, nhà xuất bản hoảng loạn đôi chút. Ông giám đốc gõ cửa phòng không thấy anh trả lời, ông ta sẽ gọi điện thoại, không ai nghe máy hoặc điện thoại không liên lạc được. Ngọc sẽ gọi điện cho anh, cô tự thấy điều đó cần thiết hoặc ông giám đốc đề nghị hoặc cảnh sát yêu cầu vậy.
Nhưng anh sẽ biến đi đâu, bằng cách nào? Nếu anh ra nước ngoài thì hộ chiếu và vé máy bay của anh người ta sẽ biết, hoặc nếu anh đi đến một vùng xa xôi trong đất nước, camera ở các bến xe, bến tàu sẽ ghi lại hình ảnh của anh, các khách sạn nơi anh lưu trú sẽ ghi tên tuổi, số căn cước, như vậy anh khó mà mất dấu hoàn toàn được.
Chỉ còn một cách là anh tự xử lý mọi việc, anh không dùng đến phương tiện giao thông công cộng, anh sử dụng phương tiện cá nhân, không ở bất cứ khách sạn nào, cũng không ở nhà ai, anh tự làm một cái nhà hoặc đào một cái hang để giấu mình trong đó.
Nhưng tại sao anh lại muốn biến mất? Các bản thảo chưa làm xong, thỉnh thoảng anh nhận được vài cú điện thoại hỏi thăm và nhu cầu về đàn bà, anh phải xử lý thế nào?
B biết rằng mình sống trong mâu thuẫn, không phải bây giờ mà từ lâu rồi. Anh muốn trốn tránh xã hội nhưng anh phải cậy nhờ nó mà sống, anh muốn cô độc nhưng anh cần rượu và đàn bà. Anh không muốn nói chuyện với ai nhưng anh cần đọc sách.
B thở dài và nhìn cái lò sưởi trong phòng. Hay anh sẽ chui vào cái lò như một con gián, con chuột. Nếu anh là con gián, con chuột, nhu cầu đơn giản sẽ ít nguy hiểm hơn, vì thế anh sống sẽ dễ hơn.
Cái lò sưởi gợi cho anh những suy nghĩ nghiêm túc, nó là cái lò thiêu, cái lò kiểm duyệt. Bao nhiêu suy nghĩ, ý tưởng đã bị anh thiêu cháy ở trong đó. Chúng cháy đau đớn, biến dạng, thành vật chất khác nhưng anh không thấy xót thương chút nào hết.
Chính cái lò sưởi rộng hơn chục xăngtimét so với các lò sưởi khác trong tòa nhà này, như sự đo đạc cẩn thận và tỉ mỉ của người đồng nghiệp khốn khổ của anh, là một con quái vật. Anh không biết những người tiền nhiệm trong phòng này có đốt bản thảo để sưởi ấm không. Đất nước của anh không có một mùa đông quá lạnh, khí hậu nhiệt đới gió mùa, nhiệt độ hiếm khi xuống dưới 10°C, vậy có nhất thiết phải dùng lò sưởi trong mùa đông, hay đơn thuần nó là một dạng lò thiêu kiểm duyệt.
Anh đã nhìn thấy hình dạng gớm ghiếc của cái lò thiêu, khi anh ngà ngà say hoặc chán chường. Đó là khuôn mặt già cỗi của một lão già sống quá lâu, cái mũi khoằm và hai con mắt mờ dại, đôi mắt tố cáo sự già cỗi nhưng bản chất độc ác và cay nghiệt chưa phai nhạt đi.
B cúi người nhìn vào, đó là một cái lò hình chữ nhật xây gạch không trát vữa. Khói và mùi của những bản thảo bị đốt đã ám vào đó đầy muội đen. Anh nhổ vào lò một bãi nước bọt.
B rót cho mình ly rượu mạnh. Anh có một ngày làm việc nhàm chán, bản thảo cũ kĩ và sáo mòn. Sự tẻ nhạt của chúng khiến anh nghĩ tới sự hủy diệt.
Có tiếng chuông điện thoại, Ngọc ở đầu bên kia:
“Là em đây, anh có bận không?”
“Rảnh rỗi.”
“Chúng mình hẹn hò nhé?”
“Để làm gì?”
“Chẳng làm gì cả.”
B đóng cửa phòng, anh ra tới cầu thang và gặp Ngọc.
“Ta tới quán cà phê đi,” B nói.
B nắm tay Ngọc đi xuống cầu thang. Một vài ánh mắt nhìn theo nhưng anh chẳng bận tâm. Anh đã thành bức tường đá vô hồn mặc cho người ta nhổ bọt hay vẽ bậy lên nó.
Anh và Ngọc đi ra cái quán cà phê họ vẫn ngồi. Hình như có vài người chào hỏi nhưng anh không trả lời, anh thấy sợ phải cất tiếng hoặc bằng cách nào đó chứng minh mình là một sinh vật có mối liên hệ.
“Dạo này anh thế nào?” Ngọc nói khi anh đã ngồi yên vị trên cái ghế sô pha quen thuộc.
“Anh đang chết.”
“Sao thế?”
“Nói đúng ra là tâm hồn anh đang chết, anh chán thế giới này.”
“Tại sao?”
“Chẳng tại sao cả.”
Ngọc không hỏi thêm nữa, cô đã biết cách nói chuyện kỳ dị của B. Bao nhiêu năm nhưng chưa bao giờ cô thực sự hiểu được anh.
“Đã bao giờ em không thể hiểu nổi một cái gì đó chưa.”
“Chưa, à, thỉnh thoảng.”
“Giống như đọc một quyển sách ấy, có những lúc anh không tài nào nắm bắt được nó.”
“Nếu như vậy thì em không hiểu nổi, anh giống như một quyển sách dày cộm và khó hiểu. Anh đang nghĩ về sách à?”
“Không nhất thiết.”
“Thế thì tại sao?”
“Anh đang muốn giết người, Ngọc ạ.”
“Giết người cơ à?”
“Vì anh chán, thế thôi.”
Có một tiếng động trong quán cà phê, giống như tiếng lóc bóc trong phòng anh, nhỏ dần rồi câm bặt.